Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Ảnh hưởng của âm nhạc Chopin trong nghệ thuật piano Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.21 MB, 146 trang )

VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
------------------------------------------------

TRIỆU TÚ MY

ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM NHẠC CHOPIN
TRONG NGHỆ THUẬT PIANO VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2017


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng để bảo vệ ở bất kỳ học
vị nào, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 07 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận án ký tên

Triệu Tú My


iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GS

Giáo sư

PGS

Phó Giáo sư

TS

Tiến sĩ

Th.S

Thạc sĩ

NSƯT

Nghệ sĩ ưu tú

NGND

Nhà giáo Nhân dân

Tp

Thành phố

XB


Xuất bản

Phl

Phụ lục

Tr

Trang

VD

Ví dụ

HS-SV

Học sinh – sinh viên

HVÂNQGVN

Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam


iv

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Chương trình biểu diễn báo cáo của khoa Piano trong 2 năm 1975
và 2016…………………………………………………………………………..........76
Biểu đồ 2.2: Số lượng học sinh - sinh viên lựa chọn tác phẩm của Chopin trong chương

trình thi học kỳ 2 năm học 2016 – 2017……………………………………...77
Hình 1.1 Cấu trúc dây chằng bàn tay con người……………………………….……..43

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Phân loại các tác phẩm của Chopin………………………………………17
Bảng 2.1 Các thể loại âm nhạc của Chopin trong chương trình đào tạo qua từng năm tại
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam giai đoạn trước năm 2000……………….71
Bảng 2.2 Các thể loại âm nhạc của Chopin trong chương trình đào tạo qua từng năm tại
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam giai đoạn hiện nay……………………….72
Bảng 3.1 Phân loại Etude Chopin theo nhóm kỹ thuật……………………………..87
Bảng 3.2 Phân loại Etude Chopin theo trình độ đào tạo……………………………95
Bảng 3.3 Phân loại các tác phẩm Valse của Chopin theo trình độ đào tạo…………..103


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: SỰ NGHIỆP ÂM NHẠC CỦA CHOPIN VỚI CÂY ĐÀN PIANO ......................................... 11

1.1 Sự nghiệp sáng tác của Chopin gắn liền với cây đàn piano ..................................................... 11
1.1.1 Kho tàng tác phẩm cho piano của Chopin đa dạng và phong phú ....................................... 15
1.1.2 Những sáng tạo về thể loại âm nhạc của Chopin ................................................................. 18
1.2 Nghệ thuật biểu diễn của Chopin .............................................................................................. 23
1.2.1 Những đặc điểm nghệ thuật biểu diễn của Chopin .............................................................. 24
1.2.2 Những đổi mới trong nghệ thuật biểu diễn của Chopin ....................................................... 27
1.3 Hoạt động sư phạm của Chopin ................................................................................................ 37
1.3.1 Những hoạt động sư phạm của Chopin................................................................................ 37
1.3.2 Quan điểm sư phạm của Chopin .......................................................................................... 38
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................................................. 45
CHƯƠNG 2: ÂM NHẠC CHOPIN TRONG ĐỜI SỐNG ÂM NHẠC VIỆT NAM ..................................... 46


2.1 Khái quát sự hình thành và phát triển của nghệ thuật piano Việt Nam .................................. 46
2.1.1 Lực lượng giảng dạy ............................................................................................................ 49
2.1.2 Về học sinh .......................................................................................................................... 51
2.2 Âm nhạc Chopin với hoạt động biểu diễn âm nhạc ở Việt Nam .............................................. 54
2.3 Âm nhạc Chopin với NSND Đặng Thái Sơn............................................................................. 57
2.3.1 Đôi nét về cuộc đời của NSND Đặng Thái Sơn và chiến thắng trong cuộc thi mang tên
Chopin........................................................................................................................................... 57
2.3.2 Hoạt động biểu diễn 37 năm của NSND Đặng Thái Sơn sau khi được giải trong cuộc thi
mang tên Chopin ........................................................................................................................... 64
2.3.3 Hoạt động sư phạm và sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ cho nghệ thuật piano Việt Nam của
NSND Đặng Thái Sơn .................................................................................................................. 67
2.4 Âm nhạc Chopin và sự nghiệp đào tạo piano chuyên nghiệp tại Việt Nam ............................ 69
2.4.1 Vai trò tác phẩm của Chopin trong chương trình đào tạo piano chuyên nghiệp tại Học viện
Âm nhạc Quốc gia Việt Nam ........................................................................................................ 70
2.4.2 Những tác dụng mà tác phẩm Chopin đem lại cho HSSV Việt Nam trong quá trình học ... 74
2.4.3 Những tác phẩm của Chopin trong biểu diễn của HSSV Việt Nam .................................... 75
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................................................. 80
CHƯƠNG 3: THỂ NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
CỦA CHOPIN ..................................................................................................................................................... 82

3.1 Tập Etude .................................................................................................................................... 82
3.1.1 Giới thiệu về tập Etude Chopin ........................................................................................... 83
3.1.2 Giải pháp trong giảng dạy và luyện tập một số bản Etude tiêu biểu của Chopin ................ 88
3.1.3 Etude Chopin trong giảng dạy Piano ở một số cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tại
Việt Nam....................................................................................................................................... 93
3.2 Tập Valse .................................................................................................................................... 99
3.2.1 Giới thiệu về tập Valse Chopin ............................................................................................ 99
3.2.2 Valse Chopin trong đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam ................................... 102
3.3 Ballade số 1 giọng Son thứ…. ................................................................................................. 113
3.3.1 Giới thiệu về bản Ballade số 1 giọng Son thứ ................................................................... 113

3.3.2 Giải pháp trong giảng dạy và luyện tập Ballade số 1 ........................................................ 117
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................................................... 125
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................................ 127
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................................................... 130
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌSchuNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ...................... 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................. 132
PHỤ LỤC……………………..………………………………………………………………………………....142


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của nền âm nhạc hàn lâm cổ điển, cây đàn Piano luôn được

mệnh danh là “vua của các loại nhạc cụ” bởi sự đa dạng trong kỹ thuật trình tấu cũng như
khả năng diễn tấu tuyệt vời của nó. Xuyên suốt lịch sử âm nhạc thế giới qua các thời kỳ,
các tác phẩm viết cho cây đàn piano luôn chiếm vị trí quan trọng cả về chất lượng cũng như
số lượng so với các nhạc cụ khác. Từ cuối thế kỷ XVIII cho đến đầu thế kỷ XIX, cây đàn
piano đã có sự phát triển mạnh mẽ về hình thức và cấu trúc cũng như những cải tiến về kỹ
thuật trong đó đặc biệt là pedal đã tăng thêm khả năng trình diễn một cách tinh tế của cây
đàn piano. Cho tới trào lưu âm nhạc Lãng mạn của châu Âu (thế kỷ XIX) thì khả năng tinh
tế của cây đàn được khai thác mạnh mẽ cả về kỹ thuật cũng như sự phong phú về tiếng đàn.
Các nhạc sĩ của thời kỳ Lãng mạn mà đại diện là Frederic Chopin, Franz Lizst, Frank
Schubert, Robert Schumann v.v. đã làm cho cây đàn Piano trở nên quen thuộc với đại đa
số quần chúng với những giai điệu tuyệt đẹp đi vào lòng người, những nét chạy kỹ thuật
hoành tráng, sự khai thác triệt để tính năng của Pedal đã làm say mê công chúng yêu âm
nhạc thời bấy giờ. Trong đó, những sáng tạo của Chopin là một cuộc cách mạng trong nhiều

lĩnh vực liên quan tới sáng tác, biểu diễn, giảng dạy và nhất là các quan điểm về kỹ thuật
chơi đàn. Những cải cách của ông không những ảnh hưởng tới sự phát triển của âm nhạc
thế giới lúc bấy giờ mà còn tiếp tục đi tới ngày nay. Nhiều quan điểm của ông đến ngày
nay vẫn là những điểm cơ bản để những người chơi Piano phải luôn ghi nhớ.
Như chúng ta đã biết, Chopin là một nhà soạn nhạc vĩ đại và nghệ sĩ piano thiên tài
người Ba Lan. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình (1810 - 1849), ông đã viết hơn 230 tác
phẩm, phần lớn cho Piano và ông được coi là một trong các nhạc sĩ vĩ đại nhất của trào lưu
âm nhạc Lãng mạn. F. Liszt đã từng nói: “Tôi ngưỡng mộ ông như một thiên tài thực sự do
Chúa cử tới.” [30, tr273]


2

Cây đàn Piano được du nhập từ châu Âu sang Việt Nam từ khoảng đầu thế kỷ XX.
Kể từ khi thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam năm 1956, cũng là lúc nền Piano chuyên
nghiệp Việt Nam chính thức ra đời. Mặc dù mới chỉ có 60 năm, trong khi lịch sự Piano thế
giới đã trải qua hơn 500 năm, nhưng ngành Piano chuyên nghiệp Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng ghi nhận ở trong và ngoài nước. Trong đó không thể không nhắc tới
chiến thắng vang dội của Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Thái Sơn tại cuộc thi piano quốc tế mang
tên Chopin lần thứ 10 ở Ba Lan năm 1980.
Là một thế hệ giảng viên trẻ được đào tạo cơ bản tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
Nam, đặc biệt tôi đã được học tập và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của GS.TS.NGND
Trần Thu Hà. Bên cạnh đó, qua kinh nghiệm thực tiễn trong những năm giảng dạy, biểu
diễn và với mong muốn thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về lĩnh
vực Piano, trong đó tôi luôn ấp ủ, trăn trở một số câu hỏi: vì sao một đất nước trải qua chiến
tranh dài lâu và gặp vô vàn khó khăn trong quá trình phát triển, một nền Piano hoàn toàn
non trẻ lại có thể sản sinh ra một tài năng âm nhạc lớn như NSND Đặng Thái Sơn, phải
chăng ảnh hưởng của Chopin ở Việt Nam là một điều kỳ diệu, một mối duyên lành hay là
một sự cộng hưởng sáng tạo tuyệt đẹp? Ngành Piano ở Việt Nam có liên quan thế nào đến
sự nghiệp âm nhạc Chopin?

Những câu hỏi trên đã thôi thúc tôi nghiên cứu đề tài này, không chỉ với mong muốn
có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về ngành Piano mà còn tìm ra phần nào lời giải đáp
cho những câu hỏi như trên của mình. Với hy vọng những mong muốn của tôi sẽ giúp khẳng
định rõ tầm quan trọng của Chopin trong đào tạo Piano chuyên nghiệp tại Việt Nam và
đóng góp những giải pháp nhằm giải quyết phần nào những bất cập, hạn chế trong công tác
đào tạo và biểu diễn tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và các cơ sở đào tạo chuyên
nghiệp khác trên cả nước, nhằm góp phần đào tạo nên những nghệ sĩ Piano toàn diện trên
cả hai lĩnh vực biểu diễn cũng như sư phạm.
Vì tất cả những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của âm nhạc Chopin
trong nghệ thuật Piano Việt Nam” là đề tài nghiên cứu của luận án.


3

2.

Lịch sử đề tài
Với gần hai thế kỷ, âm nhạc của Chopin đã là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên

cứu, phê bình âm nhạc trên thế giới, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh
vực thân thế và sự nghiệp, phân tích tác phẩm… cũng như các hội thảo khoa học, các bài
báo đánh giá phân tích và nghiên cứu có liên quan. Đặc biệt trong lĩnh vực biểu diễn và sư
phạm có rất nhiều công trình chuyên sâu tổng thể trên thế giới từ nhiều năm qua. Đây là
những tài liệu mang tính học thuật cao, giúp ích cho việc tham khảo và bổ sung kiến thức
cho luận án, tiêu biểu như:
2.1 Công trình bằng tiếng nước ngoài
Với công trình nghiên cứu của tác giả Alexeiev “Lịch sử nghệ thuật biểu diễn piano”,
Nhà xuất bản Âm nhạc Matxcova, 1972, sau đó bổ sung và tái bản năm 1980, 1982. Tác
giả đã dành hẳn một chương đề cập tới kho tàng những tác phẩm của Chopin viết cho piano.
Alexeev đã hệ thống phân loại một cách khoa học và logic các tác phẩm viết cho Piano ở

các cấp độ khó dễ khác nhau, ở tính đa dạng phong phú về các thể loại sáng tác khác nhau.
Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến những vấn đề xung quanh những đặc điểm thể hiện âm
nhạc của Chopin và những vấn đề về biểu diễn và xử lý tác phẩm của Chopin. Tác giả đã
khắc hoạ cho chúng ta về chân dung của Chopin - một nghệ sĩ biểu diễn Piano thiên tài,
một nhạc sĩ vĩ đại chuyên sáng tác các tác phẩm cho Piano. Tác giả cũng đã giới thiệu về
khả năng kỹ thuật điêu luyện, gắn kết chặt chẽ với việc thể hiện nội dung giá trị nghệ thuật
trong các tác phẩm của Chopin. Ngoài ra, tác giả còn giới thiệu những yếu tố mang tính
sáng tạo trong sáng tác các tác phẩm, Chopin chính là người đã đưa những thể loại như
Prelude, Valse, Mazurka hay Nocturne trở thành những tác phẩm độc lập. Tác giả đã phân
tích kỹ một số đặc điểm âm nhạc trong các tác phẩm của Chopin cũng như nêu ra một số
yêu cầu trong xử lý tác phẩm của ông.
Với công trình của tác giả Irena Poniatowska (XB 2010) “Chopin – Con người và sự
nghiệp”. Trong công trình này, tác giả đã cung cấp những thông tin giá trị cho những nghiên
cứu về Chopin và cuộc đời của ông nhân dịp 200 năm ngày sinh của Chopin và cũng là dịp


4

diễn ra kỳ thi mang tên Chopin lần thứ 16 được tổ chức tại Warsaw – Poland 2010 do Viện
Chopin xuất bản. Cuốn sách dày 200 trang, bao gồm 5 chương trong đó mỗi chương dành
để nói về một mặt khác biệt của cuộc đời và sự nghiệp của Chopin. Các chương có thể được
đọc riêng biệt, nhưng xét trên tổng thể, cuốn sách thể hiện một phối cảnh gồm nhiều nhận
thức cho chúng ta về Chopin và sự nghiệp ông đã để lại.
Với công trình của tác giả Jeremy Siepmann (XB 2015): “Chopin – Kẻ mơ mộng bất
đắc dĩ”. Tác giả là người chuyên nghiên cứu về các nghệ sĩ piano của thế kỷ XIX, nhà văn,
trưởng phòng âm nhạc của Đài phát thanh BBC, Giám đốc âm nhạc tại Bruen Abbey. Cuốn
sách dày 280 trang được chia thành 13 giai đoạn khác nhau trong cuộc đời và sự nghiệp
của Chopin.
Với công trình của tác giả Jean- Jacques Eigeldinger (XB 1986): “Chopin- người nghệ
sĩ dương cầm và thầy giáo - dưới góc nhìn của những học trò” dày 324 trang, chia thành

hai phần chính bao gồm kỹ thuật cơ bản và phong cách âm nhạc. Định nghĩa về kỹ thuật
chơi piano. Những lỗi trong cách tiếp cận truyền thống về kỹ thuật thuần tuý. Tác giả cũng
đưa ra những nội dung nghiên cứu kỹ thuật piano của Chopin; Những tiêu chuẩn chất lượng
của đàn piano, cách cấu tạo của đàn piano mà sinh thời Chopin quan tâm đến.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về Chopin được chúng tôi hệ thống ở trên, đã
tập trung vào các vấn đề: lịch sử, thân thế và sự nghiệp của Chopin; phân tích chuyên sâu
về tác phẩm; về kỹ thuật diễn tấu, cách xử lý tác phẩm cũng như phong cách âm nhạc của
Chopin. Đó cũng là một số công trình tiêu biểu bằng tiếng nước ngoài được sử dụng như
tài liệu tham khảo tại một số cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở nước ta, trong đó có
cơ sở đầu ngành trong đào tạo piano chuyên nghiệp là Khoa Piano - Học viện Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam.
2.2 Công trình bằng tiếng Việt
Ở Việt Nam, chúng ta cũng đã có những công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến
nghệ thuật biểu diễn Piano nhưng chưa có bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào


5

chuyên sâu về âm nhạc của Chopin. Tuy nhiên, khi thực hiện luận án này, chúng tôi không
thể không nhắc tới các công trình nghiên cứu của thế hệ giảng viên Piano tiêu biểu như:
Công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về cây đàn piano là Luận án Tiến
sĩ của tác giả Trần Thu Hà “Nghệ thuật piano Việt Nam”, đã được bảo vệ thành công tại
Nhạc viện Tchaikovski - Matxcova, 1987. Trong Luận án, tác giả đã dày công nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển của ngành nghệ thuật piano khi được du nhập từ phương
Tây vào Việt Nam; đề cập, đánh giá các phương pháp sư phạm piano từ thời Pháp đô hộ
cho tới những năm 80 của thế kỷ XX. Tác giả đã khái quát lại toàn bộ đời sống âm nhạc
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, biểu diễn và sáng tác piano.
Tác giả đã sưu tầm hơn 200 tác phẩm viết cho piano của các nhạc sĩ Việt Nam (kể từ khi
Trường Âm nhạc Việt Nam ra đời năm 1956), thống kê, phân tích những yếu tố đặc trưng
trong các tác phẩm sáng tác cho piano của các nhạc sĩ Việt Nam và đã chứng minh nghệ

thuật piano Việt Nam phát triển qua các giải đoạn từ không chuyên đến chuyên nghiệp. Đặc
biệt, tác giả chú trọng mối liên hệ âm nhạc dân gian Việt Nam trong các tác phẩm cho piano.
Đây là một công trình mang tính cột mốc quan trọng, tạo tiền đề cho các công trình nghiên
cứu tiếp theo về sư phạm cũng như nghệ thuật biểu diễn piano tại Việt Nam của các thế hệ
nối tiếp về sau.
Luận án của TS. Nguyễn Minh Anh với đề tài “Sự phát triển của nghệ thuật piano”
được bảo vệ thành công năm 2008 tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc
gia Việt Nam) chính là sự tiếp nối công trình nghiên cứu của GS.TS.NGND Trần Thu Hà.
Tác giả tiếp tục giới thiệu khái quát về lịch sử phát triển của cây đàn piano, các bước phát
triển và những thành tựu của ngành piano Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, ngoài ra tác giả
có đi vào một số vấn đề quan điểm kỹ thuật chuyên sâu của piano như thả lỏng, nghệ thuật
pedal, vấn đề phân câu, cách xác định câu nhạc và xây dựng câu nhạc…nhằm hướng đến
mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo của piano Việt Nam.
Năm 2003, luận án tiến sĩ của Tạ Quang Đông: “Sonate và Concerto viết cho piano
của các nhạc sĩ Việt Nam: Sự kết hợp giữa đặc điểm dân tộc Việt Nam và truyền thống của


6

âm nhạc phương Tây” tại Học viện Âm nhạc Gneshin Matxcova. Trong luận án, tác giả đã
nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa âm nhạc truyền thống Việt Nam và âm nhạc cổ điển
châu Âu qua các bản Sonate và Concerto cho piano của các tác giả Việt Nam. Tác giả đã
đi sâu phân tích những đặc điểm hình thức Sonate và Concerto cho piano của châu Âu và
Việt Nam dựa trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của thế giới và các tác phẩm
của các nhạc sĩ Việt Nam từ năm 1956 đến 2002, nêu ra sự giao lưu kết hợp các yếu tố về
hoà thanh, phối khí, phức điệu, cấu trúc và hình thức giữa âm nhạc hàn lâm Việt Nam và
phương Tây.
Luận án tiến sĩ của Đặng Ngọc Giang Quân: “Mối liên hệ giữa các chất liệu âm nhạc
của Việt Nam và châu Âu trong sáng tác của các nhạc sĩ thế kỷ XX” được bảo vệ thành
công năm 2001 tại Kiev - Ucraine. Dựa trên cơ sở nghiên cứu và so sánh hai nền văn hoá

lớn của châu Âu và châu Á ở các lĩnh vực nghệ thuật như văn học, mỹ thuật và âm nhạc,
tác giả đã phân tích, so sánh các tác phẩm tiêu biểu giữa Suite Việt Nam của nhạc sĩ Isenko
và Album của nhạc sĩ Louis Nguyễn Văn Tỵ (Thái Thị Lang) nhằm làm rõ sự tương đồng
và khác biệt về chất liệu âm nhạc trong sáng tác viết cho piano của các nhạc sĩ thế kỷ XX.
Ngoài ra là một số công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả khác, tiêu biểu như:
Luận án tiến sĩ của PGS.TS. Nguyễn Huy Phương “Mối tương tác giữa những hình
thức âm nhạc dân gian và chuyên nghiệp” được bảo vệ thành công năm 2003 tại Học viện
Âm nhạc Gneshin Matxcova, trong đó tác giả đã nghiên cứu toàn bộ lịch sử văn hoá âm
nhạc dân gian Việt Nam qua các giai đoạn văn hoá âm nhạc Việt Nam, khai thác trên những
khía cạnh giao thoa giữa các hình thức âm nhạc dân gian và âm nhạc chuyên nghiệp;
Luận án tiến sĩ của TS. Đào Trọng Tuyên “Etudes của Claude Debussy: Thẩm mỹ và
Biểu diễn” (2007). Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về đặc điểm âm nhạc và nghệ thuật biểu
diễn 12 Etudes của Claude Debussy. Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ của Trần Nguyệt Linh với
đề tài “Piano Concerto cho tay trái của Maurice Ravel”. Cả hai luận án đều được bảo vệ
thành công tại Trường Đại học Tổng hợp Montreal – Canada.


7

Gần đây nhất là các luận án của TS. Nguyễn Hoàng Phương với đề tài “Nghệ thuật
đệm và Hoà tấu thính phòng trong đào tạo ngành piano chuyên nghiệp tại Việt Nam” (2012)
được bảo vệ thành công tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam năm 2015. TS. Nguyễn
Hoàng Phương đã nghiên cứu sâu về lịch sử phát triển nghệ thuật đệm và hoà tấu thính
phòng của cây đàn piano tại Việt Nam. Tác giả đã nêu lên những đặc thù và kỹ năng cơ bản
trong lĩnh vực đệm và hoà tấu thính phòng với piano và việc giảng dạy bộ môn đệm và hoà
tấu thính phòng trong đào tạo piano chuyên nghiệp tại Việt Nam. Và luận án tiến sĩ của TS.
Trần Thanh Hà với đề tài “Bản sắc dân tộc trong các tác phẩm khí nhạc Việt Nam (trường
hợp piano)” được bảo vệ thành công tại Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh – Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2015. Còn luận án của TS. Hà Mai Hương “Vai trò của
piano trong nâng cao mặt bằng kiến thức chung của các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên

nghiệp Việt Nam” (2016) bảo vệ tại Học viện Ân nhạc Quốc gia Việt Nam.
Liên quan đến lịch sử đề tài của luận án còn có cuốn sách “Lịch sử âm nhạc thế giới
(từ nguyên thủy đến hết thế kỷ XIX)” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung (năm 2000). Trong
chương XI phần Âm nhạc Ba Lan, tác giả đã viết về cuộc đời, sự nghiệp cũng như phong
cách âm nhạc của Chopin. Đối với chúng tôi, đây là những công trình, tài liệu tham khảo
rất có giá trị cho luận án của mình.
Qua hệ thống các công trình bằng tiếng nước ngoài cũng như tiếng Việt, chúng ta có
thể thấy rằng:
Trên thế giới, viết về thân thế và sự nghiệp của Chopin đã có rất nhiều các nhà lý luận
phê bình, các nhà sư phạm, biểu diễn tên tuổi nói đến, nhưng ở Việt Nam thì có thể coi đây
là khoảng trống. Cho đến nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu sâu về ảnh
hưởng của Chopin đối với âm nhạc cổ điển Việt Nam nói chung và ngành Piano nói riêng.
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến sư phạm giảng dạy các tác
phẩm piano của Chopin trong các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp vẫn còn thiếu rất nhiều. Do
đó một số vấn đề chính cần giải quyết được chúng tôi liệt kê dưới đây như sau:


8

-

Trên thế giới, nghệ thuật sư phạm và biểu diễn Piano đã có bề dày lịch sử phát triển

lâu đời, chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu trong lĩnh
vực này bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhưng đa số các tác phẩm kinh điển cũng như các
công trình nghiên cứu về nghệ thuật sư phạm và biểu diễn piano nói chung hay về Chopin
nói riêng ít được dịch sang tiếng Việt, do đó các học sinh, sinh viên Việt Nam hầu như ít
được tiếp cận với các công trình nào mang tính hệ thống và tổng hợp một cách chuyên sâu
về các tác phẩm của Chopin dưới góc độ sư phạm và biểu diễn.
-


Trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, việc đào tạo piano chuyên nghiệp

các tác phẩm của Chopin được sử dụng rộng rãi ở nhiều cấp độ khác nhau từ thấp đến cao.
Nhưng cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có công trình nào, nêu rõ vị trí, vai trò của những
tác phẩm của Chopin trong đào tạo piano chuyên nghiệp tại Việt Nam.
Vì vậy, luận án của chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của âm nhạc Chopin
đối với việc giảng dạy và biểu diễn Piano tại các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tại
Việt Nam, tập trung chính tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.

3.

Mục đích và mục tiêu nghiên cứu

-

Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hoá một cách khoa học, giới thiệu về sự nghiệp âm

nhạc của Chopin với cây đàn piano. Giới thiệu những đặc trưng âm nhạc của Chopin, từ cơ
sở đó sẽ phân tích những đặc điểm về nghệ thuật và trình diễn trong một số tác phẩm tiêu
biểu của Chopin, qua đó khẳng định vai trò và vị trí âm nhạc của Chopin trong hoạt động
biểu diễn và đời sống âm nhạc Việt Nam.
-

Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp trong công tác

đào tạo và biểu diễn Piano ở nước ta, tiến tới hội nhập với khu vực và quốc tế.

4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đôi tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của âm nhạc Chopin

đối với việc giảng dạy Piano tại các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở Việt Nam mà


9

trong đó tập trung phần lớn tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Đồng thời luận án
cũng nghiên cứu vai trò của các tác phẩm của Chopin trong hoạt động biểu diễn và đời sống
âm nhạc Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Các tác phẩm sáng tác cho piano của Chopin, trong đó tập trung

-

ở một số tác phẩm tiêu biểu được yêu thích và sử dụng rộng rãi - những tác phẩm này sẽ
được giới thiệu và phân tích kỹ dưới góc độ biểu diễn và giảng dạy. Ở đây chúng tôi muốn
tập trung vào những khó khăn và thuận lợi của người Việt Nam khi học và biểu diễn những
kiệt tác của Chopin.
Phương pháp nghiên cứu

5.
-

Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: khảo sát thực tiễn, phương

pháp nghiên cứu thứ cấp, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kế, chứng minh, phỏng

vấn, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn giải…
-

Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tiếp thu một số thành quả

nghiên cứu đã có từ trước, có liên quan đến đề tài nghiên cứu này để học tập, kế thừa và
phát triển tiếp các thành quả nghiên cứu đã đạt được… qua tài liệu, sách, mạng internet,
kinh nghiệm đã được tổng kết trên thế giới, mô hình đào tạo tại một số cơ sở đào tạo piano
quốc tế.
Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của đề tài

6.
-

Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về ảnh hưởng của Chopin trong

việc đào tạo piano chuyên nghiệp. Vì thế, đề tài hoàn toàn mới mẻ, cấp thiết, có ý nghĩa đối
với giai đoạn hội nhập của đất nước, có đóng góp thực sự đối với sự phát triển âm nhạc hàn
lâm ở Việt Nam.
-

Đề tài góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chuyên nghiệp, đặc biệt ở bậc đại học

và sau đại học, có thể mở ra những khả năng thể hiện khác nhau đối với tác phẩm cho piano


10

của Chopin ở Việt Nam. Đề tài cũng khẳng định vai trò của Việt Nam trong việc thẩm mỹ
hoá và phổ biến kho tàng nghệ thuật bất hủ của Chopin.


7.

Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Luận án được trình bày

trong ba chương như sau:
- Chương 1: Sự nghiệp âm nhạc của Chopin với cây đàn piano
- Chương 2: Âm nhạc của Chopin trong đời sống âm nhạc Việt Nam
- Chương 3: Thể nghiệm và giải pháp trong giảng dạy một số tác phẩm tiêu biểu của Chopin


11

CHƯƠNG 1
SỰ NGHIỆP ÂM NHẠC CỦA CHOPIN VỚI CÂY ĐÀN PIANO
1.1 Sự nghiệp sáng tác của Chopin gắn liền với cây đàn piano1
Thế kỷ XIX được đánh giá trong lịch sử văn hoá thế giới như một thế kỷ phát triển
rực rỡ của các nền văn hoá dân tộc, vào giai đoạn này đã hình thành những trường phái dân
tộc trong văn học, hội hoạ và âm nhạc. Phong trào đấu tranh giải phóng cuả các dân tộc
chống áp bức của chế độ phong kiến chính là nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển khuynh
hướng của chủ nghĩa lãng mạn. Những khía cạnh quan trọng của chủ nghĩa lãng mạn chính
là sự quan tâm đến đời sống của nhân dân, đến nền nghệ thuật dân gian như ca khúc, vũ
khúc, truyện cổ tích thần thoại, tình yêu thiên nhiên. Nửa cuối thế kỷ XIX, ở châu Âu chứng
kiến sự phát triển của công nghiệp hoá, đô thị hoá và bất ổn chính trị. Học thuyết của chủ
nghĩa dân tộc có được sức mạnh, dẫn tới sự hợp nhất của Ý, Đức và những khuấy động đầu
tiên của chủ nghĩa xã hội và phong trào lao động Xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX đối với đất nước Ba Lan chính là một giai đoạn
lịch sử đầy khó khăn và phức tạp. Năm 1795, đất nước Ba Lan rơi vào tình cảnh mất chủ
quyền độc lập ảnh hưởng tới số phận của một dân tộc, tới phong trào giành độc lập. Việc

khơi dậy tư tưởng về sự hùng mạnh vĩ đại của Tổ quốc Ba Lan đã bao trùm lên ý thức của
đông đảo nhân dân Ba Lan lúc bấy giờ. Các bài ca cũng như nhiều tác phẩm nghệ thuật lúc
đó luôn thức tỉnh và nhắc nhở tới một quá khứ anh dũng hào hùng của Tổ quốc. Niềm khát
vọng mãnh liệt mang tới sự khẳng định tự hào dân tộc đã tiếp sức cho việc quan tâm hướng
tới những tinh hoa và sự đa dạng của nền văn hoá nghệ thuật dân gian. Chính trong những
điều kiện xã hội như vậy đã dẫn tới việc thành lập trường phái âm nhạc dân tộc.
Bên cạnh hàng loạt bài hát và các vở opera đồng thời cũng xuất hiện hàng loạt những
hình thức thể hiện mới thuộc lĩnh vực khí nhạc. Các nhạc sĩ Ba Lan lúc đó cũng sáng tác
Theo nghiên cứu từ cuốn “Chopin – the reluctant romantic” của Jeremy Siepmann xuất bản năm 1995, NXB
Northeastern University Press, Boston
1


12

một số lượng không nhỏ các tác phẩm viết cho piano như Concerto, Sonate, Biến tấu và
nhiều tiểu phẩm. Trong đó thể loại Polonaise được khá nhiều tác giả yêu thích. Sự phát
triển của thể loại Polonaise cũng gắn liền với sự nghiệp sáng tác của hai nhà soạn nhạc lớn:
Osip Kozlovsky và Michal Kleofas Oginsky. Osip Kozlovsky (1757- 1831) đã từng nhiều
năm sống ở St.Peterburg và làm việc trong cung đình, ông sáng tác nhiều tác phẩm khí nhạc
và hợp xướng, đặc biệt những bản Polonaise của ông mang tính chất anh hùng ca, sự kiêu
hãnh của giới quý tộc, đồng thời cũng đầy cảm xúc trữ tình.
Tiếp tục sự nghiệp sáng tác trong thể loại Polonaise phải kể đến M. Oginsky, ông
chính là học trò xuất sắc của O. Kozlovsky, ông đã nâng một bước về thể loại Polonaise trữ
tình. Đáng chú ý ở đây Oginsky cũng là một chiến sĩ cách mạng trực tiếp tham gia chiến
đấu trong cuộc chiến vệ quốc, ông đã từng lãnh đạo cả một trung đoàn. Thật sự các bản
Polonaise của ông đã trở nên vô cùng quen thuộc và được sử dụng đến ngày nay như bản
Polonaise giọng La thứ. Ngoài ra, người sáng tác nhiều tác phẩm cho piano trong giai đoạn
đó phải kể tới Josef Elsner (1769 - 1854). Ông là nhà soạn nhạc, nhà sư phạm nổi tiếng tài
năng, giám đốc đầu tiên của Nhạc viện Warsaw và là thầy của Chopin.

Bên cạnh J. Elsner, chúng ta phải kể tới các nhạc sĩ nổi tiếng như F. Ostrovsky, F.
Lessel và đặc biệt là Maria Szymanowska (1739 - 1831). Thật vậy, bà là một trong những
nghệ sĩ piano xuất sắc nhất thời bấy giờ. Bà đã lưu diễn nhiều nơi trên thế giới, nghệ thuật
trình diễn piano của bà đã trở thành huyền thoại, bà có khả năng làm chủ cây đàn tạo nên
sự lộng lẫy trong sáng và làm cho cây đàn “hát”. Bà có tiếng đàn hấp dẫn với chiều sâu đi
vào lòng người, bên cạnh đó là những tác phẩm piano nổi tiếng có giá trị của bà như 20 bản
Etude, 20 bản Mazurka hay còn gọi là các điệu nhảy dân gian Ba Lan… Những khuynh
hướng sáng tác và nghệ thuật biểu diễn piano của những nhạc sĩ Ba Lan thời kỳ đó đã có
ảnh hưởng rất lớn tới nghệ sĩ vĩ đại Chopin.
Chopin sinh ra và lớn lên trong một gia đình yêu âm nhạc, bố là nhạc sĩ người Pháp
và mẹ là một phụ nữ Ba Lan yêu âm nhạc thuộc dòng dõi quý tộc, có năng khiếu âm nhạc
đặc biệt, biết chơi đàn piano, có giọng hát hay và rất yêu thích dân ca Ba Lan. Mẹ của


13

Chopin luôn tin chắc rằng: “Những ai được làm quen với âm nhạc từ nhỏ thì không thể thô
bạo và độc ác; âm nhạc làm dịu tính tình hơn những ngành nghệ thuật khác.” [82, tr.13]
Chính vì vậy cả 4 chị em của Chopin được làm quen và học đàn từ rất bé. Chopin đã tỏ ra
có thiên bẩm về tài năng âm nhạc từ rất sớm, ông thừa hưởng tình yêu âm nhạc dân gian từ
mẹ khiến sau này âm hưởng dân ca dân vũ của Ba Lan thấm đậm trong toàn bộ sáng tác
của ông, và cũng thật may mắn khi khả năng âm nhạc vượt trội đó được chăm sóc, dẫn dắt
bởi những người thầy tên tuổi, giàu kinh nghiệm như Wojciech Zywny, J. Elsner đã nhanh
chóng hình thành một tài năng biểu diễn piano xuất chúng ngay khi Chopin còn là một cậu
bé. Khi mới 7 tuổi, Chopin đã là tác giả của hai bản Polonaise giọng Son thứ và Si giáng
trưởng, bên cạnh đó, ông cũng tham gia nhiều buổi hoà nhạc từ thiện. Buổi biểu diễn ra mắt
công chúng đầu tiên của Chopin diễn ra vào năm 1818 ở quê nhà.
Mùa hè năm 1829 ông đã tới Viên, biểu diễn các tác phẩm của mình trong hai buổi
hoà nhạc, giới âm nhạc lúc đó đánh giá rất cao không chỉ những tác phẩm mang màu sắc
dân gian sống động của ông mà cả phong cách diễn tấu piano vô cùng đặc sắc của Chopin.

Chopin cống hiến cho sự nghiệp sáng tác và đã viết một số tác phẩm, trong đó có hai
bản Concerto cho piano và dàn nhạc cung Fa thứ và Mi thứ. Bản Concerto số 1 đã được gợi
cảm hứng rất lớn từ cảm xúc của nhà soạn nhạc đối với Konstancja Gladkowska, sinh viên
thanh nhạc tại nhạc viện. Đây cũng là thời kì Chopin cho ra đời những
bản Nocturne, Etude, Valse, Mazurka đầu tiên. Trong những tháng cuối cùng trước ngày
Chopin dự định ra nước ngoài sinh sống, Chopin đã có một số buổi biểu diễn trước công
chúng, chủ yếu là ở Nhà hát quốc gia Warsawa, nơi hai bản Concerto lần đầu tiên được
biểu diễn. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1830, ông đã có một buổi hòa nhạc chia tay tại Nhà
hát quốc gia Warsawa, trong đó ông đã biểu diễn bản Concerto cung Mi thứ, và K.
Gladkowska đảm nhiệm vai trò ca sĩ. Ngày 02 tháng 11 năm 1830, cùng với người bạn
Tytus Woyciechowski, Chopin đã đến nước Áo, với dự định đi tiếp sang Ý.


14

Mùa thu năm 1831, ông đến Paris. Ở Paris, ông biểu diễn, dạy đàn cùng lúc soạn nhạc,
và ông lấy tên tiếng Pháp là Frédéric-François Chopin. Cả cuộc đời, sức khoẻ ông không
được tốt. Ông có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy trắc trở với nhà văn Pháp George
Sand trong suốt 10 năm trước khi ông qua đời do lao phổi ngày 17 tháng
10 năm 1849 tại Paris, thọ 39 tuổi.
Thật sự cây đàn piano có một sức hút kỳ lạ với ông, Chopin cảm nhận được cây đàn
piano thay thế cho nhiều loại nhạc cụ, khi thì là dàn nhạc giao hưởng, khi thì hát với giọng
con người… Bằng tình yêu âm nhạc cháy bỏng, ông đã gửi gắm tất cả những tình cảm, nội
tâm mạnh mẽ và tình yêu đối với quê hương một cách trọn vẹn vào tiếng đàn piano. Chopin
đã buộc nó phải ngân lên theo cách mới mẻ, dịu dàng và đượm nét trữ tình.
Âm nhạc của Chopin mang nhiều chất hát, dân ca, dân vũ, lãng mạn, mang tính hình
tượng, như tiềm ẩn những nỗi đau cũng như tình yêu cao cả với quê hương Ba Lan. Vì vậy
khi biểu diễn các tác phẩm của ông, cần phải chú ý kết hợp kỹ thuật cao cùng với nội dung
nghệ thuật. Mọi nét chạy mọi dạng kỹ thuật đều là giai điệu và phải có chất hát.
Chopin không viết thể loại nhạc có cốt truyện. Âm nhạc của ông tinh tế, đầy sức biểu

cảm và lãng mạn, sự trình diễn chính xác tác phẩm của ông yêu cầu ở người chơi kỹ thuật
tốt và cách đặt ngón hoàn hảo. Những giai điệu của Chopin mang tính hát, chúng thường
theo chu kỳ dài 8 nhịp và theo nguyên âm cơ bản. Chopin rất giỏi trong việc ứng tác và
thường thích biến tấu có chủ đề hơn là các phần như công cụ phát triển tác phẩm.
Chromatique cũng được sử dụng để làm đa dạng và phát triển chủ đề. Những nốt trang trí,
những quãng ngẫu nhiên và những nét nhạc hoa mỹ rất phong phú. Sự nhắc lại với biến tấu
và lặp lại sau tương phản là những phương pháp hình thức cơ bản của ông. Ví dụ: Bản
Nocturne Op.9 No.2 được xây dựng theo cấu trúc A-A’-B-A’’-B’-A’’’- Coda – Cadenza Cadence.


15

VD 1.1: Trích Nocturne Op.9 số 2, 2 nhịp đầu

Trong âm nhạc của Chopin, đối âm chặt chẽ và phức điệu được ẩn giấu. Trong hoà
thanh của mình, ông sử dụng sự nghịch âm một cách tự do, táo bạo và đầy ngạc nhiên.
Sự nghiệp sáng tác của Chopin gắn liền với nhiều nền văn hoá nghệ thuật của thế giới,
đó là văn hoá của Ba Lan và các nước Slavơ khác, là nghệ thuật của thời đại Bach, Mozart,
Beethoven, với các nhạc sĩ lãng mạn của Pháp, Đức đầu thế kỷ XIX và các nhạc sĩ sáng tác
Opera. Đây là một sự tổng hợp bao quát của nhiều trường phái âm nhạc quan trọng của
nhân loại. Chính vì thế mà âm nhạc của Chopin nhanh chóng được đánh giá cao và được
đón nhận trên toàn thế giới.
Nghệ thuật của Chopin đã chứa đựng nhiều nhân tố của các khuynh hướng trường
phái âm nhạc quan trọng đầu thế kỷ XIX, nói một cách khác Chopin chính là một đại diện
tiêu biểu cho nền âm nhạc đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên trên tổng thể chung, các tác phẩm
của Chopin nằm trong khuôn khổ trường phái lãng mạn, trong đó chứa đựng nhân tố hết
sức quan trọng, đó là âm nhạc của ông xuất phát từ trái tim nồng nàn chân thật với một tư
duy trí tuệ có tổ chức.
1.1.1 Kho tàng tác phẩm cho piano của Chopin đa dạng và phong phú
Âm nhạc của Chopin có sức lan toả rộng lớn, giàu tính trữ tình. Ngay từ những sáng

tác đầu tay, ông đã được công chúng vinh danh là thiên tài âm nhạc trẻ tuổi. Cuộc đời sáng
tác và trình diễn với hơn 230 bản nhạc cho piano của ông đã khắc hoạ chân dung tinh thần
của Chopin như một biểu tượng sống của nhân loại về tình yêu âm nhạc. Ông cũng được


16

xem là biểu tượng của đất nước Ba Lan. Ảnh hưởng của Chopin không chỉ ở châu Âu mà
còn lan toả ra khắp nơi trên thế giới, đặc biệt với những nền âm nhạc châu Á và Đông Nam
Á. Chính những tác phẩm của Chopin đã đóng góp một phần rất quan trọng cho sự phát
triển của nghệ thuật đàn piano thế giới. Các tác phẩm của ông rất phong phú, đa dạng. Giá
trị nghệ thuật mà ông mang lại cho di sản âm nhạc thế giới chính là những tác phẩm, thể
loại đã được ông sáng tạo bổ sung cho kho tàng các tác phẩm viết cho piano.
Hiện nay trên thế giới, một số nghệ sĩ piano đã tiến hành cuộc hành trình thu âm trọn
vẹn các tác phẩm độc tấu piano, nhưng chỉ có ba người là Vladimir Ashkenazy, Idil Biret,
Garrick Ohlsson (giải Nhất cuộc thi Chopin năm 1970) là đã đi được tới cuối chặng đường,
và Rubinstein đã thu gần hết các tác phẩm của Chopin (trừ tập Etude). Ở Việt Nam, hiện
tại NSND Đặng Thái Sơn cũng đã thu gần như đầy đủ các tác phẩm của Chopin, ngoại trừ
tập Etude. Các tác phẩm của Chopin đã được rất nhiều nghệ sĩ biểu diễn trong suốt gần 200
năm qua, trong số đó có hơn 20 nghệ sĩ tiêu biểu trên thế giới trinh diễn xuất sắc nhạc
Chopin (xem Phl 1.1).
Kho tàng tác phẩm của Chopin có sự phong phú về thể loại, khối lượng đồ sộ, giai
điệu đẹp và đòi hỏi kỹ thuật cao tạo nên sự hoành tráng nên được sử dụng rộng rãi trong
biểu diễn cũng như đào tạo. Các tác phẩm của Chopin được chúng tôi chia thành các nhóm
chính (xem Phl 1.2) theo bảng 1.1 dưới đây:


17

Bảng 1.1 Phân loại các tác phẩm của Chopin

Tên thể loại

Tác phẩm dành cho piano

Ballade

4

Etude

27

Impromptu

4

Mazurka

59

Nocturne

22

Polonaise

16

Prelude


28

Rondo

4

Scherzo

4

Sonata

3

Biến tấu

10

Valse

20

Các tác phẩm thuộc nhiều thể loại
khác nhau khác
Tác phẩm dành cho piano
và dàn nhạc
Tác phẩm dành cho cello
và piano
Tác phẩm dành cho violon,
cello và piano

Tác phẩm thanh nhạc và
piano
Các tác phẩm bị thất lạc

Số lượng

Concerto
Các tác phẩm thuộc nhiều thể loại
khác nhau khác

25
2
4

3

1
19
10


18

Afred Brendel đã phát biểu: “Để tổng kết lại những suy nghĩ của tôi về Chopin, tôi
muốn nói rằng Chopin chính là nhà soạn nhạc duy nhất dành cho đàn piano “thực sự”,
bởi nguồn cảm hứng của ông chủ yếu xuất phát từ âm thanh của cây đàn piano.” [58, tr260]
1.1.2 Những sáng tạo về thể loại âm nhạc của Chopin
Đặc biệt Chopin được xem là một nhà soạn nhạc vĩ đại bởi chính ông đã sáng tạo ra
nhiều thể loại mới, bổ sung cho kho tàng âm nhạc hàn lâm thế giới những thể loại như:
Ballade, Impromptu,… Bên cạnh đó, một số các thể loại khác đã có từ trước đã được ông

sử dụng một cách sáng tạo, linh hoạt để tạo ra một hiệu quả âm nhạc mới. Các tác phẩm
của ông có quy mô từ dễ đến khó, từ nhỏ đến lớn, những tác phẩm từ 1-2 trang đến những
tác phẩm đồ sộ có độ khó và quy mô lớn như những bản Concerto cho piano và dàn nhạc
có thời gian trình diễn từ 35- 40 phút.
Chúng tôi chia các sáng tạo về thể loại âm nhạc của Chopin thành 4 nhóm khác nhau:
Nhóm 1: Chopin là người đặt nền móng, biến những thể loại trong thời kỳ âm nhạc
cổ điển phần lớn chỉ nằm trong giao hưởng Sonate thành những tác phẩm độc lập ở thời kỳ
âm nhạc lãng mạn như Scherzo, Prelude, Rondo (trước Chopin duy nhất chỉ có Mozart đã
sáng tác bản Rondo giọng La thứ K.511 như một tác phẩm độc lập về hình thức bên ngoài
nhưng chưa mang tính chất nghệ thuật của thể loại Rondo). (Xem Phl 1.2)
*Scherzo
Scherzo của thế kỷ XIX có nội dung hình tượng hết sức đa dạng. Ngoài những tiểu
khúc vui tươi, lạc quan, mang tính chất dí dỏm bên cạnh đó là tính chất kịch tính đôi khi
đượm vẻ bi ai sâu sắc.
Schubert và Chopin là những nhạc sĩ đầu tiên đã tách chương Scherzo trở thành những
tác phẩm độc lập, từ đó sáng tác thể loại Scherzo một chương. Bốn bản Scherzo của Chopin
là những tác phẩm mang tính kịch tính với sự đối lập kỳ diệu của các hình tượng tương
phản điển hình.


19

VD 1.2: Chopin Scherzo Op.31 số 2, nhịp 1-19

*Prelude
Với tập 24 Preludes của mình, Chopin được coi là một trong những người có công
tìm tòi các hình thức diễn đạt mới không gò bó của trường phái lãng mạn. Khi các tác phẩm
này của ông được viết ở tất cả các giọng trưởng và thứ - đây là một hiện tượng được coi là
mới lạ thời bấy giờ. Tập 24 Preludes của ông là những bản nhạc piano hoàn chỉnh, không
còn là những khúc dạo đầu cho một tác phẩm nào.

*Rondo
Các bản Rondo trong sự nghiệp của Chopin được sáng tác như những tác phẩm độc
lập xuyên suốt những năm tháng tuổi trẻ của ông ở Warsaw và thời kỳ đầu ở Paris (1833|).
Tập Rondo opus 1 giọng Đô thứ được viết khi ông 15 tuổi và được xuất bản năm 1825. Vì
vậy các bản Rondo của Chopin một mặt là minh chứng cho nhà soạn nhạc trẻ tuổi với hình
thức cổ điển cơ bản (như các bản Rondo trường phái Viên cổ điển của Haydn, Mozart,
Beethoven…), nhưng mặt khác thể hiện một phong cách sáng chói, tài hoa rực rỡ như âm
nhạc của Chopin thời trẻ. Những bản Rondo này được coi như những tác phầm đầy sức trẻ
và tài tình thể hiện khía cạnh "cổ điển" trong quá trình học tập sáng tác của ông.


20

Nhóm 2: gồm một số thể loại như Ballade, Nocturne, Fantasie trước đây đơn giản
nhưng đã được Chopin hoàn thiện về mặt cấu trúc cũng như âm nhạc để trở thành những
tác phẩm lớn có giá trị nghệ thuật cao trong biểu diễn. (Xem Phl 1.2)
*Ballade
Bốn bản Ballade của Chopin là những tác phẩm một chương viết cho piano chơi độc
tấu, được sáng tác trong khoảng thời gian 1831 - 1842. Ông được coi là một trong những
người tiên phong trong thể loại Ballade. Bốn bản Ballade được cho là lấy cảm hứng từ thơ
của Adam Mickiewicz. Tuy nhiên, cho đến giờ, nguồn cảm hứng chính xác cho mỗi bản
Ballade vẫn chưa được làm rõ và đang gây tranh cãi.
Ballade được coi là sự cải tiến sáng tạo của Chopin và không thể được thay thế thành
hình thức nào khác. Mặc dù chúng không theo chính xác như thể loại Sonate, hình thức
Ballade của Chopin trong bốn tác phẩm của ông là biến tấu riêng biệt của hình thức Sonate
với những tương phản cụ thể, như điệp khúc phản chiếu (trình bày lại hai chủ đề chính theo
trình tự đảo ngược trong phần tái hiện). Những bản Ballade này ảnh hưởng trực tiếp tới các
nhạc sĩ như F. Liszt và J. Brahms, những người đã sáng tác những bản Ballade của mình
sau Chopin.
VD 1.3: Ballade số 2 Op.38, nhịp 1 - 7


*Nocturne
21 bản Nocturne của Chopin thể hiện nội tâm, mang tính biểu cảm rất lớn. Chúng chịu
ảnh hưởng bởi những bản Nocturne của Field, tuy những hoà âm của Chopin phức tạp hơn.
Tài năng ứng tác của Chopin được thể hiện rõ trong những bản Nocturne của ông, điều này,
cùng với hoà thanh thời kỳ Lãng mạn đã làm phong phú các bản Nocturne.


×