Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Cau cơ che thuc hien quyen luc chinh tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.66 KB, 6 trang )

Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị và QLCT của nhân dân lao động…
Quyền lực chính trị là phạm trù cơ bản nhất của Chính trị học. Với tư cách là “phạm
trù trung tâm của Chính trị học” (quan niệm của nhà nghiên cứu Liên Xô: M. N. Kây – rô dốp), có thể xem: “Chính trị học là khoa học về cuộc đấu tranh cho quyền lực; là khoa học
về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị trong xã hội được tổ chức thành nhà nước”.
Quyền lực chính trị được xác định là phạm trù cơ bản bởi vì nó nói lên thực chất hoạt động
chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp; việc nắm được phạm trù
này là cơ sở để nắm các phạm trù còn lại của Chính trị học. Các quan niệm hiện đại về vấn
đề quyền lực: Bertrand Russel cho rằng quyền lực là sản phẩm của những hiệu quả có chủ ý,
là phương tiện trong cuộc đấu tranh tranh đua luân lý và ganh đua chính trị. R. Dahl (Mỹ)
quan niệm nắm quyền lực là buộc người khác phải phục tùng. L. Lipson (Mỹ) xem quyền
lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ một hành động phối hợp. Grazia cho rằng Quyền lực là
khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến thái độ con người. Trong Từ điển
Bách khoa Triết học Liên Xô (cũ) có nêu Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình, có
tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó như uy tín,
quyền hành, sức mạnh…Với nghĩa chung nhất, có thể xem: “Quyền lực là cái mà nhờ đó
người khác phải phục tùng”, “là khả năng của một chủ thể buộc người khác phải phục tùng”.
Quyền lực trong xã hội có cấu trúc phức tạp được tạo thành từ nhiều loại quyền lực
khác nhau; đồng thời tồn tại, đan xen, thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành một chỉnh
thể quyền lực trong xã hội. Đáng chú ý là có 3 loại quyền lực cơ bản sau: Quyền lực công
cộng; Quyền lực chính trị; Quyền lực nhà nước.
Quyền lực công cộng: Quyền lực công cộng là loại quyền lực được nảy sinh từ một
nhu cầu chung nào đó của cả cộng đồng xã hội (ý chí chung của cộng đồng), nhờ vậy mà xã
hội có được tính tổ chức và trật tự.Quyền lực công cộng là cái vốn có của mọi xã hội, nó lấy
sự tồn tại của cả cộng đồng, dân tộc làm cơ sở xã hội của mình. Quyền lực công cộng về cơ
bản không mang tính giai cấp, nó thường mang tính dân tộc hơn tính giai cấp. Tuy vậy, trên
một số vấn đề và một số lĩnh vực nó cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp (trong trường hợp đó
quyền lực công cộng cũng mang dấu ấn giai cấp). Quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị là
quyền lực của một hay của liên minh giai cấp, của một tập đoàn xã hội (hoặc của nhân dân
lao động – trong điều kiện của CNXH), nó nói lên khả năng thực tế của một giai cấp trong
việc thực hiện ý chí của mình trong chính trị (và trong chuẩn mực pháp quyền), nhờ đó mà lợi
ích khách quan của giai cấp được hiện thực hoá trong cuộc sống.Quyền lực chính trị bao giờ


cũng mang tính giai cấp trong nội dung cơ bản của mình.Quyền lực chính trị luôn mang tính
thống nhất về cơ bản khi biểu hiện ra bên ngoài, nhưng trong quan hệ nội tại nó có thể chứa
đựng những khác biệt và mâu thuẫn.Quyền lực chính trị thường được biểu hiện bằng sức
mạnh của những tổ chức mang tính giai cấp, tính đảng phái. Quyền lực nhà nước: Xét về bản
chất, Quyền lực nhà nước là Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền (hay có thể nói cách
khác đó là hình thức thức biểu hiện Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền). Về cơ bản
Quyền lực nhà nước mang đầy đủ đặc trưng của Quyền lực chính trị. Đặc trưng cơ bản nhất
của Quyền lực nhà nước là nó có thể sử dụng một loạt các biện pháp cưỡng chế để thực thi
quyền lực trên quy mô toàn xã hội. Là một bộ phận quan trọng nhất của Quyền lực chính trị,
sự thay đổi cơ bản của Quyền lực nhà nước - bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay
giai cấp này sang tay giai cấp khác - sẽ trực tiếp dẫn đến sự thay đổi căn bản tính chất chế độ
1


chính trị (hay thể chế chính trị).Bất kỳ Quyền lực nhà nước nào cũng mang tính chính trị,
nhưng không phải mọi Quyền lực chính trị đều là Quyền lực nhà nước. So với Quyền lực
chính trị thì Quyền lực nhà nước hẹp hơn về cấp độ chủ thể, phương pháp thực hiện, hình
thức thể hiện.
Cơ chế thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền:
- Cơ chế là cách thức theo đó một quá trình thực hiện (Từ điển Tiếng Việt của Viện
ngôn ngữ học – Nxb Đà Nẵng, năm 2002). Đó là một hình thức tổ chức; kèm theo đó là chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cả bộ máy, của từng bộ phận và từng cá nhân
trong bộ máy đó để vận hành (và tất nhiên trong đó có cả vai trò điều hành, quản lý, thực
hiện) …tiến tới đạt bằng được mục đích đã đề ra cho bộ máy.
-Trong xã hội có giai cấp: có quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền và có quyền
lực chính trị của giai cấp chưa cầm quyền. Và do đó, sẽ có hai cơ chế thích ứng với từng loại
quyền lực chính trị cơ bản đó. Trong phạm vi bài viết chúng ta chỉ nghiên cứu Cơ chế thực
hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền: Chức năng của cơ chế này là lấy việc củng
cố quyền lực của giai cấp trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm duy trì, phát triển
xã hội đương thời; buộc các giai cấp và tầng lớp xã hội khác phải thực hiện các chủ trương

(kinh tế, chính trị, xã hội) do mình đưa ra. Chức năng đó được thực hiện thực hóa thông qua
cơ chế nội dung và cơ chế thực thể: Cơ chế nội dung được biểu hiện ở các nội dung: Cương
lĩnh, đường lối… thể hiện mục tiêu chính trị của giai cấp cầm quyền. Hệ thống hiến pháp,
pháp luật… để thể chế hoá mục tiêu chính trị đó. Hệ thống tổ chức thực hiện để thực hiện
(hiện thực hoá) các mục tiêu trên trong đời sống xã hội. Việc kiểm tra, giám sát nhằm nâng
cao hiệu quả hiện thực hoá mục tiêu chính trị mà giai cấp cầm quyền đó nêu ra. Cơ chế thực
thể được biểu hiện ở các nhân tố tương ứng với Cơ chế nội dung ở trên là: Đảng cầm quyền
;Cơ quan Lập pháp (Quốc hội hay Nghị viện); Cơ quan Hành pháp (Chính phủ); Cơ quan
Tư pháp (Toà án, Viện kiểm sát)
Ngoài ra không thể không kể đến vai trò các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham
gia thực hiện cơ chế nói trên (ngoài ra đối với các nước TBCN thì Phương tiện thông tin đại
chúng, hệ thống bầu cử cũng tham gia vào cơ chế đó)
- Hiệu quả của cơ chế phụ thuộc vào: Tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối chính
trị (các quyết sách chính trị) của giai cấp cầm quyền. Hệ thống Hiến pháp, pháp luật phải đầy
đủ, đồng bộ, minh bạch và mang tính khoa học cao, ổn định. Năng lực tổ chức điều hành của
cơ quan Hành pháp (từ Trung ương tới cơ sở).Tính kịp thời, chính xác, nghiêm minh của cơ
quan Tư pháp.
Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, để đảm bảo quyền lực thuộc về
nhân dân thì cần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong việc lãnh đạo
nhân dân thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị xã hội.
Một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.

2


Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của

giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mục tiêu của Đảng, của cách
mạng là giải phóng con người, mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân và
“ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào
khác”. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều là kết quả phản ánh khái quát nhu
cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhà nước là công cụ để thể chế hóa và thực
hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động, đồng thời thông qua nhà nước và
nhân dân lao động được tổ chức lại để có được sức mạnh nhằm thực hiện vai trò là
chủ thể đích thực của xã hội. Đối tượng mà quyền lực chính trị hướng tới trong
nhà nước ta là sự áp đặt ý chí của nhân dân vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, cho một chế độ xã hội mà ở đó “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung
ương đều do dân cư ra” là tư tưởng được Hồ Chủ tịch đề cập khi nói đến vai trò
chủ thể của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Các cơ quan và cán bộ nhà
nước tự nó không có quyền mà chỉ được ủy quyền từ dân. Là một nhà nước của
dân; nhân dân là người có quyền tối cao trong việc tham gia vào công việc quản lý
của Nhà nước; có quyền giám sát, phê phán, bãi miễn cán bộ nhà nước nếu họ tỏ
ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Là một nhà nước của dân, nhà
nước đó phải có trách nhiệm phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân,
khơi dậy động lực sáng tạo cho mọi cá nhân công dân. Nghĩa là mọi việc phải
xuất phát từ lợi ích, từ ý chí nguyện vọng của dân; mọi quyết định quan trọng đều
cần phải có phán quyết của dân và ý nguyện đó phải được thể chế hóa, hiện thực
hóa bằng một cơ chế hoàn thiện, những biện pháp có tính khả thi. Các đoàn thể
chính trị - chính trị của nhân dân là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là
nơi đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; là tổ
chức có vai trò trong việc phối hợp với chính quyền trong việc chăm lo, bảo vệ
các lợi ích, các nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp của nhân dân. Nó có vị
trí to lớn trong việc nâng cao quyền lực của nhân dân và củng cố cơ sở chính trị xã hội của Đảng ta; nó góp phần vào việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội,

tham gia kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tuyên truyền giáo
dục nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nói tóm lại nhà nước và các đoàn thể
xã hội - chính trị là những tổ chức mà qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình đối với toàn xã hội và đó là những công cụ quyền lực của nhân dân.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: ”Chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm lo đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi. Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có
lỗi”, “Nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể ta là phụng sự nhân dân... việc gì có
lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”.
Quyền làm chủ của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thực hiện
thông qua một hệ thống tổ chức quyền lực chính trị nhất định. Hệ thống tổ chức quyền lực
3


chính trị đó bao gồm các chủ thể cơ bản là Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị
-xã hội. Tổng thể các tổ chức trong hệ thống đó được gọi là Hệ thống chính trị. Hệ thống
chính trị XHCN là hệ thống tổ chức bao gồm Đảng cộng sản, Nhà nước XHCN, và các tổ
chức chính trị -xã hội hoạt động theo một cơ chế nhất định dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động để xây dựng CNXH. Hiệu quả
của việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động phụ thuộc vào sự hoàn thiện của
các nhân tố trong cấu trúc nêu trên và phụ thuộc vào tính đồng bộ trong mối quan hệ qua lại
của các nhân tố đó trong khi vận hành. Do đó thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị, thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động
làm chủ dựa trên cơ sở khối liên minh công - nông - trí thức... là nhằm thực hiện dân chủ
XHCN.
Đối với Đảng: Để xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai cấp, của dân
tộc cả về trí tuệ và năng lực đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính
trị, trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận của Đảng để hoạch định được những
quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học. Các quyết sách chính trị đó phải phản ánh
đúng quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của

nhân dân, chỉ ra được phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng; trên cơ sở đó
tập hợp, tổ chức, động viên quần chúng thực hiện một cách có hiệu quả. Thường
xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức; đảm bảo nội bộ luôn luôn
đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, đổi mới tư duy trong công tác cán bộ; làm tốt
hơn nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng đội
ngũ cán bộ đảng, công chức nhà nước thật sự trong sạch, có đủ đức - tài theo hướng đề
cao các yêu cầu về lập trường chính trị, tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có
thái độ tôn trọng luật pháp và thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, một
lòng, một dạ phục vụ nhân dân.Thường xuyên củng cố và tăng cường mối liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, kiên quyết chống quan liêu và xa rời quần chúng - đó là quy luật tồn
tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố tạo ra sức mạnh của Đảng. Đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng phải tập trung lãnh
đạo Nhà nước xây dựng được một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân; lãnh đạo xây dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, đồng bộ, thể hiện ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; thể chế hóa đúng đắn và kịp thời đường lối của
Đảng và tăng cường pháp chế XHCN.Đảng phải luôn luôn dựa vào và phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của các tổ chức này; khắc phục tình trạng hành chính hóa; vận động và
tổ chức nhân dân tham gia xây dựng, củng cố bộ máy Nhà nước, tham gia các công
việc và giám sát, kiểm tra hoạt động của Nhà nước và các cán bộ công chức hoạt động
trong cơ quan nhà nước; đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng,
cùng các biểu hiện tiêu cực khác.Không ngừng nâng cao trình độ dân trí - đặc biệt là
trình độ văn hóa pháp lý, văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị cho nhân dân lao động nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu biết và sử dụng quyền dân chủ, thực hành dân
chủ một cách đúng đắn.

4


Để xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai cấp, của dân tộc cả về trí tuệ và

năng lực đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ
và chất lượng công tác lý luận của Đảng để hoạch định được những Quyết sách chính
trị đúng đắn, khoa học. Các Quyết sách chính trị đó phải phản ánh đúng quy luật khách
quan và yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được
phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng; trên cơ sở đó tập hợp, tổ chức,
động viên quần chúng thực hiện một cách có hiệu quả.
Đối với Nhà nước: Tiến hành cải cách đồng bộ đối với các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước. Cụ thể là: +Đối với cơ quan Quốc hội: Cần đổi mới quy trình chuẩn bị và thông
qua các dự án luật tại các kì họp Quốc hội; xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội,
xác định rõ cơ chế giám sát đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; từng bước phát triển tỷ lệ đại biểu quốc hội chuyên trách; coi trọng việc lấy ý kiến
nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật và chuẩn bị những quyết sách của Quốc hội.
Trên cơ sở đổi mới Quốc hội mà kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động các cấp
Hội đồng nhân dân. +Đối với Chính phủ và hệ thống các cơ quan Hành pháp: Phải tiến hành
cải cách hành chính một cách đồng bộ ở các phương diện thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ
công chức, tài chính công. Trong cải cách thể chế hành chính cần bãi bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, phiền phức nhũng nhiễu; đổi mới việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật và thi hành pháp luật. Cải cách bộ máy hành chính trước hết là bố trí lại cơ cấu, tổ
chức Chính phủ cho tinh gọn, năng động và quản lý vĩ mô có hiệu quả hơn. Điều chỉnh cơ
cấu các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân các cấp theo hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong
thực thi pháp luật chính sách, kế hoạch nhằm phục vụ phát triển kinh tế -xã hội trên cả nước.
Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước trước hết là nâng cao
chất lượng đào tạo, đào tạo lại cán bộ công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước.
Đồng thời đổi mới việc quản lý đánh giá, sử dụng, đãi ngộ cán bộ công chức.+Tiếp tục cải
cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan Tư pháp: Nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ Tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy
tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai. Đối với Viện kiểm sát
nhân dân cần tập trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sóat hoạt động tư pháp. Đối
với Tòa án nhân dân cần sắp xếp lại và phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp.
Đối với cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án cần được tổ chức lại theo hướng gọn đầu

mối. Chú ý đến việc xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên,
chấp hành viên, công chức viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức,
chí công, vô tư có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân: Do tính quần chúng rộng rãi nên phương châm, phương pháp hoạt
động của các tổ chức này thể hiện ở tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành
động, cùng có lợi trong một mục tiêu chung. Các tổ chức này cần quán triệt chức năng, nhiệm
vụ cơ bản của mình trong quá trình đổi mới, cải cách là: vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của các
thành viên; vừa tổng hợp, vận động đoàn kết giúp nhau chấp hành tốt đường lối của Đảng,
luật pháp và chính sách của Nhà nước vì lợi ích của mình và của toàn dân tộc. Tăng cường
những hoạt động có tính phản biện xã hội đối với các QSCT của Đảng và Nhà nước.

5


Bên cạnh đó cần xây dựng những thiết chế cụ thể để bảo đảm cho nhân dân trực tiếp
bày tỏ ý kiến và nguyện vọng của mình trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi ích hợp
pháp của chính bản thân họ, trong việc tham gia xây dựng, quản lý nhà nước và xã hội. Cần
tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất
dân chủ, gây phiền hà cho nhân dân; chủ động giải quyết kịp thời các khiếu kiện của dân; đặc
biệt cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật trưng cầu dân ý.

6



×