Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

BÀI THU HOẠCH tình hình triển khai thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn huyện thăng bình giai đoạn 1998 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.08 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam ra trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Nhân dân Việt Nam đã
anh dũng đấu tranh để giành thắng lợi liên tiếp từ cuộc chiến tranh này đến cuộc
chiến tranh khác. Ngay từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân tháng 8 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, Người sáng lập ra
Đảng cộng sản Việt Nam - lãnh đạo Đảng và nhân dân ta đoàn kết kết đấu tranh để
giành, giữ chính quyền. Người luôn quan tâm xây dựng, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Để xây dựng hệ thống chính trị ngày vững mạnh.
Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao về dân chủ và thực hành dân chủ. Người
cho rằng ''Dân chủ là quý báu nhất'', “Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để
có thể giải quyết mọi khó khăn''. Hơn nữa Người còn khẳng định : "Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Ðiều đó có nghĩa, quyền làm
chủ thuộc về nhân dân, nhà nước là nhà nước “của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân“'.
Nhận thức và quán triệt những lời chỉ đẫn của Bác, Ðảng ta đã sớm khẳng
định mục tiêu mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, coi đó là động lực của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chinh vì thể,
việc xây dụng và thực hiện dân chủ ở cơ sở là chủ trương quan trọng của Ðáng và
Nhà nước, có ý nghĩa đột phá thu hút sự tham gia của người dân, cũng cố hệ thống
chính trị ở cơ sở cũng như trung ương.
Từ khi chính quyền thuộc về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ngày một thêm gắn bó. Phát huy cao độ
quyền làm chủ của nhân dân, đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nước ta đã liên tục đạt được những thành quả to lớn trên
mọi lĩnh vực. Trong công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay, Đảng và Nhà nước ta
luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo ra sức mạnh to lớn,
góp phần quyết định vào sự thành công của cách mạng, và đã được cụ thể hoá các
văn bản pháp luật của Nhà nước, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động
viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn
định chính trị xã hội, tăng cường đại đoàn kết của toàn dân tộc, cải thiện dân sinh,


nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở
trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc
và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.
Với những nội dung đó, ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ chính trị đã ra chỉ thị số
30/CT-TW về “xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở”, tiếp theo để cụ thể hóa Chỉ thị
này, Thủ tướng chính phủ ra các nghị định 29/1998/NĐ-CP ngày 7/8/1998/; Nghị
định số 71/1998/NĐ-CP ngày 7/8/1998; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày
7/7/2003, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/06/2013 (thay thế Nghị định số
07/1999/NĐ-CP và Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007) và các văn bản
hướng dẫn về “Ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, nhằm phát huy sức sáng
1


tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
đoàn kết toàn dân tộc, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính
quyền, đoàn thể vững mạnh góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Quyền làm chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội đã được ghi
nhận trong hiến pháp 1992, bổ sung năm 2001 và hoàn thiện năm 2013: “Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”( Điều 3 Hiến Pháp 2013), “Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác
của Nhà nước”( Điều 6 Hiến Pháp 2013). Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội đã có Pháp
lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH 11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn; Đây là văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước ta ban hành
nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng chuyên quyền tạo ra động lực mạnh mẽ trong nhân dân,
góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội

chủ nghĩa. Qua quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực tế đã
cho thấy kết quả bước đầu là quan trọng
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta, phù hợp với yêu cầu bức thiết của cuộc sống hiện nay. Để thực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, các cấp, các ngành cần xây dựng chính quyền trong sạch vững
mạnh, có hiệu quả, khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, thiếu trách nhiệm, thiếu
gương mẫu, mất dân chủ trong giải quyết các công việc. Đội ngũ cán bộ cơ sở có
vai trò đặc biệt quan trọng nên cần được thường xuyên quan tâm đào tạo và bồi
dưỡng về văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và phương pháp công
tác cũng như tư tưởng đạo đức lối sỗng, đồng thời cần tăng cường vai trò của các tổ
chức quần chúng, đoàn thể cơ sở, các cộng đồng dân cư. Trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân tự quản, có cơ chế phát huy vai trò của đoàn thể quần chúng
trong việc tuyên truyền sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân để có chủ động, tự giác
thực hiện sáng tạo các quy định quy chế dân chủ cơ sở.
Với yêu cầu đó, trong thời gian qua, hệ thống chính trị cơ sở đã tích cực thực
hiện quy chế dân chủ, đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Những thành tựu nổi bật đó
là phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ ổn định. Từ đó
làm thay đổi nhanh chóng mọi địa bàn nông thôn và thành thị. Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định “Tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân; mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nuớc đều vì lợi ích
của nhân dân, cán bộ, công chức phái hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được
giao, tôn trọng dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực
hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan
2


đại diện của mình. Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao
trách nhiệm công dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội”.

Xuất phát từ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa –hiện đại hóa nông thôn,
tôi xin chọn đề tài: “Tình hình triển khai thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn
Huyện Thăng Bình giai đoạn 1998-2013” để làm bài thu hoạch thực tế

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ, DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin về dân chủ XHCN
Theo V.I.Lênin : Dân chủ là sự thống trị của đa số, có thể hiểu dân chủ được
nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ
không phải của một nhóm người, dân chủ được tổ chức dưới hình thức nhà nước, ở
đó nhà nước được nhân dân ủy quyền nắm và thực thi quyền lực. Trong nhà nước
đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý
nhà nước. Mức độ, phạm vi tham gia thực sự của quần chúng nhân dân vào công
việc quản lý nhà nước phản ánh được trình độ phát triển của nền dân chủ.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn ngữ, chữ viết con người đã biết diễn
đạt nội dung dân chủ. Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra
và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân. Nghĩa là dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ
không còn giữ nguyên nghĩa ban đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị
chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền trong
xã hội. Nó trở thành một hình thức nhà nước của một giai cấp thống trị nhất định
trong xã hội. Giai cấp thống trị cũ đã nhân danh cộng đồng, nhân danh lợi ích
chung định ra pháp luật, thao túng mọi quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân
dân. Bằng chứng là: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước,
lấy tên là nhà nước dân chủ - tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người

lao động là giai cấp nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ
“dân chủ”, tiếng Hy Lạp còn gọi là “Demos”, là “dân” và “Kratos”, là “quyền lực”
hoặc “sức mạnh”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có quyền lực của dân.
Nhưng “dân” lúc này theo quy định của pháp luật gồm có giai cấp chủ nô, tăng lữ,
thương gia, một số trí thức và người tự do, còn đại đa số nhân dân trở thành nô lệ
thì không được coi là dân.
Đến chế độ phong kiến, mặc dù khát vọng về dân chủ của người dân vẫn
cháy bỏng nhưng chế độ phong kiến không được thừa nhận là một chế độ dân chủ,
(dẫu chỉ là hình thức) mà đó là một chế độ quân chủ.
Trong chế độ TBCN, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn, có mang tên
chế độ dân chủ, nhà nước dân chủ nhưng về thực chất vẫn không phải là nhà
nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân mà chỉ là nhà nước của giai cấp Tư
sản, vẫn duy trì chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để bảo vệ lợi ích chủ
yếu của giai cấp tư sản
Chỉ đến khi CNXH ra đời, nhân dân lao động giành lại chính quyền và
TLSX, trở thành người làm chủ xã hội và lập ra nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa
4


để thực hiện quyền lợi của dân – tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự. Nền
dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất, gấp triệu lần dân chủ Tư sản.
Nhân loại từ lâu đời đã có quan niệm về dân chủ và quan niệm đó là việc
thực thi quyền lực của nhân dân.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác -Lê Nin về dân chủ thể hiện ở những quan
điểm sau:
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động
thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm :
Dân chủ là một nhu cấu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân.
Khi xã hội có giai cấp và nhà nước – Tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ

yếu qua nhà nước thì khi đó không có dân chủ chung chung, phi gia cấp siêu giai
cấp, “dân chủ thuần túy”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang
bản chất giai cấp thống trị xã hội. Nên dân chủ trong xã hội có giai cấp nó mang
tính giai cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập nên nền dân chủ đó, như : Dân
chủ chủ nô, dân chủ TS, dân chủ vô sản (dân chủ XHCN). Do đó từ khi có chế độ
dân chủ thì dân chủ luôn luôn tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù
chính trị.
Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị
cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy, tính giai cấp thống
trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ở
mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
Tóm lại dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước
phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã
hội chủ nghĩa là giải phóng con người để con người có thể thực hiện những quyền
tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn đề của xã hội.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước,quyền lực thuộc về nhân dân,
nhân dân tự tổ chức quyền lực Nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết
định những vấn đề quan trọng như bầu cử, bãi miễn các thành viên của nhà nước…,
kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước thông qua các hình thức dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện.
2.Bản chất của dân chủ XHCN
Chủ nghĩa Mác- Lê nin cho rằng, chuyên chính vô sản và XHCN về căn bản
là thống nhất. Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta thống nhất gọi
chuyên chính VS là nên dân chủ XHCN(vẫn thực hiện nội dung cơ bản của chuyên
chính VS vì Đảng ta quan niệm: “chuyên chính VS là quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động được thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng”)
.
5



Bản chất của dân chủ XHCN được thể hiện ở những điểm sau :
Bản chất chính trị: Chủ nghĩa Mác –Lê nin chỉ rõ, bản chất chính trị của nền
dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng của
nó đối với toàn xã hội nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích
riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : trong chế độ
dân chủ XHCN thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở
nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân …Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước
XHCN…Do đó, về thực chất là của nhân dân, do dân và vì nhân dân.
V.I. Lê Nin còn nhấn mạnh rằng : dân chủ xã hội là chế độ mà nhân dân ngày
càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. do vậy, dân chủ XHCN vừa mang
bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính chất nhân dân rộng rãi và tính dân tộc
sâu sắc.
Bản chất kinh tế: Dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất
XHCN đảm bảo, dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu, đáp ứng sự phát triển
ngày càng cao của LLSX trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn
ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN dù khác về bản chất kinh tế của các
chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế XHCN nó cũng
là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử đồng thời
loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó,
nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột…
Thực hiện dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để thực hiện dân chủ về
chính trị và văn hóa – tư tưởng. Thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa
cơ bản.
Bản chất tư tưởng văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin
làm nền tảng tư tưởng, đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa, văn hóa, tư
tưởng của nhân loại, do đó, đời sống tư tưởng - văn hóa của nền dân chủ CNXH rất
phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố hành đầu, thành
mục tiêu và động lực cho quá trình phát xây dựng CNXH. Bởi nó phát huy cao độ

tính tự giác và sức sang tạo to lớn của con người trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Quan niệm về dân chủ được
diễn đạt qua hai mệnh đề: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”.
Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó
trăm lần dân liệu cũng xong”.Dân làm chủ: đề cập đến năng lực và trách nhiệm của
dân. Cả hai đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân.
6


Người nói :“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ”;
“Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”;“Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều
thuộc về nhân dân. Xã hội đảm bảo điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực
sự dân chủ.
Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thể hiện
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó lĩnh vực chính
trị là quan trọng nhất nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của
nhà nước.
Dân chủ còn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội thì phải có cấu tạo
quyền lực xã hội mà ở đó người dân cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện,
một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của các giai cấp, tầng lớp, các
cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta:
+ Đối với giai cấp công nhân: công nhân có quyền thực sự trong các xí
nghiệp, làm chủ về tư liệu sản xuất, quản lý, phân phối sản phẩm lao động.
+ Đối với nông dân: nông thôn, nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân
phải được giải phóng thì mới có dân chủ thực sự.
+ Đối với tầng lớp trí thức: Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của trí thức

trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam và cho rằng họ có nhiệm vụ rất quan trọng
trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
+ Đối với phụ nữ: Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề giải phóng phụ
nữ, để phụ nữ bình đẳng với nam giới, thực sự tham gia tích cực vào các công việc
xã hội.
+ Đối với thanh thiếu niên: Hồ Chí Minh đề cao vai trò làm chủ đất nước của
thanh thiếu niên.
+ Đối với nhân dân tất cả các dân tộc: Hồ Chí Minh quan tâm đến việc đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân, của các dân tộc, phải làm cho các dân tộc làm
chủ đất nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa và thực hiện các dân tộc bình đẳng
về mọi mặt.
Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ, Hồ Chí Minh chú trọng đến xây dựng
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội; xây
dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh
chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị xã hội vì mục tiêu chung của sự
7


phát triển của đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị xã hội rộng rãi khác của
nhân dân:
+ Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết
để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Do đó, dân chủ trong Đảng trở thành yếu
tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
+ Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc bảo đảm
thực thi ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của
đất nước. Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ.
+ Các tổ chức mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham
gia quản lý xã hội.
Tất cả các tổ chức đó đều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ

cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng. Thực hành dân chủ rộng
rãi là trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nòng cốt là liên minh công nông - trí thức.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư
tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho toàn
bộ quá trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của Nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước phát
triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin kết hợp chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Hồ Chí Minh là Nhà nước thực
hiện quyền lực của nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động. Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là toàn dân, là tất cả đàn
ông, đàn bà, người già người trẻ , không phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn
giáo, Người cho rằng “ trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: "Tất cả quyền binh trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo". Xuất phát từ lòng tin sâu sắc vào truyền thống tốt đẹp của nhân
dân ta, cho dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn sau khi cách mạng mới thành công
- giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đang hoành hành; Người đề nghị Chính phủ
lâm thời "tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu...", “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc Nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều
có quyền đi bầu cử…Do bầu cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
8



Chính phủ, Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân”. Tức là Người đã thực
hiện ngay dân chủ trực tiếp, điều mà nền dân chủ tư sản phải trải qua mấy trăm
năm mới đạt được, mà không đợi đến lúc có đủ những điều kiện về kinh tế - xã hội
cho phép.
Sự thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu là sự
kiện đầu tiên trong lịch sử nhà nước của Việt Nam. Một Chính phủ như vậy nhất
định thể hiện được truyền thống đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí thống nhất cao của
toàn dân; Người nói: “Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ
rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm
việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ, cùng xây dựng một nước
Việt Nam mới. Chính phủ này là chính phủ toàn quốc có đủ tài Trung, Nam, Bắc
tham gia” . Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ngay từ khi ra đời là Nhà nước dân chủ kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân vì
dân. Cơ sở xã hội của Nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa nền tảng liên
minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là Nhà nước thực hiện chức năng chuyên
chính vô sản nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Xây dựng một Nhà nước của dân theo Bác Hồ nghĩa là: Tất cả quyền binh
đều thuộc về nhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia do nhân dân
phán quyết; tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp thông qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” . Đó là
những hình thức cơ bản của nền dân chủ; dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách
mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người: Nhà nước ta phải phát
triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi người công dân Việt
Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước. Như vậy, nền tảng xã hội sâu
rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là
yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là: Có
việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào

nhiều người theo hơn thì được, ấy là dân chủ.
Nhà nước do dân bởi vì “ lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước
muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”. Vì vậy Đảng ta luôn chủ
trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ,
tham gia tích cực vào việc quản lý Nhà nước.
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh có nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước
đều phải xuất phát và vì lợi ích của nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải làm
cho kỳ được; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Người chỉ rõ: chế độ ta
9


là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Cho nên
chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì
có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh. Xây dựng một Nhà nước vì
dân là một nhà nước không đặc quyền, đặc lợi, phục vụ nhân dân tận tụy, một nhà
nước trong sạch, chí công vô tư. Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền chính trị
liêm khiết, kiên quyết đấu tranh với ba thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng phí, quan
liêu. Một mặt Nhà nước phải thực hành dân chủ rộng rãi với nhân dân mặt khác
phải thực hành chuyên chính với mọi hành động xâm hại đến lợi ích của tổ quốc,
quyền làm chủ của nhân dân. Trong hàng loạt vấn đề được đề cập, Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh vấn đề bản chất xã hội chủ nghĩa, tính dân chủ, tính nhân dân,
tính nhân đạo của Nhà nước mà nhân dân ta xây dựng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân và vì dân còn phải là
nhà nước “công bộc của dân, gánh vác công việc chung của dân chứ không phải để
đè đầu cưỡi cổ dân như thời Pháp, Nhật” . Người chỉ rõ: bất kỳ ở địa vị nào, làm
công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta
mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy
chúng ta phải đền đáp xứng đáng cho nhân dân. Người dạy, để thực sự là “đầy tớ

của dân”, các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết
lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng bàn bạc kỹ và học
hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở
công bằng với dân và thực sự cần kiệm, liêm chính chí công vô tư.
Nhà nước của dân, do dân phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Theo Người: “Pháp luật là phép của dân, dùng để ngăn cản những hành
động có hại cho dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân” .
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị.
Giá trị trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức
quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Quan điểm Đảng Cộng sản về dân chủ XHCN
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá
trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa. “Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
10


bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng

trong mô hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lê nin về
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính đến các
đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu sâu và cụ thể hoá.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và do nhân dân làm chủ là 2 trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng.
Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta bắt nguồn từ chỗ ở nước ta tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
thể hiện lợi ích của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức đều
phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hoàn thành tốt
chức trách và nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Mọi hành vi vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc
đều phải được phê phán và nghiêm trị.
Dân chủ được Đại hội XI của Đảng xác định là một nội dung quan trọng và
cần thiết trong hệ các mục tiêu chung của công cuộc đổi mới xuất phát từ những
thành tựu và hạn chế, thời cơ và thách thức trong quá trình thực hiện dân chủ ở
nước ta những năm qua. Trong những thành tựu, trước hết phải nói đến sự phát
triển và hoàn thiện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân
ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã tạo được những chuyển biến tích cực và
tương đổi ổn định trong nhận thức, phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử
của cán bộ đảng viên và nhân dân theo hướng dân chủ. Yêu cầu và điều kiện thực
hiện dân chủ của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội ngày càng rộng lớn. Ý
thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng cũng
như mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế trong việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Các giá trị mới trong văn

hoá chính trị, văn hoá dân chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử ngày càng cao. Dân chủ
không dừng lại ở quan điểm và định hướng mà còn trở thành phương pháp làm
việc, phong cách giao tiếp và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên và công chức
với nhân dân cũng như của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và công chức.
Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày tăng, không khí dân chủ
11


ngày càng lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà
nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về
quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn
quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của
nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi,
phân phối và hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận ngày
càng hiện thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các
cuộc bầu cử mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nội dung và hình thức, phương pháp và công cụ thực hiện dân chủ ngày
càng sâu sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở
rộng và phát triển đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu
chí và chuẩn mực. Về hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm
kiếm và khẳng định được những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở
cả hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực
hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc
hoàn thiện các hình thức dân chủ gián tiếp, nhất là đổi mới và hoàn thiện tổ chức và
hoạt động các cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến mạnh mạnh mẽ các hình thức
dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở.
Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền
tảng pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở
thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích

của Nhà nước và của nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận
hành trên cơ sở các thể chế; tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ
quan, duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong
chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung
và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,
vấn đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế quy
định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy
chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong các mối
quan hệ chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định, ngày càng
được lượng hoá, ngày càng được trở nên hiện thực.
Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ không
còn dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng
cấp, ngành, địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức
để trở nên thực chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ
ràng. Dân chủ và nhất là dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khoá vạn năng để giải
quyết mọi vần đề khó khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

12


Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết
toàn dân, đất nước ta đã vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Cùng với sự phát triển
không ngừng của đất nước, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế, cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Trong thế
và vận hội mới Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội
chủ nghĩa:

Đối với Hồ Chí Minh, tất cả mọi việc dù khó khăn đến mấy nhưng biết dựa
vào sức dân thì bao giờ cũng thành công. Đó là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người và được thể hiện qua hai câu ca đơn giản, dễ hiểu:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong ”
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, cô đọng và dễ hiểu, dễ thực
hiện. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ, nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển theo hướng triệt để, rằng
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được
trao quyền, nghĩa là quyết định cuối cùng vẫn là ở nhân dân. Nhân dân trao quyền
lực cho Nhà nước qua bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
bằng hình thức bỏ phiếu kín. Nhưng nhân dân giữ lại quyền quyết định cuối cùng.
Điều đó, được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đòi hỏi kiên quyết thực
hiện quyền bãi miễn, rằng “nhân dân có quyền bãi nhiễm đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”.
Trên cơ sở những quan điểm của các tác giả kinh điển và chủ tịch Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thể đưa ra một số kết luận sau:
13



- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là “quyền lực của nhân dân” là “chính quyền của
nhân dân lao động”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cái thuộc bản chất của chế độ ta,
của nhà nước kiểu mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa;
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ toàn diện, có nội dung phong phú,
được phát triển trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Nhưng thực
chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng
rộng rãi của những người lao động vào công cuộc quản lý Nhà nước và của xã hội.
- Sự tham gia của nhân dân và quản lý nhà nước và xã hội được thực hiện
thông qua các hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là
hình thức mà qua đó nhân dân thực hiện sự “ủy quyền”, giao quyền lực của mình
cho người, tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Những người và tổ chức ấy đại
diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp là
hình thức nhân dân tham gia trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với những công
việc quan trọng của địa phương, cơ quan, đơn vị. Do vậy, nó có vai trò rất quan
trọng trong quá trình dân chủ hóa nhà nước và xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ trong xã hội là một trong nội dung
lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc khẳng định
dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng Nhà nước và
nhân dân.
Đảng ta đã luôn luôn không ngừng giữ gìn và phát huy dân chủ, đề cao
quyền làm chủ của nhân dân lao động, coi đây là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu và ghi trong Nghị
quyết vấn đề dân chủ là: xây dựng một Nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa” vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối

quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của
Đảng; mọi đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước đều phải
phản ảnh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có
trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng
và Pháp luật của Nhà nước. Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ,
trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân”.

14


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Nâng cao
ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội
của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ
trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật,
kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Quan tâm hơn nữa
việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”.
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện,
trước hết và chủ yếu thông qua nhà nước của mình. Để có dân chủ thực sự, Đảng ta
khẳng định: Trong chủ nghĩa xã hội, dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau,

pháp luật phải là “bà đỡ” của dân chủ, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ
định nhau, mà trái lại, chúng nằm trong sự thống nhất biện chứng là điều kiện, tiền
đề để tồn tại và phát triển của nhau.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay luôn gắn
liền với việc xây dựng và hoàn thiện không ngừng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta cho rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà nước
của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là
chủ thể của quyền lực, hệ thống chính trị là thiết chế đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân. Vì vậy, mức độ thực hiện quyền dân chủ của nhân dân phải được xem là thước
đo đánh giá tính đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng. Sứ mệnh lịch sử của Đảng
cộng sản cầm quyền là lãnh đạo làm sao để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn,
dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trong công cuộc đổi mới hiện nay dân chủ và chủ nghĩa xã hội ngày càng
gắn bó chặt chẽ với nhau.

CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ HUYỆN
THĂNG BÌNH GIAI ĐOẠN 1998-2013
1. Khái quát đặc điểm tình hình địa phương:
15


1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
Đại Quang là một xã miền núi nằm về phía tây của Huyện Đại Lộc, cách
trung tâm huyện lỵ 7 km, tổng số dân là 10.682 nhân khẩu.
Phía đông giáp xã Đại Nghĩa, phía Tây giáp xã Đại Đồng, phía Nam giáp
sông vu Gia, Phía bắc giáp dãy núi Sơn Gà.
Toàn xã có 10 thôn, có Thôn Đồng Me nằm xen kẻ với các thôn của xã Đại
Đồng là thôn xa nhất cách trung tâm xã gần 02 km.

1.2 Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội:
1.2.1 Về hệ thống chính trị:
Đảng bộ xã Đại Quang có 13 chi bộ trực thuộc, trong đó có 09 chi bộ thôn,
01 chi bộ HTX Nông nghiệp, 01 chi bộ Doanh nghiệp, 01 chi bộ Quân sự, 01 chi
bộ Cơ quan xã.
Ban chấp hành Đảng bộ có 11 đồng chí, Ban thường vụ có 03 đồng chí lãnh
đạo trên tất cả các lĩnh vực của địa phương.Tổng số đảng viên của Đảng bộ có 173
đồng chí, trong đó nữ có 37 đồng chí.
Trong những năm qua toàn thể đảng viên trong Đảng bộ luôn đoàn kết nhất
trí một lòng quyết tâm xây dựng xã nhà vượt qua những khó khăn, ổn định về đời
sống kinh tế cũng như chính trị, phát triển văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, trật
tự an toàn xã hội được giữ vững. Từ những thành tựu đã đạt được Đảng bộ xã Đại
Quang đã nhiều năm liền được công nhận là Đảng bộ “Trong sạch vững mạnh”.
Hiện nay Ban chấp hành Đảng bộ xã đã phát hành lịch sử Đảng bộ xã giai đoạn
1930-1975, 1975-2010, và gần đây nhất Đảng bộ xã đã phát hành tập sách Đại
Quang nhân vật và sự kiện tập 1.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội đã không ngừng được củng cố, kiện toàn và
tăng cường phát huy hiệu lực trong việc lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội.
Cán bộ xã Đại Quang có 40 người. Trong đó 23 cán bộ công chức và chuyên
trách và 17 cán bộ không chuyên trách. Những cán bộ chuyên trách và công chức
của xã đều được đào tạo đạt chuẩn quy định (đều có bằng chuyên môn từ trung cấp
trở lên và bằng trung cấp chính trị). Còn những cán bộ không chuyên trách là cán
bộ dự nguồn nên vừa làm, vừa học nâng cao trình độ để đảm bảo đạt chuẩn quy
định.
1.2.2 Đặc điểm kinh tế-xã hội:
Tổng diện tích tự nhiên 3680,6 ha, diện tích đất Nông nghiệp là 509,26 ha,
đất lâm nghiệp là 2299 ha, đất phi nông nghiệp là 559,81 ha, đất chưa sử dụng là
312,5 ha.
16



Toàn xã có 2.914 hộ, 10.628 nhân khẩu. Trong đó nam: 5311 người, nữ 5371
người. Tốc độ tăng dân số bình quân hằng năm 1,2%. Mât độ dân số: 229
người/Km2.
Lao động trong độ tuổi: 6270 người. Trong đó lao động Nông nghiệp: 4.517
hộ còn lại là lao động ngành nghề và dịch vụ
Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và quản lý điều hành của
chính quyền, cộng với sự nổ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân trong toàn xã đã
đưa nền kinh tế xã nhà tăng trưởng khá cao với tốc độ phát triển kinh tế bình quân
hàng năm là 15%, đời sống nhân dân được ổn định và ngày càng cải thiện đáng kể.
Văn hóa - xã hội có nhiều khởi sắc. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật
tự an toàn xã hội luôn đảm bảo, công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo được kịp thời, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền ngày càng
được củng cố.
Thực hiện theo tinh thần Nghị quyÕt Đại hội Đảng bộ huyện Đại Lộc nhiệm
kỳ 2000- 2005 là phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành huyện công nghiệp và
Đại hội Đảng bộ xã Đại Quang lần thứ XV, XVI đã đề ra là phấn đấu đÕn năm
2015 cơ bản trở thành xã công nghiệp. Trên tinh thần ấy, Đảng bộ và nhân dân x·
nhà đã không ngừng phấn đấu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, an
ninh quốc phòng, nhằm tạo tiền đề để thực hiện thành công Nghị quyết. Tính đến
nay Đại Quang đã đạt được những thành quả sau:
* Trên lĩnh vực kinh tế:
Giá trị tổng sản phẩm xã hội đến năm 2012 ước thực hiện 71,82 tỷ đồng, đạt
85% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân dân.
Cơ cấu của từng ngành là: công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 70%, ngành
nông nghiệp: 15%, ngành thương mại dịch vụ và du lịch: 15%. Tổng giá trị sản
xuất trên địa bàn ước đạt 169 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người là 13 triệu
đồng / năm
Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, xác định đây là ngành kinh tế mũi

nhọn, xã chủ trương khai thác tiềm năng của từng ngành, từng thành phần kinh tế
để phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo hướng kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, đáp ứng nhu cầu đời sống, giải quyết việc làm, đảm bảo nâng cao đời
sống nhân dân, xây dựng nông thôn mới.
Về thương mại – dịch vụ đạt, với mục tiêu đưa thương mại – dịch vụ thành
thế mạnh của xã, xã đã chủ trương xây dựng chợ Cầu Chìm thành chợ trung tâm
17


của xã, đồng thời phát triển các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu đời sống cho nhân
dân.
Về nông nghiệp đạt, xã chủ trương phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa
hiệu quả và bền vững trên cơ sở giải quyết tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm của
nhân dân trên địa bàn. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, xã đã tiến hành chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, cơ giới hóa vào trong sản xuất nông nghiệp như
mua máy gặt đập liên hợp nhằm góp phần vào nông nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
* Trên lĩnh vực văn hoá xã hội:
Đối với công tác phát động phong trào xây dựng thôn văn hóa, gia đình văn
hóa đến nay trên địa bàn xã đã có 9/9 thôn được xây dựng cụm văn hóa với nhiều
hạng mục công trình, 85% gia đình đạt văn hóa, 20% tộc họ, 35% tổ đoàn kết đạt
danh hiệu văn hóa,… với những kết quả đạt được như trên kết quả cho đến nay
toàn xã đã có 7/10 thôn đạt thôn văn hóa cấp huyện, 2 thôn đạt văn hóa cấp tỉnh.
Về công tác giáo dục – y tế:
Toàn xã có 05 trường học: Trong đó trường mầm non có 02 cơ sở bán trú và
07 phòng học ở 07 thôn đang trong giai đoạn chuấn bị các điều kiện để đạt chuẩn
quốc gia, có 02 trường tiểu học và 01 trường trung học cơ sở đã được công nhận
trường chuẩn quốc gia, 01 trạm y tế đã được công nhận chuẩn quốc gia vào năm
2008, tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 45%; 01 đài truyền
thanh phát song FM chuyên thu, phát tin tức từ đài huyện và những tin tức hoạt

động của địa phương đặt tại Trung tâm nhà văn hóa của xã và một hợp tác xã dịch
vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Chính sách an sinh xã hội ngày càng đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân.
* Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng:
Ban chỉ huy Quân sự xã đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và
công tác quân sự địa phương: duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, sẵn
sàng chiến đấu phòng không bảo vệ tết nguyên đán, ngày thành lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam và các ngày lễ lớn.
Xây dựng lực lượng đảm bảo số lượng và chất lượng theo Nghị định 184/CP
của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 171/BQP và kế hoạch, chỉ tiêu huyện giao.
Tổng lực lượng là: 82đ/c ( Trong đó: 08 nữ); lực lượng DQCĐ: 27 đ/c (Trong đó 04
nữ), lực lượng DQBC: 15 đ/c; lực lượng CĐTC: 40 đ/c (trong đó: 03 nữ).
Tham gia tốt công tác tập huấn tại trường quân sự tỉnh Quảng Nam, huấn
luyện chính trị quân sự do Huyện đội tổ chức, tham gia huấn luyện lực lượng dân
quân; hoàn thành tốt công tác diễn tập chiến đấu trị an trên địa bàn. Ngoài ra các
18


công tác như: hậu cần- kỷ thuật; công tác Đảng, Đoàn, công tác chính trị đảm bảo
thực hiện thường xuyên, liên tục. Thực hiện tốt công tác đăng ký độ tuổi 17 hằng
năm đạt chỉ tiêu huyện giao. Thực hiện tốt công tác tuyển quân, giao quân
I. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW
Sau khi tiếp thu Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, các nghị định của
Chính phủ, các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Quyết
định số 99-QĐ/HU ngày 23/10/1998 về thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện
quy chế dân chủ ở xã, thị trấn, tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt để triển khai, quán
triệt và bàn kế hoạch tổ chức thực hiện. Hằng năm, Ban Thường vụ Huyện uỷ
thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện QCDC cơ sở huyện; đồng
thời chỉ đạo Đảng uỷ các xã, thị trấn kiện toàn hoặc thành lập mới Ban chỉ đạo thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đến nay, Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC cơ sở huyện
được kiện toàn do đồng chí Phó Bí thư thường trực Huyện uỷ làm Trưởng Ban chỉ
đạo; 22/22 xã, thị trấn đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở.
Xác định việc triển khai thực hiện QCDC có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương, chính quyền
từ huyện đến xã, thị trấn tích cực chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. UBND huyện Thăng Bình xây
dựng Kế hoạch số 282/KH-UB về triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở. đồng thời
chỉ đạo Phòng Tài chính – Kế hoạch hướng dẫn việc công khai về thu chi ngân sách
xã, thị trấn; Phòng Văn hoá – Thông tin hướng dẫn xây dựng quy ước, hương ước,
tộc ước văn hoá; Phòng Nội vụ tham mưu cho UBND huyện theo dõi chỉ đạo, đôn
đốc việc triển khai của các địa phương; Mặt trận, các đoàn thể phát huy vai trò
nòng cốt trong công tác tuyên truyền cho cán bộ, đoàn viên, hội viên về thực hiện
QCDC cơ sở.
Công tác kiểm tra, giám sát và sơ, tổng kết việc triển khai thực hiện QCDC
cơ sở được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 2008, Ban Thường vụ
Huyện uỷ đã chỉ đạo các TCCS Đảng tổ chức tổng kết đánh giá kết quả triển khai
thực hiện; đồng thời tổ chức giám sát việc triển khai thực hiện tại một số địa
phương, đơn vị và tổ chức hội nghị tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 30CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Năm
2013, UBND huyện đã tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Ngoài ra, Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC huyện đã thực hiện 11 cuộc
kiểm tra việc thực hiện QCDC tại 11 địa phương, 9 đơn vị hành chính sự nghiệp
và 5 doanh nghiệp; có 22/22 xã, thị trấn tự kiểm tra việc thực hiện QCDC tại địa
phương mình.
II. Kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở
19


1. Tình hình thực hiện QCDC ở xã, thị trấn
1.1 Kết quả thực hiện

Sau 15 năm thực hiện QCDC đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Cấp uỷ
đảng, chính quyền các xã, thị trấn đã nghiêm túc triển khai, tổ chức thực hiện có
hiệu quả các nội dung về QCDC, niêm yết công khai các nội dung quy định để dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, cụ thể:
UBND xã, thị trấn cơ bản đã thực hiện nghiêm túc những nội dung công
khai để dân biết như chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nhất là các công trình dự án đầu tư trực tiếp cho cơ sở, các nguồn vốn
nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, các chính
sách hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, các loại quỹ, các
khoản phí, lệ phí, các khoản đóng góp khác. Hình thức công khai qua hệ thống
truyền thanh, các cuộc họp thôn, tổ, các cuộc tiếp xúc cử tri, thông qua cán bộ
tuyên truyền, tóm tắt nội dung công khai niêm yết tại công sở, nơi công cộng ...
Các địa phương đã tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân dân, tạo điều kiện
để người dân hiểu rõ hơn quyền, nghĩa vụ có trách nhiệm hơn trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Đối với những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp như mức đóng
góp xây dựng nhà văn hóa cộng đồng, đường giao thông liên thôn, dồn điền đổi
thửa, bình chọn các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, xây dựng các công
trình phúc lợi liên quan trực tiếp đến người dân... nhân dân tin tưởng, tích cực tham
gia, đạt được những kết quả đáng phấn khởi.
Nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định chủ yếu bao gồm: xây dựng quy ước, hương ước, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
trưởng thôn, bản, tổ trưởng dân phố, thành viên ban thanh tra nhân dân, ban giám
sát đầu tư cộng đồng; dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch kế
hoạch sử dụng đất, phương án đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái
định cư... được thực hiện qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp,
họp thôn, tổ dân phố hoặc qua hòm thư góp ý.
Năm 2012, 132/132 thôn, tổ dân phố đã có quy ước xây dựng thôn, tổ văn hoá và
đã được UBND huyện công nhận; 13/132 thôn, tổ được công nhận thôn, tổ văn hoá;
34.445/47.972 gia đình văn hoá; 124 tộc đã tổ chức phát động xây dựng “Tộc văn

hóa”; có 132/132 Trưởng thôn được tín nhiệm bầu và được UBND cấp xã công nhận;
có 22/22 xã, thị trấn đã thành lập Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng
đồng và được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã công nhận.
Việc giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua hoạt động của Ban
Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng. Hoạt động của Thanh tra nhân
dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng đã phát huy tác dụng tích cực, đã phát hiện
20


một số trường hợp vi phạm, có dấu hiệu vi phạm và kiến nghị với chính quyền kịp
thời giải quyết ổn thỏa.
Tính đến nay đã có 22/22 xã - thị trấn đã triển khai thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa” bước đầu đáp ứng được nhu cầu của công dân.
Việc niêm yết công khai các thủ tục hành chính theo từng lĩnh vực. Công tác giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được duy trì thường xuyên; tổng số đơn thư khiếu
nại, tố cáo trong 15 năm qua trên địa bàn huyện là 2.108 đơn, các đơn thư của nhân
dân chủ yếu tập trung vào các vấn đề liên quan đến quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong giải quyết tranh chấp đất đai, xin lại đất ở, đất vườn, khiếu nại
việc bồi thường hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng, các chính sách người có công với cách mạng, cứu trợ lụt bão,... trong đó
thuộc thẩm quyền giải quyết của huyện là 399 đơn và đã được giải quyết thoả đáng.
1.2 Vai trò, tác động của việc thực hiện QCDC cơ sở đối với phát triển
kinh tế, văn hóa- xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh ở địa phương
Trong 15 năm qua, việc thực hiện QCDC cơ sở đã tác động tích cực đến phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh ở địa phương, thể hiện qua các
mặt sau:
Việc xây dựng và thực hiện QCDC đã góp phần phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, làm cho nhân dân nhận thức đúng hơn về quyền và nghĩa vụ của công
dân, tạo ra bước chuyển biến mới tích cực về xây dựng cộng đồng dân cư; góp
phần khắc phục thói quen trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; nhân dân cùng bàn bạc,

chủ động xây dựng phương án tổ chức sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây
trồng, vật nuôi, xây dựng hương ước, quy ước, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, giữ
gìn an ninh trật tự, phát huy thuần phong, mỹ tục, tình làng, nghĩa xóm.
Góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản
lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chấn chỉnh
phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng
quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu với nhân dân, phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; đặc biệt phương pháp quản lý hành chính chuyển dần sang dân chủ, công khai,
đã giúp cho quyền làm chủ của đảng viên, cán bộ, công chức được mở rộng, kỷ
cương pháp luật được tăng cường; nội quy, kỷ luật hành chính được thực hiện khá
tốt, nội bộ cơ quan đoàn kết, ý thức phục vụ nhân dân được nâng cao; góp phần
tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân; góp phần chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, tôn giáo, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thông qua thực hiện QCDC ở cơ sở, nhân dân tiếp tục phát huy quyền làm
21


chủ, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc
tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân tham gia, ủng hộ các hoạt động phục
vụ cho việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội; đã góp phần củng cố và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, làm lành mạnh
các mối quan hệ xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân với chế độ, tạo ra những
động lực mới, góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ gắn với phát triển kinh
tế, văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh; diện mạo các vùng nông thôn
trong huyện thay đổi rõ rệt, văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, quốc phòng, an ninh
được giữ vững; đời sống của đại bộ phận nhân dân trong huyện ngày càng được

nâng lên.
Có thể nói, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thời
gian qua đã được đề cao, phát huy được khả năng, trí tuệ, công sức của các tầng lớp
nhân dân tham gia các phong trào thi đua lao động, sản xuất, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp
phần xây dựng và phát triển huyện nhà.
2. Tình hình thực hiện QCDC trong hoạt động của cơ quan
2.1 Kết quả thực hiện
Quán triệt Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị định 71-NĐ/CP của
Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp đã tổ chức quán
triệt và triển khai thực hiện QCDC gắn với quá trình thực hiện Pháp lệnh Cán bộ
công chức, thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng; đồng thời đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, cải tiến nội dung phương pháp làm việc, giáo dục nâng
cao tinh thần trách nhiệm trước công việc và thái độ phục vụ nhân dân của công
chức.
Việc tổ chức hội nghị cán bộ công chức được thực hiện nề nếp, nghiêm túc.
Hầu hết các đơn vị hành chính sự nghiệp đều bổ sung, hoàn chỉnh quy chế hoạt
động, nhiều đơn vị xây dựng quy định cụ thể việc sử dụng điện thoại, ô tô công,
mua sắm tài sản công, quyền hạn chi tiêu tài chính, tiếp khách, tuyển dụng lao
động, công chức, điều động, bổ nhiệm cán bộ... đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan, cấp ủy, gắn thực hiện QCDC với công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, đoàn thể, với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Các cơ quan, đơn vị có điều kiện ở một số lĩnh vực đều bố trí phòng tiếp dân,
phòng giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động phục vụ nhân dân.
Hầu hết cán bộ, công chức nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện
QCDC, công tâm trong công việc, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước pháp luật,
trước lãnh đạo cơ quan về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.2 Vai trò, tác động của việc thực hiện QCDC trong hoạt động của cơ
quan

22


Việc thực hiện QCDC trong hoạt động của cơ quan, đơn vị đã góp phần tạo
bầu không khí dân chủ, cởi mở, phát huy được trí tuệ tập thể, trí tuệ của từng công
chức trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, đảm bảo được sự
đoàn kết, nhất trí trong nội bộ cơ quan, xây dựng được môi trường làm việc thân
thiện, văn hóa công sở.
Việc thực hiện QCDC trong hoạt động cơ quan, đơn vị đã giúp cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo hoàn thiện hơn về phẩm chất chính trị, năng lực công
tác; phát huy tốt vai trò của tổ chức Đảng, Công đoàn trong việc thực hiện quyền
làm chủ của tập thể và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của cán bộ,
công chức.
3. Tình hình thực hiện QCDC ở doanh nghiệp nhà nước, công ty cô
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
3.1 Kết quả thực hiện
Các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn huyện đều thực hiện tốt
QCDC nhất là việc thực hiện các quy định về công khai thu, chi tài chính, chế độ
chính sách, tiền lương, tiền thưởng, chính sách cán bộ, chế độ khen thưởng, kỷ luật,
thực hiện thỏa ước lao động tập thể đúng luật lao động và các hướng dẫn của cấp
trên, tạo nhiều chuyển biến tích cực nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
người lao động.
Việc bổ nhiệm các chức danh giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng trong
các doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp đều thông qua việc lấy ý kiến tín nhiệm. Vai
trò giám sát của tổ chức công đoàn, thanh tra nhân dân thực hiện đúng chức năng
nhiệm vụ đã quy định.
Vai trò của tổ chức công đoàn và các đoàn thể thể hiện thông qua việc giáo
dục động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tham gia
tích cực các phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi tại đơn vị và các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do địa phương phát động. Các phong trào

văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao đều được lãnh đạo các doanh nghiệp quan tâm
hỗ trợ. Các doanh nghiệp đều thành lập Ban thanh tra nhân dân và vai trò kiểm tra
giám sát của tổ chức Công đoàn được tăng cường.
3.2 Vai trò, tác động của việc thực hiện QCDC ở doanh nghiệp nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
Thời gian qua, việc thực hiện QCDC ở doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đã tạo điều kiện để người lao động được biết,
được tham gia ý kiến, được quyết định và giám sát những vấn đề có liên quan đến
quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động; đã góp phần nâng cao
trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý doanh nghiệp, công ty đối với người lao
động; tạo điều kiện để các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội của doanh
nghiệp, công ty hoạt động theo quy định của pháp luật trong việc thực hiện quyền
23


dân chủ cho người lao động; đồng thời, đã thiết lập mối quan hệ lao động hài hoà,
ổn định, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tranh chấp lao động trong quá trình sản
xuất, kinh doanh.
Có thể nói, việc thực hiện QCDC ở doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn không chỉ tạo điều kiện cho người lao động phát huy
quyền làm chủ của mình, đẩy lùi tiêu cực, tạo lòng tin cho người lao động yên tâm
lao động sản xuất, mà thông qua việc thực hiện QCDC trong công ty đã gắn bó hơn
trách nhiệm giữa người quản lý và người lao động trong việc chăm lo đẩy mạnh
hoạt động sản xuất, kinh doanh; người quản lý không ngừng nâng cao trách nhiệm,
chủ động, sáng tạo hơn trên cương vị của mình; người lao động nhận thức được
những khó khăn trong nền kinh tế thị trường, từ đó có sự chia sẻ, đồng lòng, xác
định tư tưởng phấn đấu vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, công ty, tích
cực tham gia các phong trào thi đua lao động, sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, thực hành tiết kiệm, cùng nhau xây dựng doanh nghiệp,
công ty ngày càng phát triển, góp phần nâng cao đời sống cho người lao động.

III- Nhận xét chung
1- Ưu điểm
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp được thường
xuyên; công tác phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận và các ban, ngành đoàn thể
được thực hiện chặt chẽ. Ban chỉ đạo thực hiện QCDC từ huyện đến cơ sở được
củng cố, kiện toàn. Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở nhiều địa phương đã
làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến Chỉ thị số 30-CT/TW, Pháp lệnh 34 và các
nghị định của Chính phủ về thực hiện QCDC ở cơ sở trong đoàn viên, hội viên và
nhân dân.
- Việc thực hiện QCDC ở cơ sở từng bước phát huy hiệu quả, góp phần củng
cố niềm tin của dân đối với cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương.
- Nhiều cơ quan, đơn vị tích cực đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm
bớt phiền hà cho nhân dân.
2- Khuyết điểm
- Vai trò, trách nhiệm của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể ở cơ sở vẫn chưa phát huy đúng mức; một số ít chưa nhận thức đầy đủ các
quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa
cũng như tính cấp bách, lâu dài của vấn đề dân chủ; do đó công tác triển khai, tuyên
truyền và thực hiện có nơi, có lúc chưa đồng bộ, còn hình thức.
- Một số địa phương chưa kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện QCDC cơ sở hoặc
Ban chỉ đạo hoạt động chưa hiệu quả; chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát
việc triển khai thực hiện QCDC cơ sở.
- Việc thực hiện QCDC gắn với cải cách thủ tục hành chính, phong cách, lề
24


lối làm việc của cán bộ, công chức đã có tiến bộ, song còn nhiều hạn chế phải khắc
phục, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức trách nhiệm cao trong
phục vụ nhân dân, hiệu quả công tác thấp.
- Công tác triển khai thực hiện QCDC ở công ty cổ phần và công ty TNHH

còn hạn chế.
- Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về quyền làm chủ của mình.
Việc thực hiện dân chủ chưa gắn quyền lợi với nghĩa vụ công dân, có khuynh
hướng quan tâm đến quyền lợi hơn nghĩa vụ, dân chủ chưa gắn với kỷ cương, phép
nước.
3- Nguyên nhân
* Nguyên nhân ưu điểm:
- Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ Chính trị, là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng
dân, được nhân dân tích cực hưởng ứng, đây là một yếu tố quan trọng thúc đẩy cho
việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân.
- Hầu hết đảng uỷ và chính quyền từ huyện đến cơ sở thường xuyên lãnh
đạo, chỉ đạo, triển khai những chủ trương, biện pháp đúng đắn để thực hiện quy chế
dân chủ, kịp thời phát huy tính dân chủ trong nhân dân. Sự phối hợp đồng bộ của
cả hệ thống chính trị trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện
QCDC ở cơ sở, tạo được bước chuyển từ sự thống nhất của hệ thống chính trị, đến
sự đồng thuận trong nhân dân.
- Đối với các cơ quan đơn vị đã có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp
giữa cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan, các tổ chức đoàn thể, kết hợp tốt việc tổ chức thực
hiện QCDC ở cơ sở với cải cách thủ tục hành chính và thực hiện Pháp lệnh cán bộ
công chức.
* Nguyên nhân khuyết điểm:
- Nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận,
các đoàn thể đối với việc xây dựng và thực hiện QCDC chưa đầy đủ, còn thiếu
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, phối hợp trong tổ chức thực hiện.
- Nhận thức về xây dựng và thực hiện QCDC gắn với cải cách thủ tục hành
chính của một số tập thể, cá nhân chưa cao; trình độ, năng lực của một bộ phận cán
bộ, công chức còn hạn chế, chưa đề cao ý thức, trách nhiệm trong việc phục vụ
nhân dân.
- Các công ty cổ phần và công ty TNHH trên địa bàn huyện chủ yếu là công
ty vừa và nhỏ, sức sản xuất chưa lớn, khối lượng công việc chưa ổn định, số người

lao động không nhiều, lại thường xuyên biến động. Bên cạnh đó, một số công ty
chưa thành lập được tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn hoặc mới được thành lập,
chưa có kinh nghiệm, tâm lý ngại va chạm nên chưa đảm bảo thực hiện tốt QCDC
nói chung và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động nói riêng.
25


×