Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Lịch sử văn minh trung quốc Nguyên Minh Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.34 KB, 5 trang )

10. Nhà Nguyên
Chia làm 3 giai đoạn: Đế quốc Mông Cổ (1201 – 1271), Nhà Nguyên (1271 – 1368) và nhà Bắc Nguyên
(1368 – 1402).
Năm 1206 Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn) thống nhất Mông Cổ, lập quốc tại Mạc Bắc, định quốc
hiệu là Đại Mông Cổ Quốc, sau nay được tôn xưng là Nguyên Thái Tổ (trị vì từ 1206 – 1227). Trong thời kì
trị vì, Thiết Mộc Chân đã 3 lần suất quân (1205, 1207, 1209-1210) và buộc Tây Hạ phải xưng thần. Năm
1210, Mông Cổ và nhà Kim đoạn giao, sang đến năm 1211 thì chiến tranh Mông-Kim chính thức bùng nổ.
Năm 1213, Mông Cổ tiến công Cao Ly, ép Cao Ly lui về đảo Giang Hoa. Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân
đã đem lãnh thổ của Mông Cổ mở rộng lên khắp Trung Á trong suốt thời gian trị vì. Ông đem những lãnh
thổ này phân chia cho trưởng tử Truật Xích, thứ tử Sát Hợp Đài, tam tử Oa Khát Đài và tứ tử Đà Lôi, Oa
Khát Đài trở thành người kế thừa đại hãn. Năm 1227, Thành Cát Tư Hãn bệnh mất, Đà Lôi giám quốc.
Đà Lôi giám quốc 2 năm, đến năm 1229 thì Oa Khát Đài được tôn làm Đại hãn của Mông Cổ, sau này
được tôn xưng là Nguyên Thái Tông. Từ năm 1231 – 1234, Mông Cổ liên minh với Nam Tống tiêu diệt nhà
Kim. Tháng 11 năm 1241, Oa Khoát Đài Hãn mất, Hoàng hậu Thoát Liệt Ca Na giám quốc. Tháng 3 năm
1246, trong Đại hội Khuruldai, con của Oa Khoát Đài là Quý Do trở thành đại hãn của Mông Cổ, sau này
được tôn xưng là Nguyên Định Tông. Tháng 8 năm 1248, Quý Do mất, Hoàng hậu Hải Mê Thất lập người
trong tộc là Thất Liệt Môn giám quốc. Tuy nhiên, trong đại hội vào tháng 7 năm 1251, do Bạt Đô và Ngột
Lương Hợp Thai ra sức ủng hộ dòng Đà Lôi, khiến Thất Liệt Môn thuộc dòng Oa Khoát Đài để mất hãn vị.
Mông Kha kế thừa hãn vị, sau được tôn xưng là Nguyên Hiến Tông.
Mông Kha sau khi tức vị vào năm 1252 đã phân phó chư vương thuộc dòng Đà Lôi quản lý các khu vực,
cho em là Hốt Tất Liệt tổng lĩnh Hán địa. Năm 1258, Cao Ly trở thành nước phiên thuộc của Mông Cổ.
Cùng năm đó, Mông Kha Hãn tuyên bố phân binh thành ba lộ nam chinh Nam Tống. Năm sau (1259),
Mông Kha Hãn chiến tử tại thành Điếu Ngư thuộc Hợp Châu.
Hốt Tất Liệt lúc này đang lãnh đạo 1 trong 3 lộ quân tiến hành nam chinh. Khi biết tin Mông Kha từ trần
thì đã đình chỉ tiến công để quay về Mông Cổ tranh vị. Tháng 12 – 1271, Hốt Tật Liệt sau khi dẹp tan nội
loạn, giữ vững Hãn vị thì đã đổi quốc hiệu từ Đại Mông cổ quốc thành Đại Nguyên, kiến quốc triều
Nguyên, xưng hiệu Nguyên Thế Tổ (trị vì 1271 – 1294). Những năm sau đó, trong số bốn hãn quốc lớn
(Khâm Sát, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài, Y Nhi) thì có ba hãn quốc không phụng mệnh lệnh của Hốt Tất
Liệt, Đế quốc Mông Cổ hoàn toàn giải thể. Đến thời kì Nguyên Thành Tông các hãn quốc mới thừa nhận
trên danh nghĩa rằng hoàng đế triều Nguyên là Đại hãn.
Năm 1276, triều Nguyên công phạt Nam Tống. Tháng 3 – 1279, Nam Tống mất, triều Nguyên thống nhất


khu vực Trung Quốc, kết thúc cục diện phân liệt kéo dài hơn 500 năm từ sau loạn An sử thời Đường.
Nguyên Thế Tổ từ trần vào năm 1294, con thứ ba là Thiết Mục Nhĩ được sự ủng hộ của trọng thần mà kế
vị, hiệu xưng Nguyên Thành Tông. Tháng một năm 1307, Nguyên Thành Tông từ trần, qua một hồi chính
biến thì Hải Sơn (cháu của Nguyên Thế Tổ, được Nguyên Thế Tổ tin dùng) được em trai là Ái Dục Lê Bạt
Lực Bát Đạt và Hữu thừa tướng Cáp Lạt Cáp Tôn tôn lên làm vua, xưng Nguyên Vũ Tông. Năm 1311,
Nguyên Vũ Tông do chìm đắm trong trụy lạc, uống rượu quá độ mà từ trần, Hoàng thái đệ Ái Dục Lê Bạt
Lực Bát Đạt kế vị, tức Nguyên Nhân Tông.
Nguyên Nhân Tông hết sức nỗ lực nhằm cải biến cục diện tài chính khô kiệt, chính chế hỗn loạn từ thời
Nguyên Vũ Tông, ông thi hành chính sách "dĩ Nho trị quốc", đồng thời giảm bớt người thừa trong bộ


máy, tăng cường trung ương tập quyền để chỉnh đốn triều chính. Năm 1320, Nguyên Nhân Tông từ trần,
Hoàng thái tử Thạc Đức Bát Lạt tức vị, tức Nguyên Anh Tông. Năm 1323, nghĩa tử của Thiết Mộc Điệt Nhi
(một mưu thần thời Nguyên Nhân Tông) là Thiết Thất nhân thời cơ Nguyên Anh Tông đến Thượng Đô
tránh nóng, tại Nam Pha ở phía nam Thượng Đô thích sát Nguyên Anh Tông, sử xưng Nam Pha chi biến,
dòng hậu duệ của Nguyên Nhân Tông từ đó không có khả năng đoạt lại hoàng vị. Dã Tôn Thiết Mộc Nhi là
con trưởng của Cam Ma Lạt, là người trấn thủ Hòa Lâm, ông suất binh nam hạ, giết loạn thần thích sát
Nguyên Anh Tông đồng thời xưng đế, tức là Thái Định Đế.
Tháng bảy năm 1328, Thái Định Đế từ trần tại Thượng Đô. Hoài Vương Đồ Thiếp Mộc Nhĩ đến Đại Đô kế
vị, tức là Nguyên Văn Tông, nhưng Yến Thiếp Mộc Nhi và Bá Nhan ủng hộ lập Chu vương Hòa Thế Lạt làm
vua, đã suất quân nhập Đại Đô, buộc Nguyên Văn Tông nhường ngôi. Tuy nhiên, Yến Thiếp Mộc Nhi hạ
độc giết Nguyên Minh Tông, phục vị cho Nguyên Văn Tông, sử xưng Thiên Lịch chi biến.
Năm 1332, Nguyên Văn Tông từ trần, Yến Thiếp Mộc Nhi lập con thứ của Minh Tông là Ý Lân Chân Ban
còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tức Nguyên Ninh Tông. Tuy nhiên, Nguyên Ninh Tông tại vị không được hai
tháng thì mất, con trưởng của Nguyên Minh Tông là Thỏa Hoan Thiếp Mục Nhĩ làm hoàng đế, tức là
Nguyên Huệ Tông, còn gọi là Nguyên Thuận Đế.
Trong thời kỳ từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Vũ Tông, quốc lực triều Nguyên đạt đỉnh, về quân sự thì
bình định Tây Bắc, song thất bại khi tiến hành các chiến dịch chinh phạt Nhật Bản và các quốc gia Đông
Nam Á, nhất là thất bại trong ba lần đưa quân nam hạ xâm chiếm Đại Việt. Trung kỳ, hoàng vị triều
Nguyên nhiều lần thay đổi, chính trị không đi vào quỹ đạo. Năm 1351 thời Nguyên Huệ Tông thì khởi

nghĩa Khăn đỏ bùng phát. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sau khi lập nên triều Minh đã phái đại
tướng Từ Đạt dẫn quân bắc phạt, công hãm Đại Đô. Triều đình nhà Nguyên đào thoát đến Mạc Bắc, sử
gọi là Bắc Nguyên. Năm 1388, Bắc Nguyên Hậu Chủ bỏ quốc hiệu Đại Nguyên, Bắc Nguyên mất.

11. Nhà Minh
Nhà Minh (23/01/1368 – 25/04/1644) là triều đại cuối cùng do người Hán kiến lập trong lịch sử Trung
Quốc. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sau khi tiêu diệt các thế lực quần hùng, tại phủ Ứng Thiên đăng
cơ, quốc hiệu Đại Minh, do hoàng thất họ Chu, nên còn được gọi là Chu Minh. Đầu thời kiến quốc, Minh
Thái Tổ Chu Nguyên Chương định đô tại phủ Ứng Thiên (nay là Nam Kinh), đến năm Vĩnh Lạc thứ 19
(1421), Minh Thành Tổ Chu Đệ dời đô đến phủ Thuận Thiên (nay là Bắc Kinh), kinh sư cũ đổi thành Nam
Kinh.
Thời kỳ đầu triều Minh, qua chính sách nghỉ ngơi lại sức của Chu Nguyên Chương, quốc lực triều Minh
khôi phục nhanh chóng, sử xưng Hồng Vũ chi trị. Vê mặt triều chính, ngay khi vừa lên ngôi Minh Thái Tổ
đã thủ tiêu toàn bộ công thần, đem sự chuyên chế của hoàng đế triều Minh vượt trên các triều đại trước
đó tại Trung Quốc. Năm 1398, Minh Thái Tổ từ trần, Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn tức vị, niên hiệu Kiến
Văn, tức Minh Huệ Tông. Một loạt các vương hầu bị Minh Huệ Tông không giết thì phế làm thứ dân, Yên
vương Chu Đệ trước tình hình đó đã lấy danh nghĩa "thanh quân trắc, tĩnh nội nạn" để khởi binh, cuối
cùng nam hạ chiếm lĩnh kinh sư, đó là Tĩnh Nan chi biến. Năm 1402 Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ,
niên hiệu Vĩnh Lạc. Minh Huệ Tông không rõ tung tích giữa đám cháy lớn trong cung thành. Thời kỳ Minh
Thành Tổ Chu Đệ, quốc thế đạt đỉnh, những năm Vĩnh Lạc khoa trương lãnh thổ, còn phái khiển Trịnh
Hòa bảy lần hạ Tây Dương, học giả hiện đại gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế.
Sau khi Minh Thành Tổ từ trần, trưởng tử là Chu Cao Sí tức vị, tức Minh Nhân Tông, niên hiệu Hồng Hi.
Minh Nhân Tông tuổi đã cao, trị vì được gần một năm thì từ trần. Sau khi Minh Nhân Tông từ trần,


trưởng tử là Chu Chiêm Cơ tức vị, là Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức. Thời kỳ Nhân Tông và Tuyên
Tông cũng là thời hưng thịnh, sử xưng Nhân Tuyên chi trị.
(Minh Tuyên Tông tin dùng bọn hoạn quan, phá bỏ quy tắc từ thời Thái Tổ là hoạn quan ko đc dự triều,
khiến bọn Vương Chấn lộng hành)
Năm 1435, Minh Tuyên Tông từ trần, con là Chu Kỳ Trấn kế vị khi mới chín tuổi, tức Minh Anh Tông, niên

hiệu Chính Thống. Năm 1449, thủ lĩnh bộ lạc Ngõa Lạt là Dã Tiên suất quân nam hạ phạt Minh. Minh Anh
Tông nghe lời hoạn quan Vương Chấn ngự giá thân chinh và bị bắt. Tin tức truyền về triều đình, cùng
năm, các đại thần tôn em của Anh Tông là Chu Kỳ Ngọc tức vị, tức Minh Cảnh Đế (hay Minh Đại Tông),
niên hiệu Cảnh Thái. Năm 1450 Minh Anh Tông được phóng thích, nhưng Minh Đại Tông lại không muốn
nhường ngôi, hai huynh đệ đối lập nghiêm trọng. Năm 1457, thừa cơ Minh Đại Tông mắc trọng bệnh,
Minh Anh Tông phát động binh biến, đoạt lại ngôi vua.
Năm 1464, sau khi Minh Anh Tông từ trần, con ông là Chu Kiến Thâm tức vị, tức Minh Hiến Tông, niên
hiệu Thành Hóa. ( Minh Hiến Tông mắc bệnh nói lắp, ít thịnh triều, ham mê Vạn Quý Phi, thời kì này
nhiều bè đảng gian loạn càn quấy triều chính)
Năm 1487, Minh Hiến Tông từ trần, con là Chu Hữu Đường kế vị, tức Minh Hiếu Tông, niên hiệu Hoằng
Trị. Trong thời gian tại vị, ông tiến hành canh tân triều chính, khiến thói xấu từ thời Minh Anh Tông trở đi
được loại trừ, được tán tụng là "Trung hưng chi lệnh chủ". (tuy nhiên hậu kì Hiếu Tông lại phung phí tiền
bạc, quốc khố thâm hụt nghiêm trọng, bọn hoạn quan lại trỗi dậy)
Năm 1505, Minh Hiếu Tông từ trần, con là Chu Hậu Chiếu tức vị, đó là Minh Vũ Tông, niên hiệu Chính
Đức. (Vũ Tông ham chơi, bỏ bê triều chính. Nội loạn, Bắc thì có giặc Lỗ, Nam có giặc Oa, Vũ Tông ham
chơi nên tuyệt tự, phải lấy dòng phụ nhập vào dòng chính). Năm 1520, Minh Vũ Tông lấy cớ xuất chinh
Giang Tây để xuống phương nam du ngoạn, trên đường về kinh thì bị rơi xuống nước khi đang đi thuyền
nên nhiễm bệnh, sang năm 1521 thì từ trần.
Sau khi Minh Vũ Tông từ trần, cháu họ của Minh Hiếu Tông là Chu Hậu Thông kế thừa đại thống, đó là
Minh Thế Tông, niên hiệu Gia Tĩnh. Năm 1566, Minh Thế Tông từ trần, Hoàng thái tử Chu Tái Hậu tức vị,
tức Minh Mục Tông, niên hiệu Long Khánh. Sau khi tức vị, Minh Mục Tông trước sau tín nhiệm trọng
dụng các danh thần. Triều Minh bắt đầu tiến vào thời kỳ Trung hưng, sử xưng Long Khánh tân chính.
Năm 1572, Minh Mục Tông đột nhiên từ trần, Hoàng thái tử Chu Dực Quân kế vị khi mới gần 9 tuổi, tức
Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch.
Do tranh chấp lập thái tử, Minh Thần Tông bất mãn cực độ đối với đại thần, năm 1587 bắt đầu lấy việc
không thượng triều để trả đũa, chỉ xử lý một số sự kiện trọng yếu. Năm 1620, Minh Thần Tông từ trần.
Thái tử Chu Thường Lạc đăng cơ, tức Minh Quang Tông, niên hiệu Thái Xương, tại vị chỉ được một tháng.
(do ham mê sắc dục, lại thêm thái giám dâng lên thuốc xổ, sau đó phục dụng hồng hoàn mà đột tử)
Sau khi Minh Quang Tông từ trần, Hoàng trưởng tử Chu Do Hiệu kế vị, tức Minh Hi Tông, niên hiệu Thiên
Khải. Trong thời gian Minh Hi Tông tại vị, chính trị càng hủ bại đen tối. Năm 1627, Minh Hi Tông không

cẩn thận rơi xuống nước mà mắc bệnh trọng, không lâu sau vì thuốc của Hoắc Duy Hoa mà từ trần, em là
Tín vương Chu Do Kiểm kế vị, tức Minh Tư Tông, niên hiệu Sùng Trinh.
Thời Hi Tông, đám hoạn quan làm loạn triều cương, sau khi Tư Tông kế vị thì bị diệt trừ. Tuy nhiên, do Tư
Tông có quyết sách sai lầm, cùng với nội ưu ngoại hoạn, triều Minh cuối cùng mất vào tay Lý Tự Thành


vào năm 1644. Sau đó, chính quyền Nam Minh rồi Minh Trịnh tiếp tục tồn tại trong mấy thập niên, kết
thúc khi triều Thanh chiếm lĩnh Đài Loan.

12. Nhà Thanh
Nhà Thanh là một triều đại do dòng họ Ái Tân Giác La ở Mãn Châu thành lập. Khi đó, Mãn Châu là một
địa danh nằm tại phía bắc bán đảo Triều Tiên và phía Đông Bắc Trung Quốc. Hiện nay, vùng đất này bị
phân chia giữa khu vực Viễn Đông Nga với Đông Bắc Trung Quốc. Nhà Thanh cũng là triều đại phong kiến
cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc và Mông Cổ.
Triều đại này từng được tộc người Nữ Chân (đứng đầu bởi Nỗ Nhĩ Cáp Xích) xây dựng với quốc hiệu Đại
Kim vào năm 1616 tại Mãn Châu - sử sách gọi là nhà Hậu Kim. Cho đến năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi
quốc hiệu thành Đại Thanh, và mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á cũng như các khu vực xung quanh.
Về phía nhà Minh, hoàng đế Minh Tư Tông đã treo cổ tự vẫn, lúc này Ngô Tam Quế, tướng nhà Minh đã
mở cửa đầu hàng nhà Thanh. Lực lượng này đã đánh tan quân nổi loạn của Lý Tự Thành vào ngày 27
tháng 5 năm 1644. Cũng chính từ đây, nhà Thanh chiếm được Trung Nguyên dưới thời vua Thuận Trị.
Hoàng đế Khang Hi (khoảng 1662 - 1722) lên ngôi khi mới tám tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu
tiên ông được bà của mình là Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều.
Thời vua Khang Hi nổi tiếng với sự kiện loạn Ngô Tam Quế. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm.
Dù vậy vẫn bị triều đình đàn áp, sử sách gọi Loạn Tam Phiên.
Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính (trị vì 1723 - 1735) và con trai ông Hoàng đế Càn Long (trị vì
1735 - 1796) đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai
quản 13 triệu kilômét vuông lãnh thổ. Sau khi Khang Hi qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư
của ông là Ung Thân vương Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhà
cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt.
Error! Bookmark not defined. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Vào năm Càn Long thứ 60

(1796), Càn Long Đế do không muốn thời gian trị vì của mình lớn hơn người tổ phụ Thanh Thánh Tổ
Khang Hi mà mình ngưỡng mộ, đã thiện nhượng cho Gia Khánh Đế để lên làm Thái thượng hoàng,
nhưng vẫn tiếp tục nắm quyền quyết định các việc lớn, sử gọi là Huấn chính biện pháp. Trong thời gian
trị vì của mình, Gia Khánh đã có những hành động cố gắng khôi phục lại triều Thanh sau một thời gian
dài bị lũng đoạn bởi Hòa Thân và chống nạn buôn thuốc phiện ở Trung Hoa.
Năm Gia Khánh thứ 24 (1820), ngày 2 tháng 9, Gia Khánh Đế băng hà, con trai thứ hai lên ngôi lấy hiệu là
Đạo Quang. Thời kỳ cai trị của ông gắn liền với sự kiện rất quan trọng trong lịch sử nhà Thanh đó là cuộc
Chiến tranh Nha phiến và ngăn chặn truyền bá đạo Công giáo vào Trung Hoa. Cuộc chiến tranh này đã
mở đầu cho việc các nước phương Tây xâm nhập và xâu xé Trung Quốc. Thời kỳ của ông cùng cha là Gia
Khánh Đế báo hiệu thời kỳ suy vong của Đại Thanh, nên được đời sau gọi là Gia Đạo trung suy.
Năm 1850, Đạo Quang từ trần, Thái tử Dịch Trữ lên ngôi, cải niên hiệu là Hàm Phong. Hàm Phong Đế
được đánh giá tuy còn trẻ nhưng chính trị siêng năng, muốn vực dậy cơ đồ Đại Thanh sau thời Đạo
Quang Đế nên tiến hành canh tân cải cách quan viên.


Năm 1861, Hàm Phong băng hà, Tải Thuần trở thành vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Thanh. Thế nhưng
quyền bính thực sự đều nằm hết trong tay mẹ, tức Thái hậu Từ Hi. Tải Thuần (tức Đồng Trị) do ham mê
sắc dục mà qua đời ở tuổi 18 (năm 1875), Thái hậu Từ Hi cùng với Thái hậu Từ An liền giáng chỉ đưa Tải
Điềm (4 tuổi) vào cung, cho làm con nối nghiệp rồi đưa lệnh kế vị ngay năm ấy, lấy niên hiệu là Quang Tự.
Từ Hi Thái Hậu đã nắm quyền suốt 47 năm, cùng Võ Tắc Thiên và Lã Hậu được xem như những người phụ
nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài. Năm 1898, Quang Tự Đế vận
động Bách nhật Duy tân, đối với Từ Hi Thái hậu mâu thuẫn gay gắt, thậm chí còn cùng với Khang Hữu Vi
bí mật âm mưu ám sát Thái hậu. Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Thái hậu tiếp tục là nhà
lãnh đạo tối cao. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung
Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An.
Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền
trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi
mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10
tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính
phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời.

Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh.
Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối với Trung Quốc, hoà nhập với văn
hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Nhà Thanh chinh phục và
trở thành triều đình cai trị của: Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng
(1751), Tân Cương (1759); hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Tuy nhiên, sức mạnh quân
sự của họ đã giảm sút trong thế kỷ 19, và phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi loạn và
những thất bại trong chiến tranh, nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Nhà Thanh bị lật đổ sau
cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với
nhiều sự phản kháng buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế cuối cùng, Phổ Nghi, ngày 12 tháng 2
năm 1912.



×