Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

chức năng tgtc tài chính gián tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.67 KB, 2 trang )

CHỨC NĂNG TÀI CHÍNH TRUNG GIAN : TÀI CHÍNH
GIÁN TIẾP
1. Chi phí giao dịch thấp hơn ( thời gian và tiền bạc bỏ ra

để thực hiện giao dịch tài chính )




Tính kinh tế theo quy mô :
Tính kinh tế theo quy mô đặc trưng cho một quy trình sản xuất trong
đó một sự tăng lên trong số lượng sản phẩm sẽ làm giảm chi
phí bình quân trên mỗi sản phẩm sản xuất ra. Ví dụ ta có một dây
chuyền sản xuất quần áo. Chi phí dây chuyền máy móc trong một
tuần là 100 đơn vị tiền tệ, chi phí phụ trội là 1 đơn vị tiền tệ trên mỗi
đơn vị sản phẩm. Nếu như hệ thống sản xuất được 50 sản phẩm một
tuần thì chi phí cố định bình quân trên mỗi sản phẩm là
(100+50)/50= 3 đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên nếu công ty sản xuất
được 100 đơn vị một tuần thì chi phí cố định bình quân trên mỗi đơn
vị sản phẩm sẽ giảm xuống chỉ còn (100+100)/100 = 2 đơn vị tiền
tệ. Đây là ví dụ điển hình của tính kinh tế theo quy mô. Tất nhiên ví
dụ này đã được đơn giản hoá đi nhiều, trên thực tế thì còn rất nhiều
các lực cản vô hình trong nền kinh tế khiến cho công ty khó có thể
đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Dịch vụ thanh khoản :

Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một tài
sản bất kì có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh
hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản
cao nếu nó có thể được bán nhanh chóng mà giá bán không giảm đáng kể,
thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Ví dụ, tiền mặt có tính


thanh khoản cao, vì nó thường có thể được "bán" (để đổi lấy hàng hóa) với
giá trị gần như không thay đổi. Chứng khoán hay các khoản nợ, khoản
phải thu... có tính thanh khoản cao nếu chúng khả năng đổi thành tiền
mặt dễ dàng. Cách gọi thay thế cho tính thanh khoản là tính lỏng, tính
lưu động.



2. Giảm thiểu rủi ro của nhà đầu tư :
Nguy cơ chia sẻ ( biến động tài sản ) :

Rủi ro là gì ?
Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không
chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra (uncertainty about the occurrence of a
loss). Với khái niệm về r ủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1,
thì không có rủi ro.
Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì
cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng nhưng


đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một
cascadeur nhảy từ l ầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể
chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về
h ậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế
này.
Biến đổi tài sản đóng vai trò là trung gian giữa người tiết kiệm và người đi
vay cuối cùng, các định chế tài chính trung gian đã thực hiện việc biến đổi
tài sản về mức rủi ro, về khối lượng và thời hạn. Vai trò này đem lại lợi ích
cho cả người tiết kiệm lẫn người vay cuối cùng.



Sự đa dạng :



×