Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.08 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ SẦM SƠN

TRƯỜNG MẦM NON QUẢNG CƯ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC DINH DƯỠNG VÀ
VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI

Người thực hiện: Phạm Thị Hường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Quảng Cư
SKKN thuộc lĩnh vực: Phát triển thể chất

SẦM SƠN, NĂM 2016


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1


2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu.

2

4. Phương pháo nghiên cứu.

2

II. NỘI DUNG DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

3

2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

4

2.1. Thực trạng

4

2.2. Kết quả của thực trạng


5

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

3.1 Các giải pháp thực hiện:

7

3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:

7

3.2.1.Xây dựng nế nếp học tập
3.2.2. Tạo môi trường hoạt động về dinh dưỡng và an toàn thực
phẩm.
3.2.3.Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ, lấy trẻ làm
trung tâm
3.2.4. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm thông
qua các môn học khác.
3.2.5. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở mọi
lúc mọi nơi
3.2.6. Áp dụng công nghệ thông tin vào trong họat động giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.7. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong trong
hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

7


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

8
9
10
11
12
12
13
14

1. Kết Luận.

14

2. Kiến nghị

14

3 Tài liệu tham khảo.

15


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan.”

Câu nói đó của Bác đã in sâu vào tâm trí của mỗi chúng ta, đặc biệt là
những người mẹ hiền thứ hai của trẻ - những người làm công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ mầm non. Bởi thế, để giúp trẻ phát triển toàn diện cả về thể lực và
trí tuệ thì không chỉ cần có sự yêu thương chăm sóc của gia đình mà cần phải
có cả sự yêu thương chăm sóc giáo dục của toàn xã hội đặc biệt là trường mầm
non thân yêu của trẻ. Vì chính nơi đây trẻ được lớn lên từng ngày nhờ vào sự
yêu thương chăm sóc giáo dục của các cô giáo. Như chúng ta đã biết, chăm sóc
sức khoẻ cho trẻ trong độ tuổi ở trường mầm non là một việc làm hết sức quan
trọng và cần thiết. Trẻ thơ của chúng ta lớn lên là nhờ vào sự nâng niu, âu yếm
và bằng sự yêu thương chăm sóc của ông bà, cha mẹ và của những người mẹ
hiền thứ hai là cô giáo.
“Sức khoẻ là vốn quý của con người” và đời người lại được khởi đầu
bằng tuổi trẻ. Để có một tương lai thì chúng ta không thể bỏ qua một yếu tố
quan trọng là “Sức khoẻ của trẻ thơ” trẻ có được sức khoẻ tốt thì chúng sẽ tham
gia tích cực vào các hoạt động vui chơi và phát triển toàn diện về đức - trí - thể
- mỹ - lao động. Trường học là cái nôi nuôi nấng trẻ thơ nên người và mỗi
chúng ta, ai cũng mong muốn cho con em mình nên người, khoẻ mạnh. Nhưng
làm thế nào để cho đứa trẻ thật sự khoẻ mạnh thì quả là một điều khó khăn, là
một điều mà không ít các cô giáo mầm non đang trăn trở. Là một giáo viên
mầm non, đã và đang trực tiếp làm công tác chăm sóc – giáo dục trẻ, tôi nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
đối với con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng là rất cần thiết. Chính về
thế, song hành cùng các môn học, các hoạt động trong trường mầm non mà các
cô giáo cung cấp cho trẻ, thì kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực

1


phẩm cũng là kiến thức quan trọng không thể bỏ qua. Bởi khi nhận thức và hiểu
được về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ giúp cho trẻ biết tự chăm

sóc mình; từ đó cũng phần nào nâng cao tính tự lập ở trẻ góp phần giúp cho trẻ
phát triển toàn diện hơn về đức - trí - thể - mỹ -lao động .
Xuất phát từ tầm quan trọng đó của công tác giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm nhưng qua hoạt động hàng ngày tôi thấy chất lượng
dinh dưỡng và an toàn thực phẩm còn chưa đạt kết quả cao cho nên là một giáo
viên mầm non, năm học này tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công
đứng lớp 5- 6 tuổi, đã và đang trực tiếp làm công tác chăm sóc - giáo dục trẻ tôi
đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi” với mong muốn sẽ truyền thụ những
kiến thức, kĩ năng, thái độ cơ bản cho trẻ về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm
để trẻ mầm non bước vào đời với sức khỏe tốt, thông minh nhanh nhẹn và sau
này lớn lên trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi có kiến thức sơ đẳng về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm. Từ đó trẻ có kỹ năng trong một số hoạt động về dinh
dưỡng và vệ sing an toàn thực phẩm
3. Đối tượng nghiên cứu
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ Mẫu
giáo 5 - 6 tuổi tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi Hoa Hồng, Trường Mầm non Quảng
Cư.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp:
* Phương pháp quan sát.
* Phương pháp đàm thoại.
* Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
* Phương pháp thu nhập thông tin.
* Phương pháp thống kê.

2



* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ở trường mầm non chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm có vai trò rất quan trọng nhằm nâng cao kiến thức về dinh dưỡng và
an toàn thực phẩm tới trẻ, tới cô giáo, tới phụ huynh học sinh và tất cả mọi
người trong cộng đồng chúng ta. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến tình cảm, lí trí
của con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành động để đi đến tự
giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khỏe của cá nhân, tập thể và cộng đồng.
Nhất là đối với sức khỏe của trẻ em. Trẻ được ăn uống theo đúng yêu cầu dinh
dưỡng thì trẻ sẽ có sức khỏe tốt, trẻ em khỏe mạnh thì trẻ sẽ tham gia tích cực
vào các hoạt động vui chơi, học tập một cách tích cực từ đó phát triển toàn diện
về các lĩnh vực giáo dục, phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Như chúng ta đã biết hiện nay vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm đang là mối quan tâm lớn nhất của toàn xã hội. Đặc biệt đối với ngành
giáo dục, trong đó bậc học Mầm non thì vấn dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm đóng vai trò rất quan trọng đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục trẻ trong nhà trường. Hơn nữa, vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm giữ vị trí quan trọng đối với sức khoẻ trẻ thơ nó góp phần nâng cao sức
khỏe, trí tuệ của trẻ trong xã hội ngày càng phát triển. Chăm sóc nuôi dưỡng vệ
sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non là
việc hết sức quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân cần rất quan tâm đến. Riêng
đối với bậc học mầm non việc chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ sức khỏe của
trẻ, được đặt lên hàng đầu, vì mục tiêu giáo dục mầm non là hình thành nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa, giúp cho trẻ khỏe mạnh hồn nhiên vui
tươi phát triển cơ thể cân đối hài hòa. Nếu chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ không tốt
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao ảnh hưởng đến trí
tuệ của trẻ. Do đó việc nuôi dưỡng và giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn

thực phẩm cho trẻ cần được quan tâm và thực hiện một cách có hiệu quả. Khi

3


trẻ hiểu về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng góp phần để trẻ tự
bảo vệ sức khỏe cho bản thân và còn góp phần phát triển thể lực, trí lực tạo tiền
đề cho trẻ phát triển toàn diện nhân cách ở lưa tuổi và cả sau này.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng :
* Thuận lợi:
Trường mầm non Quảng Cư luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ủy
ban nhân dân xã , Phòng giáo dục, cho nên nhà trường đã có bếp một chiều với
đầy đủ đồ dùng dụng cụ phục vụ cho các cháu bán trú tại trường và được kiểm
tra công nhận bếp vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các lớp luôn được bổ sung đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ dinh dưỡng
và bán trú.
Đội ngũ được phân công chăm sóc các cháu đều là những người có kinh
nghiệm và nhiệt huyết với nghề. 100% giáo viên trong trường đều đạt trình độ
chuẩn và trên chuẩn.
Trong công tác chăm sóc và giáo dục, chúng tôi luôn được sự quan tâm
hướng dẫn nhiệt tình của các chuyên viên phòng giáo dục, của ban giám hiệu
nhà trưòng nên giáo viên chúng tôi nắm được kiến thức về giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các cháu trong lớp đều có cùng độ tuổi. Lớp Hoa Hồng tôi phụ trách các
cháu đều ở cùng thôn, cách ăn uống, vệ sinh tương đối giống nhau
* Khó khăn:
Ngoài những thuận lợi đã có thì chúng tôi cũng gặp không ít những khó
khăn khi giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, như:
Một số trẻ không học qua các lớp nhỏ mà đến độ tuổi 5 tuổi phụ huynh

mới cho trẻ đi học nên trẻ chưa có thói quen vệ sinh, nề nếp như các trẻ khác,
các trẻ này chưa có khái niệm về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Khi
được hỏi cháu lúng túng thậm chí không trả lời được nên khi thực hành trẻ
không thực hiện được dẫn đến kết quả đạt được trên trẻ không cao.

4


Công tác phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường còn nhiều hạn chế do
hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của các gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên ít
có thời gian quan tâm chăm sóc con. Kiến thức về giáo dục dinh dưỡng và an
toàn thực phẩm còn hạn chế.
Một số trẻ được nuông chiều, thích ăn gì có đấy; một số trẻ điều kiện gia
đình khó khăn thì lại không đủ ăn. Bởi vậy, trẻ chưa thực sự biết được tầm quan
trọng của việc ăn đủ chất, không hiểu được thứ trẻ ăn cung cấp cho trẻ chất gì
mà chỉ thích thì ăn.
Giáo viên còn lúng túng khi tích hợp phần giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm qua các môn học khác, chưa tổ chức được cho trẻ qua
các hoạt động như hoạt động góc hay hoạt động vui chơi ngoài trời hoặc ở mọi
lúc mọi nơi.
Kiến thức giáo dục dinh dưỡng và an toàn thực phẩm không có môn học
nào nhất định mà giáo viên chỉ lồng ghép tích hợp trong các môn học và các
hoạt động khác.
2.2. Kết quả của thực trạng:
Qua thực nghiệm trên lớp và qua dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy kết quả
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trên trẻ chưa cao, trẻ lĩnh
hội kiến thức còn dập khuôn, thụ động.
Ví dụ: Khi cho trẻ tham gia hoạt động góc phân vai: đóng vai thành viên
gia đình như thể hiện hành động nấu ăn, cô hỏi:
“ Bác” đang làm gì đấy?

Nấu món gì?
Hay: bác ơi nấu món này như thế nào ?
Trẻ còn chậm trong việc trả lời cô có khi trẻ chỉ nói theo bạn mà không
biết đúng hay sai, hoặc chế biến món ăn mà không biết mình đang “nấu” món
gì. Nhiều trẻ còn chưa biết ăn nhiều các loại thức ăn khác nhau

5


Chưa phân biệt được các chất dinh dưỡng được cung cấp từ các món ăn
hàng ngày; Chưa có thói quen vệ sinh trước và sau khi ăn, khi ăn còn rơi vãi
nhiều, nói chuyện trong giờ ăn...
Cô giáo còn chưa chú ý nhiều đến từng cá nhân trẻ, những trẻ thông
minh nhanh nhẹn chưa được bộc lộ khả năng của mình, những trẻ yếu, trẻ nhút
nhát chưa được bổ sung những thiếu sót. Trẻ được thực hành ít nên có khi kiến
thức nắm được lại dễ quên.
* Với thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát ban đầu và thu được kết
quả như sau:
Đạt
Nội dung
Trẻ biết gọi tên các
loại thực phẩm đơn
giản
Phân loại, nhận
biết, phân biệt được
4 nhóm thực phẩm
thông thường
Trẻ biết ăn nhiều
loại thức ăn khác
nhau

Trẻ biết hoạt động
chế biến các món
ăn đơn giản
Trẻ biết sử dụng
dụng cụ ăn uống
đơn giản
Có thói quen vệ
sinh văn minh
trong ăn uống
- Có thói quen VS
cá nhân.

Số
trẻ

Tốt

Khá

Trung
bình
Số Tỷ lệ
trẻ (%)

Chưa đạt
Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)


Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)

Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)

7

20

7

20

15

42,9

6

17,1

35


4

11,4

9

25,7

9

25,7

13

37,2

35

7

20

7

20

14

40


7

20

35

3

8,6

4

11,4

4

11,4

24

68,6

35

21

60

5


14,3

6

17,1

3

8,6

35

3

8,6

8

22,9

9

25,7

15

42,8

35


Từ thực trạng trên, để khắc phục những hạn chế và nâng cao nhận thức,
hiểu biết về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ giúp trẻ phát triển
6


toàn diện về thể lực và trí tuệ, tôi đã đưa ra một số biện pháp giúp cho việc giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với trẻ 5- 6 tuổi đạt hiệu quả
cao hơn.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Các giải pháp thực hiện
- Không ngừng tự rèn luyện tích lũy nghiệp vụ, tham gia các lớp bồi
dưỡng chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên
bồi dưỡng trau dồi kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Thường xuyên làm đồ dùng, đồ chơi bằng các nguyên vật liệu sẵn có,
sưu tầm mua sắm thêm đồ dùng đồ chơi phong phú hấp dẫn với trẻ.
- Cô giáo thường xuyên sưu tầm, chọn lọc các trò chơi, bài thơ, câu đố
về dinh dưỡng, sưu tầm các món ăn đơn giản, các tranh ảnh minh hoạ phù hợp
với nội dung về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Học hỏi qua dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp để cùng tìm ra những
sáng kiến, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình tổ
chức các hoạt động để đảm bảo truyền thụ đầy đủ, đúng nội dung về dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với lứa tuổi, với từng đặc điểm cá
nhân trẻ.
- Giáo viên phải linh động, sáng tạo khi sử dụng các phương pháp dạy
học, lựa chọn hình thức giáo dục linh hoạt để tạo cơ hội phát huy tính tích cực
hoạt động của trẻ.
- Làm tốt công tác tuyên truyền tầm quan trọng và ý nghĩa của dinh
dưỡng và an toàn thực phẩm đến tất cả các bậc phụ huynh.
Bên cạnh đó giáo viên luôn nắm vững những đặc điểm tâm lí lứa tuổi

của trẻ để cô vừa là người bạn, người mẹ vừa là người hướng dẫn giúp trẻ thấy
thoải mái tự tin, tham gia tích cực và đạt hiệu quả cao trong hoạt động.
3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện.
3.2.1. Xây dựng nề nếp học tập:

7


Tôi luôn chú trọng xây dựng nề nếp học tập trong giờ học cũng như các
hoạt động trên lớp của trẻ. Nề nếp của trẻ là điểm đầu tiên cho mọi hoạt động
của trẻ, nếu trẻ không nề nếp tốt sẽ dấn đến kết quả học tập không tốt. Tôi rèn
nề nếp bằng cách chia tổ, đặt tên tổ và bầu ra tổ trưởng. Trong giờ học, xếp
cháu mạnh dạn với cháu nhút nhát, cháu yếu kém xếp phía trên gần cô. Những
cháu thiếu tập trung hay phân tán tư tưởng, tôi quan tâm động viên, khích lệ trẻ
tập trung chú ý, kịp thời uốn nắn tác phong ngồi học, thái độ kết hợp với bạn
trong nhóm cho những cháu chưa chú ý, có tính cá nhân. Cuối ngày nhận xét,
nêu gương và bình cờ, có thái độ khen chê rõ ràng đối với trẻ.
3.2.2. Tạo môi trường hoạt động về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm
Môi trường hoạt động sẽ giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện nhiều
điều mới lạ; các kiến thức, kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung. Vì thế, tôi
luôn trang trí lớp, tạo môi trường học tập phong phú . Trong lớp tôi có làm
bảng biểu “ Bé với dinh dưỡng” với đầy đủ các nhóm thực phẩm và tôi đã chia
theo nhóm với hình thức tạo góc mở để trẻ hoạt động . Bầy đồ chơi đẹp như các
dụng cụ, đồ dùng đồ chơi đẻ trẻ có thể thực hành chế biến món ăn. Chuẩn bị
một số nguyên liệu gần gũi, những nguyên liệu chế biến món ăn đơn giản để trẻ
có thể thực hành dễ dàng. Ngoài ra, tôi còn treo một số hình ảnh về vệ sinh
trong ăn uống, cách ngồi ăn và sử dụng đồ dùng, dụng cụ để trẻ được quan sát
học tập và rút ra kinh nghiệm cho mình.
Môi trường hoạt động thuận lợi sẽ giúp trẻ tri giác tốt hơn; thông qua
những hình ảnh miêu tả về hành động việc làm cũng phần nào giúp trẻ phâmn

tích, so sánh, tổng hợp tìm ra những đặc điểm chung, riêng của từng nhóm thực
phẩm. Từ đó cũng giúp trẻ tìm ra phương thức thể hiện những tình huống khác
nhau. Chẳng hạn, khi được quan sát, tìm hiểu về nhóm thực phẩm nào đó, trẻ sẽ
nghĩ đến ngay xem đó là loại thực phẩm nào, thuộc nhóm nào, có thể chế biến
ra sao? Cần sử dụng những dụng cụ gì? Ăn uống, chế biến thế nào cho an toàn,
“hợp vệ sinh”...Và cũng sẽ dễ dàng đưa ra ý kiến khi cô hỏi hoặc trao đổi, bàn
bạc với bạn bè.

8


Môi trường hoạt động sẽ tạo cho trẻ cảm giác thích thú, sung sướng;
mong muốn được tìm hiểu và tái tạo. Nhờ đó, trẻ có thể thường xuyên quan sát,
đưa ra những ý tưởng và tập trung, chú ý vào hoạt động để dãi bày ý tưởng đó.
3.2.3. Phương pháp hướng dẫn phải dựa vao trẻ, lấy trẻ làm trung
tâm.
Hãy để trẻ tự thể hiện và khuyến khích trẻ sáng tạo; trẻ cần được động
viên để thẻ hiện ý muốn, hiểu biết của mình. Trẻ cần được thể hiện dưới những
hình thức, phương tiện khác nhau - có thể từng cá nhân, theo nhóm tự đưa ra ý
tưởng và thực ý tưởng. Chẳng hạn, sau “một chuyến” đi thăm quan khu nhà bếp
của trường, trẻ được quan sát các hoạt động, cách chế biến thực phẩm, cách bảo
quản thực phẩm, cách vệ sinh khi chế biến như thế nào ( thực phẩm và môi
trường xung quanh khu nhà bếp phải được giữ vệ sinh sạch sẽ, khi chuẩn bị cho
sơ chế phải rửa tay, rửa thực phẩm...), trẻ sẽ tái tạo lại bằng những hành động,
việc làm của trẻ như thực hành trong góc nội trợ: chọn thực phẩm (mua - bán),
phân biệt nhóm để biết phối hợp chế biến thức ăn cho đủ 4 nhóm trong bữa ăn,
chế biến món ăn ( phân công người rửa rau, rửa- thái thịt...) và dùng đồ dùng,
dụng cụ để nấu, để ăn cho hợp lý; rồi vệ sinh sạch sẽ trong khi chế biến, khi
nấu cũng “như khi” tổ chức ăn.
Khi hướng dẫn cung cấp kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn

thực phẩm cho trẻ, cô phải khéo léo khi lựa chọn nội dung kiến thức sao cho
phù hợp với nội dung bài dạy. Tôi luôn phải lựa chọn những ngôn từ sao cho
cung cấp, khi hỏi, khi dặt tình huống trẻ dẽ hiểu, trẻ dễ dàng nhận thức được
vấn đề và đưa ra đáp án.
Ví dụ: Ngày chủ nhật tuần này, gia đình bạn búp bê được nghỉ, cả gia
đình sẽ chuẩn bị những món ăn ngon để liên hoan , bạn búp bê sẽ nhờ các con những người nội trợ giỏi đến giúp bạn. Theo con, con sẽ chuẩn bị món gì ; sẽ
bắt đầu như thế nào; tiếp theo sẽ như thế nào; Trong bữa ăn cần ăn như thế nào
mới dảm bảo sức khoẻ hãy nói cho gia đình bạn búp bê biết nào....

9


Tức là cô sẽ để trẻ tự thể hiện ý tưởng của mình và cô là người gợi ý
giúp đỡ. Khi trẻ thể hiện cô cần tăng cường các câu hỏi gợi ý nhằm giúp trẻ
củng cố lại những gì trẻ đã lĩnh hội được, khuyến khích trẻ sáng tạo, suy nghĩ
để giải quyết vấn đề. Từ đó, cô thăm dò được khả năng của trẻ để có biện pháp
thích hợp hơn.
3.2.4. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua
các môn học.
Như trên tôi đã đề cập: “Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm không phải là một môn học riêng trong chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ mầm non”. Chính vì thế, cô giáo cần linh động, sáng tạo phương pháp tích
hợp dựa trên nền tảng đổi mới phương pháp giáo dục; quá trình vận dụng tích
hợp cần lựa chọn nội dung phù hợp, logic, tránh quá trình trở nên chắp vá, rời
rạc
Trong hoạt động: làm quen với môi trường xung quanh, khi học về các
loại quả - hạt phổ biến, cô có thể khai thác lĩnh vực dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm bằng cách hỏi, gợi ý để trẻ nói lên những gì trẻ biết: quả đó
cung cấp chất gì? Hạt cung cấp chất gì? Trước khi ăn cần làm gì?... Đến phần
luyện tập, cô có thể kết hợp trò chơi: chọn quả một hạt, quả nhiều hạt. Chọn hạt

cung cấp chất bột ( đỗ, gạo...), hạt cung cấp chất dầu mỡ ( lạc, vừng...). Hay khi
học về các loại rau, cô cũng có thể gợi ý để trẻ nói xem rau cung cấp chất gì?
Chế biến được những món gì? Làm thế nào? Trước và khi ăn thì phải như thế
nào?...
Trong hoạt động tạo hình, bài vẽ thực phẩm, cô có thể gợi ý để trẻ vẽ
theo nhóm (chất bột, chất béo, chất đạm và vitamin) . Hoặc khi nặn các loại
quả, cô sử dụng câu hỏi để trẻ nói được quả cung cấp chất gì và khi ăn thì cần
phải như thế nào?...
Trong hoạt động làm quen với chữ cái, khi treo tranh để trẻ làm quen, cô
sẽ tùy thuộc vào tranh để khai thác hay có thể sử dụng câu đố trước khi treo
tranh. Ví dụ cô đọc câu đố về quả na trước khi treo tranh rồi hỏi: ai biết gì về

10


quả na? Trẻ có thể miêu tả về quả na có thể nói được quả na cung cấp chất gì và
nếu trẻ không nói dược cô gợi ý để trẻ nói ra.
Như vậy, cô có thể lồng ghép vào các hoạt động, các môn học trong
chương trình. Xong điều quan trọng là phải biết tích hợp, lồng ghép sao cho
hợp lý, tùy thuộc vào nội dung của bài dạy để lựa chọn nội dung tích hợp sao
cho hoạt động không bị rời rạc, chắp vá, khô khan.
3.2.5. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở mọi lúc
mọi nơi.
Trẻ được làm quen với môi trường xung quanh trẻ; ngoài việc quan sát,
ngắm nhìn, sờ nắm,trẻ còn tìm hiểu khám phá những gì trẻ thấy. Khi được dạo
chơi ngoài trời - thăm vườn rau của trường, ngoài việc nói về những đặc điểm
của các loại rau, trẻ còn có thể nói xem rau cung cấp chất gì? Chế biến những
món ăn gì?Chế biến như thế nào? Khi nấu, khi ăn phải như thế nào? Hoặc khi
trò chuyệnvề các loại rau quả, con vật, cô cũng có thể gợi ý để trẻ nêu ra nhẽng
chất dinh dưỡng trong thực phẩm và vệ sinh khi ăn, khi chế biến thực phẩm ấy.

Khi cho trẻ tham gia hoạt động góc, tôi cho trẻ thực hành chế biến món
ăn ở góc phân vai; xây dựng cửa hàng bán thực phẩm và chia theo nhóm; vẽ
thực phẩm theo nhóm ở góc nghệ thuật hay phân loại thưc phẩm theo nhóm ở
góc học tập...
Giờ ăn, trước khi ăn, nhắc trẻ đi rửa chân tay mặt mũi; sau khi chia cơm
cho trẻ, tôi hỏi xem hôm nay con được ăn món gì? cung cấp chất ding dưỡng
gì? Khi ăn phải như thế nào (ngồi nghiêm tức, không làm rơi vãi, không bốc
tay, nếu ho hay hắt hơi phải lấy tay che miệng...). khi ăn xong, nhắc trẻ đánh
răng, xúc miệng, vệ sinh trước khi ngủ. thường xuyên như thế, tôi dã tạo được
thói quen cho trẻ trong việc ăn uống của trẻ. từ việc nhận biết món ăn, phân
biệt món ăn đến cách sử dụng đồ dùng trong ăn uống và vệ sinh trong ăn uống
Giờ hoạt động chiều, tôi tổ chức trò chơi, đọc câu đố về thực phẩm rồi có
thể khai thác về lĩnh vực dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.

11


Ngoài ra, trong hoạt động trò chuyện buổi sáng hay một lúc nào đó trong
ngày, ngoài giờ học, trẻ vẫn có thể được tìm hiểu về dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm. ví dụ: trẻ chăm trú ngắm nhìn hình ảnh tôi treo ở góc “Bé với
dinh dưỡng”, tôi hỏi hình ảnh đó vẽ gì? Chỉ cho cô món giàu chất đạm, giàu
chất bột...? Hay con biết món này chế biến như thế nào không? Khi ăn cầ phải
như thế nào?...
Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường cũng
không kém phần quan trọng. Tôi thường trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trẻ
và trả trẻ về tình hình học tập của trẻ để phụ huynh nắm được tình hình của con
em mình và có biện pháp giáo dục trẻ ở nhà. Những phụ huynh không có điều
kiện đưa đón, tôi viết giấy mời để phụ huynh thu xếp lên trao đổi với cô giáo.
Nói tóm lại, khi sử dụng các biện pháp, cô cần linh động sáng tạo, biết
lựa chọn nội dung tích hợp phù hợp. Tùy vào sự hứng thú, đặc điểm tâm- sinh

lý, nhận thức của trẻ; tùy thuộc vào nội dung của bài dạy để cô cung cấp kiến
thức giúp trẻ lĩnh hội tốt và đạt hiệu quả cao.
3.2.6. Áp dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm:
Để trẻ hứng thú hơn tôi luôn áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm như cho trẻ quan sát một số
hình ảnh trên ti vi, băng đĩa, máy tính về thực phẩm và giới thiệu cho trẻ biết
những thực phẩm đó cung cấp chất gì? Hình ảnh trẻ đang thực hiện thói quen
vệ sinh trong sinh hoạt hằng ngày.
Những hình ảnh trẻ suy dinh dưỡng, trẻ béo phì để trẻ biết suy dinh
dưỡng không tốt và béo phì cũng không tốt cho cơ thể.
3.2.7. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh tronghoạt động giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm:
Phối hợp với phụ huynh trong hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩmlà rất quan trọng. Vì qua đó chúng ta biết được sở thích các

12


món ăn, thói quen vệ sinh của trẻ ở nhà để có cách giáo dục thống nhất giữa gia
đình và phụ huynh.
Ví dụ như: ở trường cô thường dạy cháu có thói quen vệ sinh trước và
sau khi ăn: như rửa tay trước khi ăn, khi ăn không nói chuyện, cười đùa, không
làm rơi vãi cơm, nếu rơi vãi cơm biết nhặt vào đĩa thì ở nhà phụ huynh cũng
rèn luyện những thói quen đó nếu không trẻ sẽ không có thói quen được .
Trao đổi cho phụ huynh biết về kiến thức giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩmcho trẻ. Tuyên truyền với phụ huynh trong việc quyên góp
đồ dùng phế thải như lọ com pho, đĩa CD cũ, lọ rửa bát… để làm đồ chơi.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi sử dụng các phương pháp dạy học, thực hiện các biện pháp trên,

tôi thấy các kiến thức trẻ lĩnh hội được rất chính xác. Những trẻ thông minh đã
có nhiều ý tưởng sáng tạo và thực hiện được những ý tưởng đó. Bên cạnh đó,
trẻ nhận biết và phân biệt được những nhóm thực phẩm, tự biết chăm sóc cho
mình: ăn uống các món khác nhau với các nhóm chất khác nhau, vệ sinh thân
thể cũng như giữ gìn vệ sinh trong ăn uống để đảm bảo sức khỏe.
Khi nghiên cứu và sử dụng các biện pháp trên để giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, tôi đã thu được kết quả rất khả quan:
Đạt
Nội dung

Số
trẻ

Trẻ biết gọi tên các
loại thực phẩm đơn 35
giản
Phân loại, nhận
biết, phân biệt được
35
4 nhóm thực phẩm
thông thường
Trẻ biết ăn nhiều
loại thức ăn khác 35
nhau

Tốt

Khá

Trung

bình
Số Tỷ lệ
trẻ (%)

Chưa đạt
Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)

Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)

Số
trẻ

Tỷ lệ
(%)

10

28,6

14

40


11

31,4

0

0

12

34,3

14

40

9

25,7

0

0

13

37,1

10


28,6

12

34,3

0

0

13


Trẻ biết hoạt động
chế biến các món 35
ăn đơn giản
Trẻ biết sử dụng
dụng cụ ăn uống 35
đơn giản
Có thói quen vệ
sinh văn minh
trong ăn uống
35
- Có thói quen VS
cá nhân.

6

8,6


7

20

16

62,8

6

8,6

23

65,7

12

34,3

0

0

0

0

10


28,6

12

34,3

13

37,1

0

0

Như vậy, khi giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 5
tuổi, nếu các biện pháp trên được áp dụng một cách linh động, sáng tạo thì tôi
tin rằng những kiến thức trẻ nắm được sẽ đem lại kết quả tốt đẹp; không chỉ
nhận thức dược vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn giáo dục cho trẻ
tính tự giác, tự lập góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện ở trẻ.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên đây là toàn bộ bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi, tôi xoay quanh
vấn đề làm thế nào để giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho
trẻ 5-6 tuổi đạt kết quả tốt nhất. Tôi đã đầu tư nghiên cứu ngay tại lớp của mình
với tình cảm, trí tuệ, khả năng của bản thân. Nghiên cứu những nội dung giáo
dục cung cấp cho trẻ, đồng thời áp dụng các biện pháp đã nêu, tôi thấy rằng tất
cả đều phù hợp với tình hình đặc điểm cũng như nhận thức của trẻ trong lớp.
Là cô giáo mầm non tôi luôn cố gắng trau rồi những hiểu biết về dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mọi người nói chung và trẻ mầm non nói

riêng nhằm cung cấp cho trẻ những kiến thức, kĩ năng thái độ đúng về dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
2. Kiến nghị
Để phát triển giáo dục toàn diện cho trẻ những năm tới và đáp ứng với
nhu cầu hiện nay. Tôi kính đề nghị Ban giám hiệu nhà trường quan tâm và tạo
14


điều kiện hơn nữa cho chị em giáo viên chúng tôi được học hỏi nhiều về
chuyên môn, đồng thời hỗ trợ đồ dùng, đồ chơi, một sồ trang thiết bị dạy học
để chị em chúng tôi có điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ tốt hơn.
Đối với phòng giáo dục: tôi mong muốn và kính đề nghị chọn các sáng
kiến kinh nghiệm hay về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm để giáo viên
chúng tôi được học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong việc tổ chức hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ.
Trong quá trình tìm hiểu, viết sáng kiến kinh nghiệm bản thân tôi sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong sự quan tâm, giúp đỡ và góp
ý kiến của các chuyên viên phòng giáo dục, ban giám hiệu nhà trường cùng các
đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Để nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các tài liệu tham khảo:
* Đánh giá và kích thích sự phát triển của trẻ 3 – 6 tuổi- Tác giả Tạ Ngọc
Thanh – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
* Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non – Tác
giả Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Tuyết – Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Sầm Sơn, ngày 02 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết

Nguyễn Thị Quý
Phạm Thị Hường

15


16



×