Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí 6 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trường THCS đông nam, đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.18 KB, 23 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU

2

1 - Lí do chọn đề tài..........................................................................................2
2 - Mục đích nghiên cứu....................................................................................3
3 - Đối tượng nghiên cứu..................................................................................3
4 - Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1 - Cơ sở lí luận.................................................................................................4
2 - Thực trang vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.......................5
3 - Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề............................................6
3.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm......................................................................6
3.2/ Sử dụng phương pháp trực quan...............................................................9
3.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề..................................................10
3.4/ Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm chứng minh
trên
lớp.................................................................................................................13
3.5/ Xây dựng hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng...14
3.6/ Tăng cường luyện tập độc lập cho học sinh trên lớp..............................15
3.7/ Sử dụng “phiếu học tập” cho mỗi học sinh.............................................15
Một số ví dụ minh họa...............................................................................16
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.........................................................................21
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

22

1. Kết luận.......................................................................................................23


2. Kiến nghị.....................................................................................................23

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài :
Chúng ta đang sống trong một xã hội với sự phát triển nhanh như vũ bão
của khoa học kĩ thuật, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào sự
phát triển của khu vực và thế giới. Thực tế đó đòi hỏi cần có một nền giáo dục
luôn cải tiến, đổi mới để theo kịp với sự thay đối của thời đại.
Nền giáo dục nước ta những năm gần đây đã và đang có nhiều đổi mới tích
cực. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là phải đổi
mới phương pháp dạy học, chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện,
xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành
động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Đặc biệt đối với bậc trung
học cơ sở (THCS), đổi mới trong phương pháp dạy học giữ vai trò quan trọng vì đối
tượng của bậc học này mang tính phức tạp.
Trong các môn học ở bậc THCS, môn Vật lí được xem là môn học gắn nhiều
với thực tiễn, yêu cầu cao về kĩ năng thực hành ở học sinh. Việc đối mới phương pháp
giảng dạy trong môn học lại càng quan trọng, nhất là ở lứa tuổi các em học sinh lớp 6.
Các em vừa mới đặt chân vào môi trường học mới, còn nhiều bỡ ngỡ nên việc giáo
viên định hướng phương pháp học có ý nghĩa quyết định trong tiếp thu bài của các em.
Thực tiễn giảng dạy ở một số trường phổ thông cho thấy, giáo viên thường
“lạm dụng” một số phương pháp dạy học truyền thống để thực hiện bài giảng của
mình. Trong quá trình sử dụng các phương pháp dạy học, giáo viên còn coi trọng chức

năng truyền thụ tri thức của phương pháp dạy học, nên thường sử dụng phương pháp
dạy học theo hướng thông báo, liệt kê, nghiêng hẳn về khía cạnh tái hiện kiến thức ...
Trên lớp học sinh chủ yếu phải nghe giảng, chép bài liên tục, ghi nhớ máy móc mà
không phát huy được tính tích cực trong quá trình học tập. Học sinh ít được lôi cuốn
động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ
học ở một số bộ phận học lực yếu kém...
Chính vì vậy, bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lí
nhiều năm, tôi rất quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học Vật lí bằng cách
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 2


Sáng kiến kinh nghiệm
sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh. Vì những lí do trên tôi đã mạnh dạn đề xuất “Một số kinh
nghiệm trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6 nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trường THCS Đông Nam, huyện Đông
Sơn” .
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên, học sinh trong nhà trường.
- Rèn luyện tính tư duy độc lập, sáng tạo và phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh.
- Rèn luyện cho học sinh thực hiện thí nghiệm chứng minh trên lớp, sử dụng hình
ảnh trực quan, làm phiếu học tập…trong việc học tập môn Vật lí 6.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu : Các phương pháp đổi mới dạy học môn Vật lí 6.
- Khách thể : Học sinh khối 6 trường THCS Đông Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận: Phân tích - tổng hợp - khái quát.

- Nghiên cứu thực tiễn: Chủ yếu rút ra từ thực tế kinh nghiệm của bản thân và các
bạn đồng nghiệp qua quan sát, thực hành, kiểm tra, đối chiếu chất lượng.

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 3


Sáng kiến kinh nghiệm
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Luật giáo dục năm 2005 (điều 5) quy định “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực học tập, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi
mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận
thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học phải nhằm giúp học sinh phát huy
tính tích cực, tự giác, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác,
kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và

trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập...Từ đó học sinh
dần hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Đó là điều kiện cần thiết cho
bản thân học sinh và cho sự phát triển của xã hội.
Đổi mới phương pháp dạy học các môn học nói chung và môn Vật lý nói
riêng ở trường THCS xuất phát từ các quan niệm sau:
- Mục tiêu của ngành giáo dục, trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp
cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được,
mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 4


Sáng kiến kinh nghiệm
đào tạo. Học sinh được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì
phẩm chất và năng lực của cá nhân được sớm hình thành phát triển và hoàn thiện.
Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại,
phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
- Trước đây, trong giảng dạy các môn học, người giáo viên chỉ chú trọng
truyền đạt các tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập và
nghiên cứu mang tính đặc thù của môn học đó (gọi là phương pháp bộ môn).
Ngày nay, cùng với tri thức khoa học của môn học, giáo viên phải làm cho học
sinh nắm vững và sử dụng các phương pháp bộ môn. Điều đó có ý nghĩa to lớn
với nhiệm vụ học tập trước mắt và cả trong tương lai.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học phải góp phần thực hiện sự phân hóa
trong dạy học. Năng lực của học sinh trong một lớp học không hoàn toàn giống
nhau, việc phân hóa tiến tới cá nhân hóa trong dạy học là xu hướng tất yếu để
đảm bảo sự phát triển tối ưu cho mỗi học sinh.
- Mỗi môn học có các đặc trưng riêng, Vật lí học là môn khoa học thực nghiệm.

Đổi mới phương pháp phải xuất phát từ đặc trưng quan trọng này của bộ môn.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Từ những năm cải cách giáo dục cho đến nay, chúng ta đã đa dạng hoá
cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Cải cách giáo dục trên cả 3 mặt: hệ thống
giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Song phương pháp giáo dục vẫn
chưa được quan tâm và phương pháp dạy học chưa được đổi mới tương xứng.
Tình trạng phổ biến vẫn là:
+ Các bài dạy chưa có đầy đủ các thí nghiệm, vẫn còn tình trạng dạy chay.
Các bài thực hành thì không có nhiều bộ đồ dùng để học sinh tự làm mà chỉ có 1
đến 2 bộ thí nghiệm.
+ Giáo viên thuyết trình kết hợp với đàm thoại chưa đưa học sinh vào tình
huống có vấn đề. Giáo viên chỉ sợ học sinh không trả lời được do đó học sinh
nhiều khi chỉ cần trả lời "có" hay "không".
+ Học sinh được luyện tập ở mức tối thiểu và chủ yếu là vận dụng tri thức
một cách máy móc đơn giản.
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 5


Sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Trong quá trình giảng dạy, cùng với việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy
học trong trường THCS, bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng phải thực
hiện kết hợp một số giải pháp sau đây:
3.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm:
Dạy học hợp tác theo nhóm là một thuật ngữ để chỉ cách dạy học trong đó học
sinh trong lớp được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp, được giao nhiệm vụ
và được khuyến khích thảo luận, hướng dẫn hợp tác làm việc với nhau giữa các
thành viên để cùng đạt được kết quả chung là hoàn thành nhiệm vụ của cả nhóm.

Hoạt động dạy học hợp tác theo nhóm thường bao gồm các bước:
Bước 1: Làm chung cho cả lớp
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức; tổ chức nhóm, giao
nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Hoạt động nhóm
Từng nhóm làm việc riêng trong không khí thi đua với các nhóm khác.
Thành viên trong mỗi nhóm trao đổi ý kiến, phân công nhóm sau đó từng thành
viên làm việc theo sự phân công đó và có thể bàn bạc, trao đổi với nhau khi cần
thiết. Giáo viên giám sát sự hoạt động của nhóm và của từng cá nhân học sinh.
Bước 3: Thảo luận, tổng kết trước cả lớp
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả, giáo viên tổ chức cho học sinh ở các
nhóm khác nhận xét, đánh giá và giáo viên xác nhận lại khi cần thiết. Giáo viên
tổng kết, chốt lại những điểm quan trọng sau khi các nhóm đã báo cáo xong.
Cuối cùng giáo viên động viên, khen ngợi các nhóm cũng như các cá nhân hoàn
thành tốt nhiệm vụ, phê phán những cá nhân và nhóm chưa hoạt động tích cực.
Trong quá trình thực hiện dạy học hợp tác theo nhóm, giáo viên cần làm các
công việc sau:
* Tổ chức nhóm:
+ Quy mô nhóm:
Mỗi nhóm nên có từ 3 đến 6 học sinh. Nhóm 3 đến 4 học sinh là nhóm
nhỏ, thích hợp với các hoạt động giải bài tập rèn luyện kĩ năng hay thực hành
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 6


Sáng kiến kinh nghiệm
trong lớp. Với nhóm nhỏ, các em thảo luận, đề ra được quyết định nhanh hơn,
giáo viên quản lí các thành viên trong nhóm dễ dàng hơn, nhưng việc bao quát
các nhóm phức tạp hơn, việc theo dõi hoạt động và thời gian để các nhóm trình

bày kết quả phải nhiều hơn vì có nhiều nhóm hơn.
Nhóm từ 5 đến 6 học sinh là nhóm lớn, chủ yếu thích hợp với những công
cụ lớn, phức tạp như thực hành thí nghiệm. Các nhóm lớn dễ tạo cho học sinh
cảm giác vui, hồ hởi và niềm tin vào sự thành công. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa
các thành viên trong nhóm là phức tạp hơn, khó đạt được sự đồng thuận hơn.
Giáo viên khó khăn hơn trong việc quản lí các thành viên trong nhóm lớn nhưng
dễ dàng bao quát chung các nhóm hơn và thời gian để các nhóm trình bày kết
quả cũng ít hơn.
+ Phân công nhiệm vụ trong nhóm:
Trong các nhóm thường có các thành phần: Trưởng nhóm, thư kí nhóm,
báo cáo viên và các thành viên còn lại. Trưởng nhóm chịu trách nhiệm chỉ đạo,
điều khiển nhóm, thư kí có trách nhiệm ghi chép lại các kết quả công việc của
nhóm. Các thành viên còn lại trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào
hoạt động của nhóm theo sự phân công của nhóm trưởng.
Sự phân công nhiệm vụ trong nhóm cần linh hoạt, không phải luôn cần có
đầy đủ các thành phần như trên. Tuy nhiên một nhóm nhất thiết nên có trưởng
nhóm để triển khai hoạt động của nhóm. Các thành phần trong một nhóm cũng
cần thực hiện luân phiên, các em trong nhóm lần lượt trao đổi với nhau thực
hiện các vai trò đó để đều có cơ hội rèn luyện về mọi mặt như nhau.
* Các kiểu chia nhóm:
Chia nhóm theo trình độ học sinh. Khi đó, học sinh trong lớp được chia
vào các nhóm thường theo một số kiểu sau: Nhóm nhiều trình độ (trong nhóm
có cả học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu); nhóm cùng trình độ (các em học sinh
trong một nhóm có khả năng học tập tương đối như nhau). Với nhóm nhiều trình
độ các em học yếu có cơ hội học hỏi các em học khá, giỏi. Ngoài những cách
chia nói trên, vẫn có thể có những cách chia nhóm dựa trên sự tương đồng với

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 7



Sáng kiến kinh nghiệm
dụng cụ thực hành thí nghiệm, đảm bảo đầy đủ các dụng cụ cho các nhóm thực
hành có hiệu quả.
* Giao nhiệm vụ cho nhóm:
Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm thực hiện. Sau khi giao
nhiệm vụ cho các nhóm, giáo viên cần kiểm tra xem từng nhóm, từng học sinh
đã hiểu được nhiệm vụ của mình chưa. Có thể thực hiện điều này bằng cách hỏi
một vài nhóm trưởng cũng như một vài em khác, yêu cầu các em đứng lên nói rõ
nhiệm vụ của mình. Giáo viên cũng cần quy định rõ thời gian yêu cầu phải hoàn
thành hoạt động nhóm, thường với mọi hoạt động, thời gian từ 5 đến 7 phút.
* Giáo viên quản lí hoạt động nhóm:
Trong khi các nhóm hoạt động, giáo viên cần bao quát, chỉ đạo học sinh
theo các chú ý sau:
- Quan sát tất cả các nhóm, phát hiện và hỗ trợ các nhóm có khó khăn
thông qua các câu hỏi dẫn dắt, các hướng dẫn thích hợp.
- Phát hiện các nhóm làm việc chưa tích cực, mất trật tự…để nhắc nhở, uốn
nắn. Các nhóm tích cực khuyến khích, động viên kịp thời. Dù là khuyến khích
hay nhắc nhở học sinh, cử chỉ của giáo viên phải thể hiện thái độ thân mật, hợp
tác, tạo niềm tin cho học sinh.
* Tổ chức hoạt động thảo luận, tổng kết trước toàn lớp:
Khi các nhóm đã hoàn thành hoạt động, giáo viên yêu cầu mỗi nhóm cử
đại diện lên trình bày trước toàn lớp và nêu rõ quy định về cách trình bày như
đứng tại chỗ hay lên bảng, chỉ diễn đạt bằng lời nói hay kết hợp với viết bảng…
Sau khi giáo viên yêu cầu một vài nhóm lên trình bày, các nhóm khác quan sát,
nhận xét, bổ sung. Sự nhận xét, bổ sung lẫn nhau giữa các nhóm là rất quan
trọng, nó thể hiện sự tương tác giữa các nhóm và sự gắn kết của cả lớp trong
mục tiêu chung của nhiệm vụ học tập. Sau khi mỗi nhóm đã trình bày và có sự
nhận xét, bổ sung của các học sinh ngoài nhóm, giáo viên đưa ra ý kiến của

mình, thể thức hóa kết quả của mỗi nhóm trước cả lớp.
Cuối cùng, sau khi các nhóm được chỉ định đều đã trình bày xong, giáo viên tổng
kết, chốt lại những điểm quan trọng trong kết quả của tất cả các nhóm và nhận xét, động
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 8


Sáng kiến kinh nghiệm
viên, khen ngợi các nhóm hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những khiếm khuyết đã
mắc phải của một số nhóm hay cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động nhóm.
3.2/ Sử dụng phương pháp trực quan trong tiết học:
Phương pháp trực quan hay nói chính xác hơn là nhóm các phương pháp sử
dụng các vật thực, mô hình, tranh vẽ… để minh họa cho các bài học nhằm cụ thể hóa
cái nhìn trừu tượng trong đối tượng và hiện tượng giúp học sinh khắc phục khó khăn
ban đầu, tiếp thu và vận dụng được các kiến thức một cách hiệu quả, nhanh chóng.
Phương pháp trực quan thường được sử dụng trong việc dạy và học môn
Vật lí. Nhất là đối với bậc trung học cơ sở, giáo viên cần sử dụng các vật thật,
mô hình hay tranh vẽ để minh hoạ cho các bài học thêm sinh động.
Ví dụ 1: Bài 5 “Khối lượng – Đo khối lượng” - SGK Vật lí 6
Để giúp học sinh hiểu thêm một số dụng cụ dùng để đo khối lượng
thường dùng trong đời sống, giáo viên cần dùng một số tranh vẽ sau:

Cân y tế
Ví dụ 2:

Cân tạ

Cân đòn


Cân đồng hồ

Bài 13: “Máy cơ đơn giản” - SGK Vật lí 6

Giáo viên cần đưa một số tranh ảnh minh họa cho học sinh thấy được một
số máy cơ đơn giản thường dùng là mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy và ròng rọc.

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 9


Sáng kiến kinh nghiệm

3.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là cách thầy tổ chức tạo ra một tình
huống hấp dẫn gợi sự tìm hiểu của học sinh, gợi ra những vướng mắc mà học
sinh chưa giải đáp ngay được, nhưng có liên hệ với tri thức đã biết, khiến họ
thấy có triển vọng tự giải đáp được nếu tích cực suy nghĩ.
Trong dạy học và giải quyết vấn đề, thầy giáo tạo ra những tình huống gợi
vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo để giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức mới, rèn
luyện kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thường có những đặc điểm sau đây:
- Học sinh được đặt vào tình huống gợi vấn đề chứ không phải là được
thông báo tri thức dưới dạng có sẵn.
Học sinh hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động
tri thức và khả năng của mình để phát hiện và giải quyết vấn đề chứ không phải
là nghe thầy giảng một cách thụ động.
- Mục tiêu dạy học không chỉ là làm cho học sinh lĩnh hội kết quả của quá

trình phát hiện và giải quyết vấn đề, mà còn ở chỗ làm cho học sinh phát triển
khả năng tiến hành khám phá và lĩnh hội tri thức mới.

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm
Trong dạy học và phát hiện vấn đề là việc điều khiển học sinh tự thực hiện
hoặc hòa nhập vào quá trình nghiên cứu vấn đề, quá trình này có thể chia làm
các bước sau:
Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề
- Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề thường do thầy tạo ra. Học
sinh có thể liên tưởng, dự đoán, suy nghĩ, tìm tòi tình huống gợi vấn đề.
- Giải thích và chính xác hóa tình huống khi cần thiết để hiểu đúng vấn đề
được đặt ra.
- Phát hiện vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó.
Bước 2: Tìm giải pháp
- Học sinh tìm một cách giải quyết vấn đề, cần làm rõ mối liên hệ giữa cái
đã biết và cái phải tìm. Trong Vật lí thường liên tưởng tới những khái niệm, đặc
điểm hoặc tính chất thích hợp.
- Tổ chức thu thập dữ liệu, học sinh tiến hành suy luận tìm ra hướng giải
quyết vần đề một cách hiệu quả.
Bước 3: Trình bày giải pháp
Khi giải quyết được vấn đề đặt ra, học sinh trình bày lại toàn bộ từ việc
phát biểu vấn đề cho tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể
không cần phát biểu lại vấn đề. Trong khi trình bày, học sinh phải trình bày rõ
ràng, mạch lạc, logic.
Ví dụ: Biết 10dm3 có khối lượng 15kg

a) Tính thể tích của 1 tấn cát.
b) Tính trọng lượng của một đóng cát 3m3
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Giáo viên đặt một số câu hỏi dẫn dắt

Thực hiện lời giải

học sinh làm bài tập theo trình tự các
bước sau:
Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề
Giáo viên hướng dẫn câu a của bài toán
- Em hãy cho biết đề bài đã cho những
đại lượng nào?
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 11


Sáng kiến kinh nghiệm
+ HS: Đề bài cho biết khối lượng và thể
tích của cát.
- GV: Bài toán yêu cầu tính những đại
lượng nào?

Cho biết:

+HS: Bài toán yêu cầu tính thể tích và

V = 10dm3 = 0,01m3


trọng lượng của cát

m = 15kg

-GV yêu cầu học sinh tóm tắt đề bài,
giáo viên theo dõi

V = ? Khi m = 1tấn = 1000kg

Bước 2: Tìm giải pháp

P = ? Khi V = 3m3

-GV: Bài toán cho biết thể tích và khối
lượng của cát, ta tính được đại lượng
liên quan nào?
+ HS: Ta tính được khối lượng riêng của
cát
-GV: Em hãy cho biết công thức tính
khối lượng riêng?
+HS: Khối lượng riêng được xác định
theo công thức D =

m
V

-GV: Sau khi tính được khối lượng riêng
của cát, các em tính thể tích của cát dựa
vào công thức biến đổi V=


m
D

với m = 1tấn = 1000kg
Giáo viên hướng dẫn câu b của bài toán
-GV: Em hãy cho biết công thức tính
trọng lượng của cát?
+HS: Công thức tính trọng lượng là P = 10m
-GV: Muốn tính được trọng lượng của
một đóng cát có thể tích 3m3, trước hết
ta phải tính được khối lượng của cát.
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm
Vậy khối lượng của cát được tính theo
công thức nào?
+HS: Khối lượng của cát được tính theo
công thức m = D.V

Khối lượng riêng của cát là

-GV: Sau khi các em tính được khối

D=

lượng của cát, ta áp dụng lại công thức
P=10m sẽ tính được trọng lượng của cát.

Bước 3: Trình bày giải pháp
Bằng các gợi ý và hướng dẫn của giáo
viên, học sinh trình bày bài toán một
cách chi tiết, cụ thể.
-GV theo dõi, uốn nắn, sữa sai kịp thời.

m
15
=
= 1500(kg/m3 )
V 0, 01

a) Thể tích của một tấn cát là:
V=

m 1000
=
= 0, 667(m3 )
D 1500

b)Trọng lượng của một đóng cát
3m3 là:
Khối lượng của 3m3 cát là:
m = D.V = 1500.3 = 4500 (kg)
Trọng lượng của 3m3 cát là:
P = 10.m = 10.4500 = 45000 (N)
Đáp số: a) V = 4500 (kg)
b) P = 45000 (N)

3.4/ Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm chứng minh trên

lớp:
Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm. Các tri thức Vật lí là sự khái quát
hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng xảy ra trong đời
sống. Không có thí nghiệm, học sinh không có cơ sở để thực hiện các thao tác tư
duy để tiếp nhận tri thức mới. Do đó mọi tri thức mà giáo viên truyền đạt đến
học sinh về bản chất là áp đặt. Chính cách dạy chay là một trong những nguyên
nhân của tình trạng chất lượng học tập bộ môn còn thấp và cũng đồng thời là sự
tách rời giữa học và hành, giữa nhà trường và cuộc sống.
Trong học tập, nếu sử dụng các đồ dùng dạy học thực hiện các thí nghiệm
chứng minh trên lớp ta dễ dàng nhận thấy học sinh học tập hứng thú hơn, sinh
động hơn, hiệu quả hơn.

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 13


Sáng kiến kinh nghiệm
Tuy nhiên, trang thiết bị trong nhà trường còn hạn chế. Để thực hiện các thí
nghiệm trong các tiết dạy đạt hiệu quả, giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy cần
thực hiện các bước sau:
+ Chủ động và có kế hoạch làm đồ dùng dạy học ngay từ đầu năm học. Cùng
với việc lập kế hoạch dạy học, giáo viên phải tính đến các điều kiện cụ thể trong
nhà trường mà xây dựng kế hoạch làm và sử dụng trang thiết bị dạy học phù
hợp.
+ Giáo viên bộ môn phối hợp với nhóm bộ môn, tập thể tổ rèn kĩ năng thực
hiện các thí nghiệm chứng minh.
3.5/ Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát hiện
tượng, phân tích các kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có liên
quan…để đi đến tri thức mới.

Để tổ chức tốt cho học sinh làm việc trên lớp một cách chủ động, tích cực,
đúng hướng…vai trò tổ chức của giáo viên thể hiện chủ yếu qua hệ thống câu hỏi:
+ Các câu hỏi phải được sắp xếp thành hệ thống, đảm bảo tính lôgic và
theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ khái quát đến cụ thể…
+ Các hiện tượng mà học sinh quan sát được là một chỉnh thể, các em
cần tự mình phân tích để lí giải từng bộ phận, từng khía cạnh, từng giai đoạn…
để nắm vững được bản chất và quy luật của chúng. Nếu học sinh không tự làm
được theo các yêu cầu đó, giáo viên mới tách ra thành những câu hỏi nhỏ, cụ thể
và chi tiết hơn.
+ Học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả phát huy được năng
lực của mọi đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá - giỏi trả lời những câu hỏi
chung, khái quát; học sinh trung bình và yếu trả lời các câu hỏi cụ thể, chi tiết
hơn. Có thể trong thời gian đầu, học sinh chưa quen với cách làm này nhưng
giáo viên cần phải làm như vậy để rèn luyện thói quen cho học sinh.
+ Câu hỏi mà giáo viên đặt ra cho học sinh phải được chuẩn bị trước, kể
cả các câu hỏi gợi ý chi tiết. Diễn đạt phải rõ ràng, ngắn gọn.

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm
3.6/ Tăng cường luyện tập độc lập cho học sinh trên lớp:
Luyện tập là khâu quan trọng trong mỗi tiết học. Nó giúp học sinh hoàn
thiện tri thức mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn. Qua luyện tập, giáo viên tiếp nhận thông tin ngược từ học sinh để bổ sung
những tri thức còn thiếu, uốn nắn những sai lầm thường mắc phải.
Nội dung luyện tập phải được lựa chọn ưu tiên cho học sinh trung bình:
Tương ứng với yêu cầu tối thiểu của bài học, có tác dụng chuẩn bị cho học sinh

học bài và làm bài ở nhà. Tuy vậy, không thể bỏ qua những đối tượng khá, giỏi.
Nên có những bài tập có yêu cầu cao hơn cho các em này. Khâu luyện tập cần
được dành thời gian hợp lí, tốt nhất là khoảng 10 phút cho mỗi tiết học. Coi
trọng những bài tập có nội dung thực tế, gắn với đời sống để giúp học sinh biết
vận dụng kiến thức giải quyết những nhiệm vụ hàng ngày.
Nói chung học sinh phải được tạo điều kiện để làm việc một cách độc lập,
đặc biệt trong giai đoạn luyện tập, củng cố kiến thức sau mỗi bài học. Mọi cuộc
trao đổi thảo luận, mọi chỉ dẫn hay nhận xét, đánh giá của giáo viên, chỉ có hiệu
quả cao khi học sinh đã được chuẩn bị và có sự chứng kiến của giáo viên.
3.7 / Sử dụng “phiếu học tập” cho mỗi học sinh:
Để hỗ trợ và thực hiện tốt các giải pháp trên. Phiếu học tập được thiết kế cho
từng tiết học. Nội dung của phiếu bao gồm:
- Các câu hỏi hoặc những chỉ dẫn cho học sinh quan sát và ghi lại các kết
quả thí nghiệm.
- Hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích hiện tượng, vận dụng các
kiến thức có liên quan…để đi đến tri thức mới.
- Các bài luyện tập.
Sử dụng phiếu học tập cho mỗi bài dạy cụ thể sẽ có tác dụng:
- Tiết kiệm được thời gian để giáo viên truyền đạt các yêu cầu hoặc
hướng dẫn đối với học sinh.
- Tăng cường tính độc lập trong khi làm việc của mỗi học sinh.
- Nhịp độ và khối lượng công việc làm được tùy thuộc vào năng lực của mỗi
học sinh. Bằng cách này quá trình học tập của học sinh từng bước được cá nhân hóa.
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm
- Trong thời gian đầu, giáo viên có thể thu “phiếu học tập” sau tiết học để

xem xét, đánh giá hoạt động của từng học sinh và của tập thể học sinh. Từ đó có
biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh hoặc điều chỉnh cho hợp lí và có hiệu quả hơn.
Tóm lại, Các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học vật lí nêu trên nhằm
đạt được ba yêu cầu sau:
- Học sinh phải được quan sát các hiện tượng vật lí một cách trực tiếp
đúng theo nguyên tắc sư phạm.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho các em tự phân tích, lí giải…để qua
đó nắm được bản chất, quy luật của hiện tượng.
- Học sinh được luyện tập vận dụng phương pháp và tri thức mới vào
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể - trước hết là trong các bài tập, sau đó là trong
đời sống.
Chính trong quá trình hoạt động một cách tích cực, chủ động để chiếm
lĩnh tri thức trên, các năng lực và phẩm chất nhân cách của các em được hình
thành và phát triển.
MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA
Sau đây là một số ví dụ minh họa việc vận dụng kết hợp một số giải pháp
trên vào trong bài dạy cụ thể của chương trình Vật lí 6
Ví dụ 1: Bài lực đàn hồi
* Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Nhận biết được vật đàn hồi (qua sự đàn hồi của lò xo).
- Trả lời đặc điểm của lực đàn hồi.
- Rút ra được nhận xét về sự phụ thuộc của lực đàn hồi vào độ biến dạng
của vật đàn hồi.
2. Kỹ năng:
- Lắp được thí nghiệm chứng minh lò xo là một vật có tính chất đàn hồi.
- Nghiên cứu hiện tượng để rút ra quy luật về sự biến dạng và đặc điểm
của lực đàn hồi.
3. Thái độ: Có ý thức tìm tòi quy luật vật lý qua các hiện tượng tự nhiên.
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung


Trang 16


Sáng kiến kinh nghiệm
*Thí nghiệm:
Dụng cụ: Chuẩn bị cho mỗi nhóm học sinh
Một giá treo, một lò xo, một thước có độ chia đến mm
Ba quả nặng giống nhau, mỗi quả có khối lượng 50g
Bước 1: Đo chiều dài tự nhiên của lò xo khi chưa kéo dãn (chiều dài tự nhiên
của lò xo): l0
Bước 2: Móc quả nặng vào đầu dưới của lò xo. Đo chiều dài l1 của lò xo khi bị
biến dạng.
Bước 3: Tính trọng lượng của quả nặng và ghi vào ô tương ứng.
Bước 4: Đo lại chiều dài của lò xo khi bỏ quả nặng ra. So sánh l0 và l1.
Bước 5: Móc thêm 2, 3 quả nặng 50g vào vào đầu dưới của lò xo và làm tương
tự như trên.

* Hệ thống câu hỏi: Từ kết quả thí nghiệm hãy cho biết chiều dài của lò
xo khi bỏ hết quả nặng ra và so sánh với chiều dài tự nhiên của lò xo?
Giáo viên đặt các câu hỏi hướng dẫn học sinh:
- Trọng lượng của các quả nặng tương ứng được móc vào lò xo được
xác định như thế nào?
- Đặt thước đo như thế nào để đo chiều dài của lò xo chính xác?

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 17



Sáng kiến kinh nghiệm
- Số chỉ trên thước đo khi móc các quả nặng tương ứng vào lò xo có giá
trị như thế nào so với chiều dài tự nhiên ban đầu của lò xo?
- Khi bỏ các quả nặng ra chiều dài của lò xo như thế nào so với chiều
dài ban đầu của lò xo?
Học sinh làm thí nghiệm, thu thập kết quả ghi vào ô tướng ứng trong phiếu
học tập của nhóm:
Số quả nặng 50g

Tổng trọng

được móc vào

lượng của các

lò xo
quả nặng
0
0
(N)
1 quả nặng
………..(N)
2 quả nặng
………..(N)
3 quả nặng
………..(N)
Sau khi học sinh thảo luận, tính

Chiều dài của


Độ biến dạng

lò xo

của lò xo

l0 =……(cm)
0
(cm)
l =……(cm)
l - l0 =……(cm)
l =……(cm)
l - l0 =……(cm)
l =……(cm)
l - l0 =……(cm)
toán chiều dài của lò xo tương ứng trong

từng bước thí nghiệm cụ thể, ghi vào phiếu học tập của nhóm, giáo viên chốt lại
cho học sinh thấy được rằng khi bỏ các quả nặng ra khỏi lò xo thì chiều dài của
lò xo trở lại vị trí ban đầu. Từ đó có thể kết luận rằng, lò xo là một trong những
vật có tính chất đàn hồi.
* Củng cố và luyện tập: Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi cho học sinh tham
gia trả lời:
1. Lực đàn hồi là gì? Đặc điểm của lực đàn hồi?
2. Nêu ví dụ về một số vật có tính chất đàn hồi?
3. Lực đàn hồi phụ thuộc như thế nào vào độ biến dạng của lò xo?
4. Các lực nào sau đây là lực đàn hồi?
A. Lực hút của trái đất lên các vật
B. Lực hút của mặt trời lên trái đất.
C. Lực kéo của một sợi dây khi treo một vật nặng vào

D. Lực mà cung tác dụng lên mũi tên.

Ví dụ 2: Bài đòn bẩy
*Mục tiêu của bài:
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 18


Sáng kiến kinh nghiệm
1. Kiến thức:
- Nêu được các ví dụ về sử dụng đòn bẩy trong cuộc sống.
- Xác định điểm tựa O, các lực tác dụng lên đòn bẩy.
- Biết sử dụng đòn bẩy trong các công việc thích hợp (biết thay đổi vị trí của
các điểm O, O1, O2 cho phù hợp với yêu cầu sử dụng).
2. Kĩ năng: Biết đo lực ở mỗi trường hợp
3. Thái độ: Cẩn thận, trung thực, nghiêm túc.
*Dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm:
-Dụng cụ: Lực kế có GHĐ 2N, khối trụ kim loại có móc, một giá đỡ
- Tiến hành:

Bước1: Tính trọng lượng của quả nặng P = F1
Bước 2: Mắc dụng cụ thí nghiệm như hình vẽ sao cho khoảng cách OO 2 >
OO1, dùng lực kế đo cường độ lực F2.
Bước 3: Dịch chuyển điểm O, sao cho khoảng cách OO 1 = OO2, dùng lực
kế đo cường độ lực F2.
Bước 4: Tiếp tục dịch chuyển O, sao cho khoảng cách OO2 < OO1, dùng
lực kế đo cường độ lực F2.
* Hệ thống câu hỏi:
Trước khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên đặt vấn đề: Muốn lực nâng

nhỏ hơn trọng lượng của vật thì các khoảng cách OO1 và OO2 phải thỏa mãn
điều kiện gì? Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi mà giáo viên đặt ra, học sinh
phải thực hiện được thí nghiệm, ghi lại kết quả thí nghiệm trong từng trường
hợp cụ thể. Do đó giáo viên đặt một số câu hỏi gợi ý:
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 19


Sáng kiến kinh nghiệm
- Muốn xác định độ lớn của lực F1, ta dùng dụng cụ gì?
- Cho biết độ lớn của lực F2 ứng với từng trường hợp
(OO1 = OO2 ; OO1 > OO2 ; OO1 < OO2)?
- So sánh cường độ lực F2 và F1 trong từng trường hợp?
- Muốn lực nâng vật nhỏ hơn trọng lượng của vật (F2 < F1) phải thỏa mãn
điều kiện gì?
- Từ kết quả thí nghiệm, em rút ra được kết luận gì?
Sau khi học sinh làm thí nghiệm, quan sát kết quả và ghi vào phiếu học tập
của nhóm, giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận. Giáo viên cũng cần
chú ý cho học sinh trước khi làm thí nghiệm, cần kiểm tra lại các dụng cụ thí
nghiệm để trong quá trình thực hành ta thu được kết quả tốt nhất.
Phiếu học tập của nhóm
Lực
Trọng lượng của vật
Tổng 2 lực dùng để kéo vật lên

Cường độ
………(N)
………(N)


* Củng cố và luyện tập: Giáo viên có thể sử dụng phiếu học tập cho cá nhân
học sinh trả lời.
Họ và tên:……………
Lớp:…………………
Câu hỏi 1. Để nâng một vật có khối lượng 20kg bằng đòn bẩy thì phải tác dụng
vào đòn bẩy một lực nâng F (biết 001 > 002):
A. F > 200N

B. F < 200N

C. F = 200N

D. F = 100N

Trả lời: .....................................................................................................................
Câu hỏi 2. Dùng đòn bẩy được lợi về lực khi:
A. OO1 > OO2

B. OO1 = OO2

C. OO1 < OO2

D. OO1 = 2OO2

Trả lời: .....................................................................................................................
Câu hỏi 3. Cần tác dụng một lực 150N thì mới nâng được vật lên (biết OO 1<
OO2), trọng lượng của vật là:
A. 150N

B. 200N


C. 1000N

D. 150N

Trả lời: .....................................................................................................................
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 20


Sáng kiến kinh nghiệm
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường:
* Đối với học sinh:
Trong quá trình giảng dạy bộ môn và thực hiện áp dụng đối mới phương
pháp dạy học, tôi nhận thấy học sinh có sự tiến bộ, các em tích cực trong việc
trao đổi, thảo luận giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong
thực hành thí nghiệm các em cẩn thẩn thực hiện các thao tác nhằm đem lại kết
quả chính xác nhất, độc lập suy nghĩ trả lời các câu hỏi do giáo viên đặt ra. Qua
đó các em có sự hứng thú, tích cực tìm hiểu nội dung bài học để hình thành và
chiếm lĩnh kiến thức mới. Cụ thể qua điều tra kết quả học tập của học sinh, tôi
nhận thấy sự tiến bộ của các em thông qua các giai đoạn sau:
*Trước khi khảo sát:
Lớp
6A
6B

TS
HS

28
27

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
4
14,3
7
25
11
39,3
6
21,4
2
7,4
6
22,2
15
55,6
4

14,8

*Sau khi khảo sát:
Lớp
6A
6B

TS
HS
28
27

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
7
25
11
39,3
9
32,1

1
3,6
6
22,2
9
33,3
12
44,5
0
0

* Đối với các thầy cô giáo:
Thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học giáo viên không ngừng học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học.
Giáo viên học cách thức đi tới sự hiểu biết. Học kỹ năng thực hành và thái độ
thực tiễn trong nghề nghiệp. Học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong
nhận thức và hành động. Biết mềm hóa tư duy và tuy cơ ứng biến.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1- Kết luận:
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong quá trình dạy học, chúng ta đều
nhận thấy được rằng phương pháp dạy học có một vai trò quan trọng trong quá
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 21


Sáng kiến kinh nghiệm
trình dạy học bộ môn Vật lí, từ việc giới thiệu kiến thức (đặt vấn đề), nghiên cứu tìm
ra qui luật, bản chất của kiến thức mới, củng cố mở rộng và khắc sâu kiến thức. Nếu
không sử dụng các thí nghiệm, không đặt câu hỏi gợi mở, không sử dụng tranh ảnh

minh họa trong tiết học thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, tẻ nhạt và dẫn tới sự nhàm
chán đối với học sinh. Không sử dụng đổi mới phương pháp thì không thể đạt được
kết quả cao và tạo được cho học sinh sự hứng thú, yêu thích bộ môn Vật lí.
Từ vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học, bản thân giáo
viên giảng dạy bộ môn cần phải nắm vững được lý luận của phương pháp, kết
hợp với kinh nghiệm thực tiễn trong giảng dạy. Nắm được yêu cầu của từng bài
học cụ thể để từng bước phát huy được hiệu quả của phương pháp dạy học, hình
thành cho học sinh khả năng tự học, độc lập, sáng tạo...
Để thực sự phát huy tính tích cực học tập của học sinh khi học chương
trình Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng, giáo viên cần vận dụng các phương
pháp đổi mới nhằm tạo mọi điều kiện cho học sinh hoạt động trong tiết học. Tuy
nhiên trong quá trình dạy học, học sinh cần chú ý:
- Thu thập thông tin: Cá nhân học sinh thực hiện.
- Xử lý thông tin: Chủ yếu là hoạt động nhóm.
Đối với giáo viên, là người đóng vai trò, tổ chức điều khiển hoạt dộng học
của học sinh, giáo viên cần sử dụng các câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh,
đặt ra các câu hỏi gợi mở, đồng thời dự kiến trước các phương án trả lời của học
sinh và cách xử lí các tình huống có thể xảy ra. Từ đó chỉnh lại câu hỏi mở cho
phù hợp hơn với trình độ thực tế của học sinh.
Trong quá trình sử dụng đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, tôi nhận thấy:
- Học sinh hứng thú, tích cực hoạt động, trao đổi, thảo luận nắm được một số
kiến thức cơ bản tại lớp.
- Học sinh trả lời được một số câu hỏi gợi mở do giáo viên đặt ra.
- Học sinh có tinh thần hợp tác, quan sát thí nghiệm theo tổ, nhóm.
- Vận dụng kiến thức, giải thích một số hiện tượng cơ bản trong đời sống.
Tuy nhiên thực hành thí nghiệm chứng minh trên lớp là một trong những
phương pháp đặc thù của bộ môn, trong quá trình thực hành thí nghiệm học sinh
Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 22



Sáng kiến kinh nghiệm
không tự chủ động được thời gian, có thể kéo dài thời gian làm thí nghiệm. Do
đó, giáo viên thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra đôn đốc các em thực hiện thu
thập kết quả đúng theo thời gian quy định.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất
lượng dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Trong đó hoạt động dạy
và hoạt động học có tính độc lập tương đối nhưng là hai mặt của một quá trình,
người giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng và hình thành nhân cách; học sinh làm
chủ kiến thức kỹ năng theo chuẩn kiến thức kỹ năng quy định ở các bậc học. Tuy
nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp
truyền thống mà phải vận dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học hiện
có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại.
2. Kiến nghị:
* Về phía nhà trường: Cần từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, được trang
bị đầy đủ những đồ dùng, phương tiện, thiết bị dạy học cơ bản và cần thiết. Góp
phần nâng cao hơn nữa hiệu quả dạy và học của GV và HS.
* Ngoài ra, cần thực hiện tổ chức và tập huấn cho GV tại các Sở, các Phòng
giáo dục về cách sử dụng các phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới .
Giáo viên được trực tiếp dự giờ các tiết dạy tiêu biểu có sử dụng các phương
pháp dạy học theo tinh thần đổi mới để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 3 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết


Trịnh Quốc Trung

Giáo viên: Trịnh Quốc Trung

Trang 23



×