Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hành tiếng việt cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.33 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG THỰC HÀNH
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Đỗ Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Thế
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2016
1


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

1. Mở đầu:
1

2

1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
2.3. Các biện pháp thực hiện chủ yếu.
* Biện pháp 1: Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh.
* Biện pháp 2: Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc
chuẩn bị bài.
* Biện pháp 3: Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ
ngữ thông qua hợp tác nhóm trong các tiết học.
* Biện pháp 4: Đưa ra các dạng bài tập trắc nghiệm.
* Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đánh giá kết quả thực
hành.
* Biện pháp 6: Tổ chức các trò chơi tạo hứng thú học tập.
* Biện pháp 7: Chấm, chữa bài chính xác.
* Biện pháp 8: Phối - kết hợp với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường.
* Biện pháp 9: Động viên, khuyến khích học sinh kịp thời.
2.4. Hiệu quả.

1
2
2
2
2
3
4
4
4

5
7
9
9
10
10
11
11

3. Kết luận và Kiến nghị:
3

3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

12
12

2


Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng thực hành Tiếng
Việt cho học sinh lớp Ba.
1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong cuộc sống xã hội, quan hệ giữa người với người, quá trình hoạt
động trong mọi lĩnh vực thì giao tiếp đóng vai trò quan trọng. Con người có thể
giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện nhưng phương tiện thông thường và
quan trọng nhất là ngôn ngữ. “Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm,
cảm xúc nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, sự cộng tác giưa các thành viên

trong xã hội”
Trong những năm gần đây, Nghị quyết của Đảng và các văn kiện của Nhà
nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều đưa ra mục đích là giáo dục học sinh trở
thành con người toàn diện. Thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày
04/11/2013 của BCHTW về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”. Đây là một
trong những thách thức lớn của ngành giáo dục nước nhà. Để đạt được mục đích
này, nhiệm vụ của người giáo viên ngoài việc giáo dục đạo đức cho học sinh còn
phải cung cấp cho các em một vốn hiểu biết về văn hóa thông qua tất cả các môn
học.
Trong thực tế công tác giảng dạy ở Tiểu học hiện nay, các em học sinh,
nhất là vào giai đoạn đầu cấp học, vốn từ rất nghèo nàn, kĩ năng sử dụng từ còn
hạn chế, chưa nắm chắc cấu trúc câu,…Do đó, khi dùng từ để nói, viết thành
câu, các em sử dụng còn tùy tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng
theo ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn
lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết
ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào…Vì vậy, các câu, bài cứ na ná nhau. Học
sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà chỉ đơn thuần là
những câu liệt kê, thông báo đơn giản; học sinh dùng từ sai, làm cho người khác
không hiểu ý cần diễn đạt…
Vậy làm thế nào để dạy học sinh tiểu học sử dụng tiếng Việt một cách cơ
bản thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng Việt để từ đó phát triển lên một
mức độ nói – viết hay? Với thời lượng nội dung quy định cho từng tiết học môn
Tiếng Việt ở tiểu học hiện nay thì việc dạy học sinh sử dụng tiếng Việt nói chung
là hợp lí. Tuy nhiên, khi dạy các tiết ôn luyện, rèn kĩ năng môn Tiếng Việt ở buổi
học thứ hai (lớp học 2 buổi/ngày), giáo viên còn gặp không ít khó khăn và lúng
túng. Giáo viên cũng ít được dự giờ, học hỏi lẫn nhau về những tiết học loại này;
các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên cũng chưa đề cập đến, chưa có một quy trình
cụ thể hay tài liệu tham khảo nào dành cho các tiết rèn kĩ năng như các tiết dạy

chính khóa. Nhiều giáo viên đành “tự biên, tự diễn”. Nếu không sáng tạo linh
hoạt, giáo viên chỉ dạy theo kiểu lặp lại dạng bài của các tiết chính thì hiệu quả
3


của các tiết rèn kĩ năng chỉ dừng lại ở chỗ “ôn lại bài vừa học”. Điều này làm
cho học sinh Hoàn thành tốt cảm thấy nhàm chán, học sinh chưa hoàn thành thì
sinh ra ỷ lại, thụ động, khó phát triển được tư duy ngôn ngữ.
Từ những điều nêu trên, tôi đã áp dụng một số biện pháp trong giảng dạy
các tiết Tiếng Việt, Hướng dẫn Tiếng Việt và bước đầu thu được những kết quả
tốt. Đó cũng là một trong những lí do để bản thân tôi mạnh dạn chọn cho mình
sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 2015 – 2016 “Một số kinh nghiệm rèn kĩ
năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba” này mong được chia sẻ cùng
đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Việc rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh nhằm giúp cho các em
rèn luyện, củng cố và nâng cao vốn kiến thức cơ bản về tiếng mẹ đẻ. Từ năm
học 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản chính thức ban hành
Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT quy định về việc đánh giá đối với học sinh Tiểu
học. Từ thực tế này cho thấy, việc rèn cho học sinh có kĩ năng thực hành Tiếng
Việt là một việc làm hết sức quan trọng và phù hợp với thực tiễn giảng dạy hiện
nay. Bởi lẽ, khi các em có được kĩ năng này thì các em mới thật sự có tâm lí
thoải mái, tự tin trong học tập, rèn luyện, có cơ hội phát huy cao nhất năng lực
của mình. Từ đó các em mới biết cách tự đánh giá bản thân mình và có khả năng
biết nhận xét, góp ý cho bạn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi tập trung vào nội dung sẽ nghiên
cứu, tìm và vạch ra các giải pháp để giúp học sinh lớp Ba có một số kĩ năng thực
hành Tiếng Việt tốt, các kĩ năng này sẽ được thể hiện thông qua các hoạt động
sống và sinh hoạt hằng ngày của các em ở trường cũng như ở nhà hay bất cứ nơi

nào.
- Học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Thọ Thế.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.

2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ xưa đến nay, ông cha ta luôn đề cao việc giáo dục lời nói trong giao
tiếp “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Áp dụng phương châm “Tiên học lễ,
hậu học văn”, trong nhà trường không chỉ dạy cho các em viết, thực hành trên
giấy mà còn dạy các em biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Đây là
một việc làm hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh. Giao tiếp
đóng vai trò quan trọng hàng đầu và xuyên suốt quá trình học môn Tiếng Việt.
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng
nghe, đọc, nói, viết cho học sinh. Các kĩ năng này có tác động qua lại lẫn nhau.
4


Nó hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành tri thức. Nó là phương tiện giao tiếp
không thể thiếu giữa người này với người khác trong cả nước, giúp cho các dân
tộc và các địa phương có thể phát triển đồng đều về các mặt kinh tế, khoa học, kĩ
thuật...Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong bậc Tiểu học,
là phương tiện chủ yếu để học sinh có thể tiếp thu kiến thức của các môn học
khác. Đó là công cụ hữu hiệu trong hoạt động giao tiếp của học sinh, giúp học
sinh tự tin và hòa nhập các hoạt động học tập trong trường học. Bên cạnh đó,
môn Tiếng Việt giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kĩ năng cơ bản ở Tiểu

học.
Dạy môn Tiếng Việt nhằm góp phần phát triển năng lực trí tuệ cho học
sinh. Đồng thời từng bước giáo dục cho các em những tình cảm đẹp, những thói
quen tốt. Đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành những phẩm chất con người
mới.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp 3A do tôi phụ trách có 30 học sinh. Một số em có hoàn cảnh gia đình
khó khăn, chưa có sự quan tâm chu đáo và chặt chẽ của cha mẹ nên các em ở
đây có một thực tế đáng quan tâm là khả năng giao tiếp còn hạn chế, chất lượng
sử dụng ngôn từ trong khi học Tiếng Việt của các em chưa cao, nhiều em còn
chưa biết trả lời theo câu hỏi bài học chứ đừng nói đến việc các em tự dùng từ,
viết câu văn. Một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút
nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói. Có em nói năng cộc
lốc, không biết diễn đạt hết ý của mình. Nhìn chung những em đó kĩ năng sử
dụng tiếng Việt rất đáng lo ngại như: em Tuyên, Đức, Nam, Thúy, Vũ, Hải...
Qua sự nắm bắt chất lượng của học sinh đầu năm như sau:
- Sĩ số học sinh của lớp : 30 em
Các kĩ năng
1. Diễn đạt khi nói.
2. Diễn đạt khi viết.
3. Sử dụng câu, từ khi nói, viết.

Mức độ đánh giá đánh giá
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
23

76.7
7
23.3
21
70.0
9
30.0
20
66.7
10
33.3

Điều đáng nói là tỉ lệ học sinh đạt được một số kĩ năng Tiếng Việt ở mức
độ cao hơn là rất khiêm tốn, cụ thể:
Các kĩ năng
1. Diễn đạt trôi chảy bằng lời nói.
2. Diễn đạt trôi chảy khi viết.
3. Sử dụng câu, từ hợp lí, có chọn lọc khi nói, viết.
4. Sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.

SL
3
2
3
2

TL
10.0
6.6
10.0

6.6

5


Từ những hạn chế trên, tôi đã phát hiện ra rằng: đa phần số học sinh đó là
những học sinh có khả năng đọc hiểu văn bản kém, chưa biết sử dụng từ phù
hợp để điền vào một mẫu văn bản đã cho.
Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và thực
trạng của lớp như đã nêu, tôi đã đề ra một số biện pháp để rèn kĩ năng thực hành
Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba như sau:
2.3. Các biện pháp thực hiện chủ yếu:
Biện pháp1: Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh:
Sau khi được bàn giao chất lượng học sinh ở cuối năm học 2014 - 2015,
tôi đã theo dõi chặt chẽ mức độ nắm bắt kiến thức của từng em và phân loại học
sinh theo các nhóm:
1. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời
nói biểu cảm trong giao tiếp.
2. Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên chưa thể
hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
3. Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như
không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như mức độ giao tiếp của từng học sinh
trong lớp, tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp
ba đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
Ưu điểm của biện pháp này: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình
học tập, đây là một việc làm hết sức bổ ích đúng như câu tục ngữ đã nói “Học
thầy không tày học bạn”. Trong quá trình học tập này sẽ giúp các em mạnh dạn,
năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kĩ năng nói.
Biện pháp2: Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc chuẩn bị bài:

Sau mỗi tiết học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa, tôi đều yêu cầu
học sinh về nhà tìm các từ cùng loại, cùng chủ đề đang học. Đó là những từ ngữ
mà các em thường gặp trong cuộc sống và có thể tham khảo thêm ý kiến của cha
mẹ hoặc người thân.
Ví dụ:
- Học về Từ chỉ sự vật (Tuần 1), tôi đã yêu cầu học sinh về nhà quan sát các sự
vật xung quanh, tìm từ ngữ để gọi tên sự vật đó để lên lớp ghi vào bảng nhóm
(cỡ lớn); có thể minh họa bằng hình vẽ hoặc giải thích cụ thể đối với những từ
chỉ sự vật lạ, hiếm…Những bảng từ dược các em treo lên 4 bức tường của lớp,
lúc rảnh rỗi hoặc giờ ra chơi, học sinh sẽ cùng nhau đọc và tìm ra những từ sai
hoặc không có nghĩa để sửa lại cho đúng. Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác,
những dòng chữ hiển hiện trước mắt thấm dần vào các em và các em có thêm rất
nhiều từ mới, đôi khi chỉ là những từ ngữ thật giản dị như cây hồng, lá bàng, tờ
lịch, tách trà…Rồi cũng chính thông qua những việc làm này mà các em tự
ngầm hiểu đây chính là các từ chỉ tên sự vật, hiện tượng…Và sau này, khi được
yêu cầu xác định từ chỉ sự vật trong một văn cảnh cụ thể, các em có thể xác định
khá chính xác và nhanh.
- Học về Từ chỉ hoạt động, trạng thái (Tuần 7), tôi yêu cầu các em phải có sự
chuẩn bị chu đáo cho bài học. Tôi đã hướng dẫn các em tìm từ ngữ chỉ hoạt
6


động, trạng thái ngay tại các trò chơi các em tham gia ở lớp, ở trường như: chạy,
nhảy, ngồi, giơ, cúi… hay tại các tiết học như: viết, kẻ, suy nghĩ…Ngoài ra các
em còn có thể tự tìm thêm các từ chỉ hoạt động, trạng thái qua một số công việc
khi giúp đỡ cha mẹ, ông bà lúc ở nhà như: nhặt rau, quét nhà, rửa bát…Những
từ ngữ các em tìm được này sẽ tiếp tục được ghi vào bảng nhóm, từ đó các em
bổ sung vốn từ cho nhau và nắm vững hơn về nội dung bài học.
Biện pháp3: Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ ngữ thông qua hợp
tác nhóm trong tiết học Tiếng Việt.

Thảo luận nhóm là hình thức dạy học rất có hiệu quả trong việc hình
thành cho học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ. Vì
vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh tôi
thường vận dụng hình thức này.
Ví dụ: Đối với phân môn Tập làm văn khi thực hành các yêu cầu như: tự tổ
chức cuộc họp tổ, nhóm; trình bày bài làm miệng trước lớp; kể về gia đình em
với người bạn mới quen…Tôi thường cho các em thảo luận nhóm đôi để thực
hiện yêu cầu bài tập sau đó các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm
mình. Hay đối với phân môn Tập đọc, việc sử dụng phương pháp dạy học theo
nhóm này cũng giúp các em nhanh chóng tìm ra nội dung, ý nghĩa, bài học của
câu chuyện hoặc bài đọc Từ đó tôi thấy rằng các em không những nắm vững,
nắm sâu bài hơn mà còn tự tin hơn khi thể hiện ý kiến của mình và bạn.
Bản thân tôi cũng nắm được: Muốn hiểu rõ nghĩa của từ, phải đưa từ đó
vào văn cảnh cụ thể (trừ trường hợp giải thích theo từ điển). Do vậy, khi dạy học
các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt, tôi thường cho học sinh hoạt động theo nhóm với
nhiệm vụ là luân phiên ghi vào bảng nhóm các từ chỉ sự vật hay hoạt động, đặc
điểm,…(tùy theo nội dung mỗi tiết học), sau đó dùng từ tìm được để đặt câu.
Khi các nhóm đã thực hiện xong, tôi tổ chức cho các nhóm trình bày trước lớp
để cả lớp cùng nhận xét về cách dùng từ, đặt câu, về chính tả và chữ viết…
Khi được tham gia vào các hoạt động như trên, các em có thể hiểu rõ
nghĩa từ và dễ dàng xác định được cấu trúc câu cũng như đặc điểm của câu có
liên quan đến loại từ được sử dụng.
Ví dụ: Bộ phận trả lời cho câu hỏi là gì? trong câu kiểu Ai là gì? thường
là các từ chỉ sự vật (gọi tên); Bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì? trong câu kiểu
Ai làm gì? thường là các từ chỉ hoạt động; Bộ phận trả lời cho câu hỏi thế nào?
trong câu kiểu Ai thế nào? thường là các từ chỉ trạng thái, tính chất…
Bên cạnh đó, việc được tham gia vào quá trình chữa bài cho bạn cùng lớp
cũng góp phần giúp học sinh tự chữa lỗi cho mình về cách dùng từ đặt câu và
khắc phục lỗi chính tả.
Với sự hỗ trợ của giáo viên, qua các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt học sinh

đã biết đặt câu ngày càng đúng và phù hợp với văn cảnh. Cũng chính từ những
hoạt động luyện tập như vậy, học sinh viết chính tả ngày càng chính xác, chữ
viết ngày càng đẹp và tốc độ viết cũng đảm bảo yêu cầu; học sinh nắm chắc cấu
trúc câu và đặt câu theo mẫu nhanh hơn, nội dung diễn đạt đa dạng, phong phú
và bước đầu có hình ảnh.
7


Ví dụ: - Em Hải Đăng đặt câu: Những chú bướm tung tăng bay lượn như đang
cùng muôn hoa khoe sắc.
- Em Bình đặt câu có hình ảnh so sánh sinh động: Bác đồng hồ làm
việc cần mẫn hết ngày này qua ngày khác như một bác công nhân đóng bàn ghế
cạnh nhà em.
- Em Hưng đặt câu: Đầu chú chim chào mào nhỏ xíu với chiếc mào
duyên dáng như chiếc vương miện lấp lánh thật yểu điệu.
…………
Ngoài ra, để tăng cường thực hành phép nhân hóa, so sánh phục vụ kĩ
năng nói, viết và làm bài tập làm văn hay hơn, trong các tiết Hướng dẫn Tiếng
Việt tôi thường tổ chức cho học sinh tìm và tập sử dụng phép nhân hóa, so sánh
(vì các tiết chính ít có thời gian để tổ chức thực hành).
Tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động rèn kĩ năng tiếng Việt
thông qua các việc sau:
*Mở rộng vốn từ, sử dụng từ:
Tôi yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm. Sau đó
hướng dẫn các em trao đổi, tìm ra những sự vật hay hoạt động, đặc điểm có thể
so sánh với nhau (Ví dụ: Bàn tay của bà có thể so sánh với quả mướp héo vì đều
có đặc điểm nhăn nheo giống nhau; chiếc đồng hồ có thể so sánh với anh công
nhân vì đều làm việc chăm chỉ…). Việc làm này giúp học sinh hiểu và nhớ:
Muốn sử dụng phép so sánh thì phải có hai sự vật trở lên và hai sự vật được so
sánh với nhau phải có những yếu tố tương đồng.

Khi dạy học về nhân hóa, tôi yêu cầu học sinh quan sát và tìm những từ
chỉ đồ vật, con vật…xung quanh, tìm những từ thường nói về người có thể ghép
với chúng để sử dụng phép nhân hóa (Ví dụ: bác đồng hồ, chú mèo mướp, cây
dừa sải tay bơi…).Từ đó giúp các em nhớ kĩ rằng: Dùng những từ ngữ thường
chỉ người để gán cho sự vật, hiện tượng chính là nhân hóa sự vật, hiện tượng đó.
Nhờ đó học sinh dần biết sử dụng các phép nhân hóa, so sánh ở mức độ đơn
giản, bước đầu biết vận dụng vào các trường hợp cụ thể một cách hợp lí có chọn
lọc và sáng tạo. Càng ngày các em sử dụng từ càng linh hoạt hơn, trong sáng
hơn, góp phần “Giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt”.
*Đặt câu, sử dụng câu:
Sau khi học sinh cả lớp đã tìm được nhiều từ ngữ, tôi cho các em tiến
hành đặt câu theo nhóm. Trong khoảng thời gian nhất định, học sinh thực hành
đặt câu và ghi các câu đã đặt vào bảng nhóm. Tôi đã yêu cầu các em đánh dấu
những câu mình đã đặt (Ví dụ học sinh thứ nhất trong nhóm ghi các câu đặt
được của mình là 1, học sinh thứ hai trong nhóm ghi các câu đặt được của mình
là 2…,). Việc làm này giúp tôi quan sát được mức độ tiến bộ của từng đối tượng
học sinh, nắm được điểm mạnh, yếu của từng em để có kế hoạch khắc phục.
*Cho sẵn chủ đề, yêu cầu học sinh tìm từ và đặt câu:
Để phát huy khả năng tư duy của mọi đối tượng học sinh, tôi thường đưa
ra một số chủ đề và yêu cầu các em tìm từ xoay quanh chủ đề đó (Ví dụ: Nhà em
nuôi một con chó/ con mèo…,hãy tìm từ chỉ một vài đặc điểm của con vật ấy).
Sau khi học sinh tìm được từ ngữ, tôi đã yêu cầu các em đặt câu để diễn tả cảm
8


nghĩ của mình. Các câu đều được ghi lên bảng nhóm rồi cử người trình bày. Khi
thực hiện hoạt động này, tôi nhận thấy các em bước đầu bộc lộ tính cách riêng
trong việc dùng từ, đặt câu.
Trên cơ sở biết dùng từ, đặt câu thành thạo, học sinh dễ dàng có khả năng
viết được một đoạn văn ngắn theo chủ đề cho trước. Việc làm này rất hữu ích vì

trong thời gian của một tiết học, thay vì một em có thể chỉ tìm được một, hai từ
và đặt được một, hai câu thì với cách làm này đã có hàng chục từ ngữ, câu văn…
do các em học hỏi được ở bạn bè. Bên cạnh đó các em còn được tạo điều kiện để
sửa câu sai, chọn câu hay và phù hợp với ngữ cảnh. Dựa vào những câu, từ đã
có, học sinh dễ viết được một đoạn văn đạt kết quả tốt. Cũng qua việc làm này,
các em còn được rèn luyện thêm về chính tả, sử dụng dấu câu, cách lựa chọn và
sắp xếp ý trong đoạn văn, đồng thời, học sinh cũng phát huy được năng lực hợp
tác trong học tập, biết cách trao đổi trong nhóm để chọn ý hay sau đó thống nhất
cách thực hiện mà nhóm cho là tốt nhất.
*Hỗ trợ, hợp tác để làm bài:
Sau khi học sinh thực hiện khá thành thạo các yêu cầu trên, tôi đã quan
tâm đến biện pháp hướng dẫn các em hỗ trợ, hợp tác trong nhóm để tập viết
những đoạn văn kể, tả ngắn theo nội dung chương trình quy định như viết đoạn
văn ngắn về cây cối, con vật, gia đình, bạn bè, người thân…Những bài tập này
tôi đều cho các em trình bày trước lớp ở nhiều tiết học Hướng dẫn Tiếng Việt
với sự nhận xét của các bạn trong lớp và sự góp ý của cô giáo. Tôi nhận thấy
rằng mỗi học sinh đều có một thế mạnh về một lĩnh vực riêng, ngay cả học sinh
rụt rè, nhút nhát ít muốn thể hiện trước lớp cũng có ưu điểm cần nâng niu, trân
trọng như viết sạch sẽ, trình bày hợp lí, sử dụng từ tốt, biết sắp xếp câu, lựa chọn
ý…Qua hoạt động này, các em cũng được phát triển thêm về kĩ năng học hợp tác
nhóm, kĩ năng trao đổi, chọn lọc ý kiến để đi đến thống nhất vấn đề. Bên cạnh
đó các nhóm cũng được học hỏi lẫn nhau, thay vì trước đây mỗi nhóm chỉ biết
một bài, nay được biết thêm nhiều bài của các nhóm khác, lại là bài tương đối
hay do công sức của cả nhóm xây dựng nên.
* Tổ chức học cá nhân:
Qua các bước thực hành nói trên, tôi luôn tạo cơ hội cho học sinh được
nói (trình bày miệng), được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn
đề nào đó trước tập thể. Từ đó, giúp các em rèn kĩ năng giao tiếp, tập biểu hiện
thái độ, cử chỉ…khi trình bày để tăng phần biểu cảm, tăng sức thuyết phục của
vấn đề mà mình trình bày. Cũng nhờ vậy mà các em tự tin hơn trong giao tiếp,

mạnh dạn hơn khi nói trước đông người.
Sau khi học sinh trình bày miệng, tôi yêu cầu các em viết lại vào vở và
tranh thủ thời gian chấm, chữa, chỉnh sửa bài cho các em. Khi tiến hành chấm,
chữa, tôi cũng giúp các em sơ bộ nhận ra sự khác nhau giữa văn nói và văn viết:
Văn nói có thể sử dụng nhiều từ đệm, từ lặp, ngữ điệu…/ Văn viết phải mạch
lạc, rõ ràng, giàu hình ảnh…sử dụng các dấu câu để diễn đạt sáng ý. Dần dần
các em làm bài ngày càng tốt hơn, dùng từ, đặt câu đúng, diễn đạt các ý rõ ràng,
chặt chẽ, chữ viết ít sai chính tả và trình bày bài sạch đẹp.
Biện pháp 4: Đưa ra các dạng bài tập trắc nghiệm:
9


Để học sinh nắm vững hơn về các kĩ năng Tiếng Việt tôi thường đưa ra
một số dạng bài tập trắc nghiệm khách quan. Bài tập trắc nghiệm khách quan là
phương án kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh qua bài viết của các
em với những câu trả lời cho những câu hỏi, bài tập. Các dạng câu hỏi này khắc
phục được yếu tố chủ quan của dạng bài tự luận. Tôi thường sử dụng một số
dạng bài tập sau:
*Dạng bài tập câu ghép đôi:
Tính chất của dạng câu trắc nghiệm này là cho hai dãy thông tin, trong đó một
dãy là những câu hỏi hay câu dẫn, còn dãy kia là những câu trả lời hay câu lựa
chọn và yêu cầu học sinh lựa chọn tương ứng từng nội dung giữa hai dãy thông
tin sao cho đúng, cho hợp theo mối quan hệ xác định rồi nối chúng lại với nhau.
Mối quan hệ này có thể được nói rõ trong yêu cầu hoặc không.
Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này:
- Những thông tin nêu ra ở từng cột không nên quá dài
- Những thông tin ở mỗi cột nên cùng phản ánh một tính chất nào đó của nội
dung.
- Thứ tự các câu hỏi và thứ tự các câu trả lời nên được sắp xếp lẫn lộn, tránh thứ
tự.

Ví dụ: Để củng cố kiến thức về bài đọc “Hội võ đồng Cỏ May” (trong Vở ôn
luyện và kiểm tra Tiếng Việt 3, tuần 26). Tôi đã hướng dẫn học sinh làm bài tập
sau:
Nối mỗi con vật, loài vật đi dự hội võ với thái độ của chúng:
Cào cào

Khệnh khạng, ra oai

Châu chấu ma

Làm dáng, như e thẹn, ngượng ngùng

Võ sĩ Bọ Ngựa

Bình tĩnh, tự tin, coi khinh kẻ hách dịch

Võ sĩ Bọ Muỗm

Tự đắc, chủ quan

Võ sĩ Dế Mèn

Thích tán tỉnh các nàng cào cào xinh đẹp

*Dạng bài tập câu điền khuyết:
Tính chất của dạng câu trắc nghiệm này là: cho câu dẫn một vài chỗ khuyết
(thường được biểu diễn bằng dãy dấu chấm) và yêu cầu đặt ra là học sinh phải
điền từ ngữ thích hợp vào những chỗ khuyết đó. Các từ cần điền ở đây là những
từ “cốt yếu”, những từ “khóa” phản ánh nội dung tri thức mà học sinh cần phát
hiện, cần biết. Những từ này có thể được cho trước hoặc không.

Những yêu cầu sư phạm đối với loại bài tập này:
10


- Những từ cần điền phải là quan trọng nhất, phản ánh nội dung bài học mà học
sinh cần lĩnh hội. Tránh việc yêu cầu các em tìm điền những từ không phản ánh
được nội dung bài.
- Số từ cần điền không nên quá nhiều.
- Những từ các em cần tìm, cần điền phải được các em hiểu rõ nội dung, nghĩa;
phải phù hợp với bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong chủ điểm Nghệ thuật (ở hai tuần 23 + 24), tôi đã đưa
bài tập sau để củng cố kiến thức về chủ điểm:
Dùng các từ đã cho để điền vào chỗ trống:
a, Người đóng kịch, đóng phim gọi là…………..
b, Người trình diễn bài hát gọi là…………..
c, Người viết ra bài hát, bản nhạc gọi là…………..
d, Người biểu diễn điệu múa gọi là…………..
(Các từ để điền: vũ công, ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên)
Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đánh giá kết quả thực hành
Trong quá trình tổ chức cho học sinh trình bày và nhận xét, tôi đã yêu cầu
các em chọn ra những câu hay (giàu hình ảnh, âm thanh, biểu cảm…), bước đầu
tìm hiểu xem các câu đó hay ở chỗ nào (có thể so sánh với các câu khác cùng tả
về một sự vật, đặc điểm). Những câu chưa hay hoặc sử dụng chưa hợp lí thì yêu
cầu các em sửa lại với sự hỗ trợ của cô giáo và các bạn, rút kinh nghiệm về cách
diễn đạt:
Ví dụ: Để so sánh hai câu:
- Câu 1: Chú chó vẫy đuôi tíu tít, chạy lại cọ vào chân em như muốn nói: “Tôi
đã canh gác tốt đấy nhé.”
- Câu 2: Sáng ra, con chó vẫy đuôi chạy lại bên em.
Tôi sẽ cho các em nhận xét và phát biểu ý kiến xem câu văn nào hay hơn và

em thấy hay hơn ở điểm nào. Từ đó dần dần các em biết sử dụng câu có hình
ảnh, giàu cảm xúc, đồng thời biết tự sửa những câu sai ngữ pháp, câu rườm rà,
lủng củng, tối ý…
Việc hướng dẫn, đánh giá kết quả thực hành của học sinh giúp tôi nhìn
nhận và điều chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của bản thân mình.
Trong quá trình tổ chức và đánh giá, tôi đặc biệt lưu ý các tình huống ứng xử
thật khéo léo, tránh tạo ra sự mặc cảm, tự ti hay tự hào quá mức dẫn đến chủ
quan ở một số học sinh.
Ví dụ: Khi tìm từ chỉ hoạt động, có học sinh cho rằng từ múa là từ chỉ hoạt
động nghệ thuật, nhưng cũng có học sinh cho rằng từ múa này là từ chỉ một bộ
môn nghệ thuật. Cả hai ý kiến của các em đều không sai, nhưng để các em hiểu
chỗ đúng của hai bạn, tôi đã hướng dẫn các em đặt câu và dựa vào từng văn
cảnh để xác định nghĩa của từng từ cho đúng.
Biện pháp 6: Tổ chức các trò chơi tạo hứng thú trong học tập.
Để kích thích tinh thần hào hứng thi đua học tập, đôi khi tôi cũng tổ chức
cho học sinh tham gia trò chơi học tập theo nhóm nhằm mục đích tăng sự hứng
khởi cho các em trong tiết học.
11


Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh đặc biệt
là những em ngại nói, ngại giao tếp. Trò chơi học tập sẽ làm cho các em hứng
thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá
nhân, nhóm, lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho
học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kĩ năng giao tiếp của
chính mình.
Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra
chơi, giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố kiến thức của mỗi tiết học. Qua
các trò chơi này học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được
học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hàng ngày.

Ví dụ:
*Trò chơi Trạm dừng xe buýt
Trước khi tổ chức trò chơi tôi nêu rõ cách chơi, luật chơi để các em nắm
vững và xác định đúng về trò chơi này. Tôi tổ chức cho học sinh thành các
nhóm, mỗi nhóm là một “trạm dừng xe buýt”. Các tấm bảng phụ được chuyển
qua các trạm; bảng được chuyển đến trạm nào thì thành viên trong trạm đó phải
nhanh chóng ghi vào đấy một thông tin theo chủ đề giáo viên cho trước. Tôi
đánh giá kết quả, đưa ra nhận xét và chốt lại những thông tin đúng hoặc sai,
những vấn đề cần phát huy hoặc cần khắc phục (kể cả nội dung công việc lẫn
cách thức tham gia của cá nhân hay nhóm). Trò chơi này còn giúp học sinh rèn
luyện thể chất, tập phản ứng nhanh về tư duy, vừa thể hiện tính hợp tác, kỉ luật
trong công việc, vừa giúp các em phát triển năng lực cá nhân.
*Trò chơi Phỏng vấn.
Tôi tổ chức trò chơi này nhằm luyện cho học sinh cách tự giới thiệu về gia
đình mình với bạn bè hoặc người xung quanh (Tiết Tập làm văn tuần 3 - Bài 1).
Cách chơi:
Một học sinh giới thiệu về gia đình mình (quê quán, gia đình gồm mấy người,
nói về từng người, mọi người sống với nhau như thế nào…).
Một học sinh khác làm phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp. Nội
dung giới thiệu phải chính xác, lời giới thiệu phải rõ ràng.
Cho nhiều học sinh làm phóng viên sau đó chọn phóng viên giỏi nhất.
Biện pháp 7: Chấm, chữa bài chính xác:
Ở mỗi tiết học chính cũng như những tiết Hướng dẫn Tiếng Việt, tôi đều
cố gắng để có những thời gian chấm, chữa bài cho tất cả các đối tượng học sinh
trong lớp. Khi chấm bài tôi thường sử dụng hình thức chấm tại chỗ. Sau khi
chấm cho từng em tôi đều nhận xét và tuyên dương trực tiếp, chỉ ra chỗ sai cho
các em thấy và cũng có thể tôi yêu cầu các em đó làm lại bài sai, có thể tôi chữa
luôn vào bên cạnh chỗ sai các em mắc phải. Với hình thức chấm - chữa bài này,
tôi nhận thấy rằng các em đều nhập tâm theo dõi phần nhận xét của cô giáo, các
em đều dễ dàng biết được chỗ sai của mình và sai như thế nào để khắc phục.

Biện pháp 8: Phối, kết hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường
- Tôi thường xuyên tranh thủ ý kiến chỉ đạo của chuyên môn nhà trường
để tìm giải pháp khắc phục những hạn chế của học sinh trong lớp. Bên cạnh đó,
12


phối kết hợp chặt chẽ với Đội- Sao và các giáo viên bộ môn khác giúp đỡ các
em khi tôi không có giờ trên lớp.
- Tôi cũng thường xuyên gặp gỡ, liên lạc với gia đình học sinh để trao đổi,
tìm hiểu hoàn cảnh của một số em trong lớp (Ví dụ: Gia đình em Tuyên, em
Nam, em Hải..). Tôi giúp gia đình các em nhận thức được mục đích, ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc phối - kết hợp, đồng thời tư vấn cho gia đình học sinh
về nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục nhằm giúp trẻ sửa chữa khuyết
điểm, hoàn thành nhiệm vụ. Cùng đó là đề nghị gia đình cung cấp những thông
tin cần thiết về việc học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau ở nhà, về những
biểu hiện năng lực, phẩm chất mà các em thể hiện ở gia đình. Nhận được sự
quan tâm của nhà trường cũng như cô giáo chủ nhiệm, hầu hết các gia đình đã
hiểu và tạo điều kiện cho các em đi học chuyên cần, chuẩn bị bài trước khi đến
lớp chu đáo, đến lớp có đầy đủ đồ dùng học tập,…
Biện pháp 9: Động viên, khuyến khích học sinh kịp thời.
Động viên, khích lệ những chuyển biến tích cực của học sinh là biện pháp
không những mang lại hiệu quả cao mà còn là phương pháp mang tính giáo dục
tích cực. Tôi thường xuyên động viên, khuyến khích đúng lúc khi các em có tiến
bộ hay đạt được một số kết quả trong học tập (dù có thể còn khiêm tốn). Do đặc
điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học, các em thấy vui, phấn chấn và ham
học hỏi hơn khi được cô giáo khen qua đó không những các em học tiến bộ hơn
mà còn ngoan hơn, ý thức tổ chức kỉ luật tốt hơn.
2.4. Hiệu quả:
Khi áp dụng các biện pháp nêu trên, tuy vất vả nhưng tôi tìm thấy niềm

vui công việc và càng thấy yêu nghề hơn. Bởi giờ đây các em học sinh lớp tôi đã
tiến bộ rất nhiều. Từ tâm lý sợ học các tiết Luyện từ và câu, Tập làm văn nay các
em đã rất hào hứng tham gia vào các tiết học này và học môn Tiếng Việt tốt hơn.
Đến nay, qua quá trình kiểm tra, đánh giá hàng ngày ở các tiết học, kết quả của
lớp được rất khả quan. Cụ thể như sau:
Các kĩ năng
1. Diễn đạt khi nói.
2. Diễn đạt khi viết.
3. Sử dụng câu, từ khi nói, viết.

Mức độ đánh giá đánh giá
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
30
100
0
0
29
96.7
1
3.3
29
96.7
1
3.3


Tỉ lệ học sinh đạt được một số kĩ năng Tiếng Việt ở mức độ cao hơn so
với đầu năm là rất đáng mừng, cụ thể:
Các kĩ năng
SL
TL
1. Diễn đạt trôi chảy bằng lời nói.
10
33.3
2. Diễn đạt trôi chảy khi viết.
8
26.7
3. Sử dụng câu, từ hợp lí, có chọn lọc khi nói, viết.
15
30.0
4. Sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
10
33.3
13


Điều đáng nói là trong kết quả trên chứa đựng những nội dung kiến thức
về kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của các em rất đáng biểu dương. Những câu văn
các em viết đã có sự chọn lọc tương đối phù hợp, cách dùng từ đặt câu cũng tự
nhiên và đúng văn cảnh hơn hẳn.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Sau một thời gian sử dụng các biện pháp nêu trên, tôi rút ra được một số
bài học kinh nghiệm như sau:
- Bàn giao chất lượng học sinh một cách nghiêm túc, chặt chẽ ngay từ cuối

năm học trước. Phải trao đổi kỹ với giáo viên chủ nhiệm lớp trước về năng lực
học tập của từng học sinh, đồng thời thông qua bài khảo sát chất lượng đầu năm
để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu về sử dụng tiếng Việt của mỗi em; phải trò
chuyện, trao đổi với từng học sinh và phụ huynh để tìm ra nguyên nhân dẫn đến
hạn chế trong việc sử dụng từ ngữ của các em, đưa ra các giải pháp cụ thể phù
hợp đối với từng đối tượng học sinh.
- Khi tổ chức các tiết Hướng dẫn Tiếng Việt, giáo viên cần tiên liệu những tình
huống có thể xảy ra để có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc
của học sinh, tránh nhận xét và trả lời chung chung không mang tính thuyết
phục. quá trình hướng dẫn học sinh thực hành giáo viên cũng phải hết sức kiên
trì, khéo léo nhất là trong bước đánh giá và nhận xét. Làm sao để từng bước giúp
học sinh tìm ra, thu nhận được vốn từ nhiều hơn, dùng từ và đặt câu hay hơn,
chính xác hơn, đúng văn cảnh hơn…
- Cần tạo ra môi trường học tập thật thân thiện cho các em, giúp các em hợp
tác tốt hơn trong hoạt động nhóm, phát huy tinh thần “ Học thầy không tày học
bạn”. Từ đó các em sẽ ngày càng tiến bộ về các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
tiếng Việt.
- Nên tổ chức linh hoạt các hình thức học tập tạo điều kiện để học sinh tham
gia tích cực, kích thích tinh thần thi đua và sáng tạo, phát huy tốt nhất năng lực
cá nhân trong quá trình hợp tác của học sinh.
- Nên động viên, khích lệ học sinh kịp thời. Đây chính là động lực lớn giúp
các em phấn chấn về tinh thần, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập trên
lớp.
3.2. Kiến nghị:
Để tạo điều kiện giúp giáo viên hoàn thành nhiệm vụ “chịu trách nhiệm về
chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục” (Theo điều 31- Điều lệ trường Tiểu
học), đáp ứng tốt những yêu cầu về lĩnh vực kiến thức, kĩ năng sư phạm. Đề
nghị Phòng Giáo dục và Đào tạo và các cấp quản lí cần quan tâm nhiều hơn nữa
tới công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ như tổ chức các chuyên đề liên
quan đến việc dạy học Tiếng Việt cho đội ngũ giáo viên…..

Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong hoạt động dạy học
rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp Ba. Trong thực tế giảng dạy,
mỗi cá nhân đều có những suy nghĩ, những kinh nghiệm riêng của mình nhằm
14


mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học. Có thể sáng kiến kinh
nghiệm này của các nhân tôi còn hạn chế, chưa sâu ở nhiều lĩnh vực kiến thức,
tôi rất mong được sự góp ý, bổ sung của đồng nghiệp, của hội đồng khoa học
các cấp để trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học của tôi được hoàn thiện
hơn nhằm góp phần đóng góp nhỏ bé cho sự nghiệp giáo dục của nước nhà trong
thời kì hội nhập mới.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 5/4/2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Đỗ Thị Lan

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
15


1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 3 tập 1, 2.
3. Nghị Quyết 29/NQ – TW ngày 04/11/2013 của BCHTW.
4. Thông tư 30/2014/TT – BGD&ĐT.
5. Điều lệ trường Tiểu học.

6. Một số tập của Tạp chí giáo dục năm 2014, 2015, 2016
7. Hướng dẫn thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo Thông tư 30/2014/TTBGDĐT

16



×