Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan tại cục hải quan TP hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.28 KB, 78 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.

Hải Phòng, ngày 08 tháng 3 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thuỳ Linh

i


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn
thạc sỹ Quản lý kinh tế với đề tài “Hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan tại Cục Hải quan TP Hải Phòng”. Tôi xin trân
trọng gửi lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo của Trường Đại học Hàng Hải
Việt Nam, những người đã tận tình dạy bảo giúp đỡ và định hướng cho tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu. Xin gửi lời cám ơn trân trọng tới Ban Giám hiệu,
Viện Đào tạo sau đại học Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Dƣơng Văn Bạo,
người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã hợp tác chia sẻ
thông tin, cung cấp cho tôi nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

ii



MỤC LỤC
Lời cam đoan .............................................................................................................. i
Lời cảm ơn................................................................................................................. ii
Mục lục……………………………………………………………………...……..iii
Mở đầu....................................................................................................................... 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan………………………………………………............4
1.1. Lý luận chung về vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan…….. .................... 4
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan……………..……...4
1.1.2. Cơ sở phát sinh vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan…………...…..8
1.1.3. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ……………….12
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan………….……….……14
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan……………………………………………………………………….…..…..14
1.2.2. Cơ sở pháp lý thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan………………………………………………………………………..……...17
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan………………………………………………………………………………19
1.2.4. Trình tự xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan…………..…25
Chương 2: Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan tại Cục Hải
quan TP. Hải Phòng……………………………………………… ........................ 33
2.1. Giới thiệu sơ lược về Cục Hải quan TP. Hải Phòng ........................................ 33
2.2. Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan tại Cục Hải quan TP.
Hải Phòng từ năm 2011 – 2015…………………………………………...………34
2.2.1. Nhận định tình hình chung về vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực
hải quan tại Cục Hải quan TP. Hải Phòng từ năm 2011 – 2015……………..……34
2.2.2. Kết quả thực hiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan tại Cục Hải quan TP. Hải Phòng từ năm 2011 – 2015 ................................... 39
2.2.3. Một số vụ vi phạm điển hình ........................................................................ 43

2.2.4. Phân tích, đánh giá ........................................................................................ 51
iii


Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan tại Cục Hải quan TP. Hải Phòng………………………...55
3.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là
một tất yếu khách quan.. …………………………………………………..………55
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan ở Việt Nam nói chung và ở Cục Hải quan TP. Hải Phòng nói
riêng…………………………………………………..…………………………...58
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành chính...................... 58
3.2.2. Giải pháp phòng ngừa vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ............ 60
3.2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan ........................................................................................................... .66
3.2.4. Giải pháp khắc phục hậu quả do vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực
hải quan ................................................................................................................... 68
Kết luận và kiến nghị............................................................................................... 71
Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 73

iv


MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay tập trung
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, thì một trong những yêu cầu bức thiết đặt ra là mọi hành vi vi phạm pháp luật
phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, triệt để.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về mặt thực tiễn, quá trình hình thành và phát triển pháp luật về xử lý vi

phạm hành chính trong những năm qua, đặc biệt là thực trạng pháp luật và thực
hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cho thấy hệ thống pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính còn tồn tại nhiều bất cập như: có nhiều quy định còn chồng
chéo không thống nhất, chưa phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi trong việc áp
dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tình trạng áp dụng tuỳ tiện hoặc
dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không kịp thời, xử lý vượt thẩm quyền vẫn
diễn ra dẫn đến tình trạng pháp chế trong xử lý vi phạm hành chính không nghiêm,
làm nảy sinh tâm lý coi thường kỷ cương, pháp luật.
Về mặt lý luận, đây là một vấn đề có tính thời sự cấp bách, mang ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cao.
Riêng tại Cục Hải quan TP Hải Phòng, thực trạng vi phạm hành chính trong
lĩnh vực Hải quan rất đa dạng, phức tạp với lượng hàng hoá qua cửa khẩu cảng Hải
Phòng là rất lớn.
Với những lý do trên, tôi cho rằng việc nghiên cứu đề tài làm thế nào để
“Hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan tại
Cục Hải quan TP Hải Phòng” là một việc làm cần thiết, bởi nó phục vụ thiết thực
cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thi
hành và áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại đơn vị Cục Hải quan.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận tốt nghiệp có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, trên
cơ sở nghiên cứu, phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, đặc điểm đặc trưng của vi
phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan, thực trạng vi phạm hành chính
1


trong lĩnh vực hải quan tại Cục Hải quan TP Hải Phòng, từ đó đề xuất giải pháp
chủ yếu hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở
Việt Nam hiện nay, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thi hành và áp
dụng pháp luật hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm
hành chính, ổn định trật tự quản lý và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong

lĩnh vực hải quan cũng như khắc phục tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan tại Cục Hải quan TP Hải Phòng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với khuôn khổ của một Khoá luận tốt nghiệp, với thời gian và khả năng
nghiên cứu còn giới hạn của bản thân, tôi xin tập trung chủ yếu vào việc nghiên
cứu về một số vấn đề mang tính chất lý luận về vi phạm luật hành chính, thực trạng
xử phạt vi phạm hành chính và giải pháp nhằm khắc phục vi phạm hành chính
cũng như hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
tại Cục Hải quan TP Hải Phòng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi và khả năng cho phép, tôi cố gắng nghiên cứu một cách tổng
quát về những vấn đề cơ bản thuộc nội dung của pháp luật hành chính trong xử
phạt vi phạm hành chính về hải quan dưới góc độ lý luận và thực tiễn ban hành, áp
dụng và thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính thời gian qua dựa trên một số
số liệu thực tiễn tại Cục Hải quan TP Hải Phòng để từ đó rút ra kinh nghiệm phù
hợp với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở nước ta.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; do đó, phương pháp nghiên cứu của
khoá luận được thực hiện trên cơ sở áp dụng các biện pháp nghiên cứu của triết

2


học Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như
phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp lịch sử, thống kê…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về mặt khoa học, khoá luận đề cập đến các nội dung cơ bản của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan một cách trực tiếp với mục
đích xem xét một cách tương đối thấu đáo, toàn diện về một mảng pháp luật hết
sức quan trọng trong hệ thống pháp luật hành chính Việt Nam, góp phần định
hướng trong việc hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan ở nước ta.
Về mặt thực tiễn, khoá luận đưa ra một số giải pháp mang tính khuyến nghị
nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động ban hành, tổ chức
thi hành pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam nói chung và ở Cục Hải quan TP Hải
Phòng nói riêng.

3


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
1.1. Lý luận chung về vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính
Để xã hội có thể ổn định và phát triển được theo đúng định hướng đã đề ra,
Nhà nước luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ thống các quy tắc
quản lý nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trên thực
tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi phạm các quy tắc quản lý nhà
nước. Các vi phạm diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội, từ những hành vi vi
phạm nhỏ như vứt rác không đúng nơi quy định đến những hành vi vi phạm có tính
chất, mức độ lớn hơn có quy định về quản lý nhà nước như điều khiển mô tô, xe
máy đi vào đường ngược chiều, vượt đèn đỏ, gây tai nạn hoặc những vi phạm
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh như tiến hành kinh doanh mà không đăng ký

theo quy định, trốn thuế, thay đổi trụ sở của doanh nghiệp mà không thông báo,
hay những hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như vận chuyển và
xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không theo đúng quy định về bảo
vệ môi trường... Tóm lại, những hành vi vi phạm quy định quản lý nhà nước được
nêu trên đây thể hiện rất đa dạng, phong phú và xảy ra trong hầu hết các lĩnh vực
quản lý nhà nước, nhưng tựu trung lại chúng có một số đặc điểm chung sau đây:
- Những hành vi này đều là những hành vi xâm hại đến trật tự quản lý nhà
nước, phá vỡ trật tự quản lý hành chính đang được duy trì, làm ảnh hưởng đến hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung. Tuy nhiên, do tính chất và mức độ xâm
hại của hành vi chưa đến mức nguy hiểm cho xã hội để trở thành tội phạm hình sự
nên những hành vi này không phải là tội phạm hình sự theo quy định của pháp luật
hiện hành.

4


- Chủ thể thực hiện những hành vi này là cá nhân hoặc tổ chức. Đối với tổ
chức, thì hành vi được thực hiện bởi cá nhân nhưng dưới danh nghĩa tổ chức (do tổ
chức phân công, giao nhiệm vụ, hoặc thực hiện hành vi nhân danh tổ chức đó);
- Hành vi được thực hiện là do cố ý hoặc vô ý;
- Hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật là bị xử phạt vi phạm hành chính.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu vi phạm hành chính là hành vi do
cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước mà chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Khái niệm vi
phạm hành chính cũng được xác định tại khoản 1 Điều 2 của Luật xử lý vi phạm
hành chính số 15/2012/QH13.
1.1.1.2 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Hoạt động hải quan là một loại hoạt động kiểm tra, giám sát của nhà nước

nhằm đảm bảo quản lý nhà nước đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh,
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài. Theo quy định tại Điều 16 Luật Hải quan năm 2014: “Hàng
hóa, phương tiện vận tải phải được làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm tra, giám sát
hải quan; vận chuyển đúng tuyến đường, đúng thời gian qua cửa khẩu hoặc các địa
điểm khác theo quy định của pháp luật” [9].
Trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, cơ
quan Hải quan là cơ quan trực tiếp thực hiện quyền kiểm tra, giám sát, đảm bảo
duy trì sự quản lý của Nhà nước đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu, phương tiện
vận tải và hành khách xuất, nhập cảnh; điều tra chống buôn lậu, chống gian lận
thương mại... nhằm bảo hộ và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, tăng sức
cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu; thu thuế xuất nhập khẩu bảo đảm nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng; bảo vệ môi
trường; góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội. Cơ quan hải quan thực hiện các quyền đã thông qua một hệ thống các
5


quy trình thủ tục hành chính đặc biệt gọi là thủ tục hải quan nhằm hợp thức hoá
cho hàng hoá, hành lý, phương tiện vận tải khi qua lại biên giới, đồng thời thực
hiện các quyền kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo các chế độ quản lý của nhà nước
đối với các đối tượng nói trên cũng như các quy trình thủ tục được đảm bảo tuân
thủ. Điều 12 Luật Hải quan quy định: “Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện
kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo
quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; kiến nghị chủ
trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu” [9].

Tất cả các quan hệ như vậy trong lĩnh vực hải quan được điều chỉnh bởi các
quy phạm pháp luật quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau, lập nên tổng thể các quy phạm pháp luật đặc
biệt điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, tức
là điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các biện pháp
quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và xuất cảnh, nhập cảnh.
Tổng thể các quy phạm pháp luật đó có thể coi là các quy phạm pháp luật về hải
quan. Các quy phạm pháp luật về hải quan quy định cho các bên tham gia các quan
hệ xã hội nói trên các quyền và nghĩa vụ pháp lý, trách nhiệm của các bên nếu
không thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã nêu hoặc vi phạm quyền của bên kia.
Do các quy phạm pháp luật về hải quan là các quy tắc chung bảo vệ chế độ kiểm
tra, giám sát hải quan, là một trong những chế độ quản lý nhà nước nên có tính
chất bắt buộc thực hiện đối với mọi đối tượng cá nhân, tổ chức liên quan. Như vậy,
có thể nói đặc điểm chung nhất của các quy phạm pháp luật về hải quan là tính
chất bắt buộc thực hiện đối với các quy định, các chế độ về hải quan do Nhà nước
ban hành, do đó chúng mang tính chất mệnh lệnh của luật hành chính.

6


Một đặc điểm nữa của các quy phạm pháp luật về hải quan là tính chất tích
cực của các quy phạm này trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá qua
biên giới. Một mặt đảm bảo cho việc tuân thủ trật tự kỷ cương trong hoạt động
xuất nhập khẩu và xuất nhập cảnh, mặt khác các quy phạm pháp luật về hải quan
quy định các biện pháp nhằm đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực: vi phạm các chế độ về xuất nhập khẩu, trốn, lậu thuế, buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối... qua biên giới.
Hiện nay, các quy phạm pháp luật về hải quan quy định quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật về hải quan. Các chế độ quản lý
hải quan cụ thể đã được ban hành trong Luật hải quan và được hệ thống hoá trong

các văn bản pháp quy ban hành dưới nhiều hình thức: Nghị định của Chính phủ;
Thông tư, Quyết định, Chỉ thị của các Bộ, ngành... Các quy phạm hình thức quy
định tổ chức và hoạt động của cơ quan Hải quan nhằm bảo vệ các quy phạm nội
dung nói trên đã được hệ thống tương đối đầy đủ trong Luật Hải quan và các Nghị
định cụ thể hoá Luật như Nghị định 01/2015/NĐ-CP ngày 02/01/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; trách nhiệm phối
hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Trong thực tế hoạt động luôn có những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm các
quy định của Nhà nước đối với các chế độ quản lý, các quy trình thủ tục hay việc
kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan. Các vi phạm đó chính là các vi phạm pháp
luật hải quan, xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về hải quan và diễn ra phổ
biến ở hầu hết các khâu nghiệp vụ của quá trình kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải
quan. Các hành vi vi phạm pháp luật này, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm đều
phải bị xử phạt, có hành vi bị xử lý vi phạm hình sự như các hành vi buôn lậu hay
vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (theo quy định tại các Điều
153 và 154 Bộ Luật Hình sự số 15/1999/QH10), nhưng đa số bị xử phạt theo các
quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Tóm lại, từ các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan như sau: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là
7


hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới các
quy định quản lý nhà nước về hải quan mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Vi phạm các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan được quy
định cụ thể tại Điều 1 Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính
phủ bao gồm:
“- Vi phạm các quy định của pháp luật về thủ tục hải quan;
- Vi phạm các quy định của pháp luật về kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải

quan;
- Vi phạm các quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu (sau đây gọi tắt là thuế);
- Vi phạm các quy định pháp luật khác có liên quan đến hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh” [5].
1.1.2. Cơ sở phát sinh vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.2.1. Các quy định quản lý Nhà nước về hải quan
a) Sự xuất hiện của hoạt động hải quan trong lịch sử
Để có thể hiểu được sâu xa nguồn gốc phát sinh vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan thì chúng ta phải đi từ sự xuất hiện của hoạt động hải quan trong
lịch sử và bản chất của hải quan.
C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.L.Lê nin trong các tác phẩm của mình khi phân tích
về nguồn gốc của sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước, về sự hình thành và phát triển
của các quan hệ sản xuất từ chiếm hữu nô lệ, phong kiến đến tư bản chủ nghĩa, đã
chỉ ra các điều kiện phát sinh và hoàn thiện chính sách hải quan của các chế độ bóc
lột. Theo các nhà kinh điển, hoạt động hải quan, chính sách cũng như các quy
phạm pháp luật về hải quan xuất hiện cùng thời điểm với sự xuất hiện của sản xuất
hàng hoá.
Như vậy, hoạt động hải quan bắt đầu xuất hiện từ rất lâu đời, từ khi có sự
hiện hữu của phân công lao động sản xuất và hàng hoá, hay nói cách khác, hoạt
động hải quan gắn liền với sự xuất hiện của nhu cầu trao đổi hàng hoá. Để bảo vệ
8


lợi ích của mình, mỗi cộng đồng đã tự quy định những biện pháp có lợi ích nhất
cho mình trong việc kiểm soát trao đổi hàng hoá để bảo vệ sản xuất, đồng thời thu
được lợi nhiều nhất trong quan hệ với các cộng đồng khác, đó cũng chính là bản
chất của hoạt động hải quan. Có thể nói không có trao đổi hàng hoá giữa các cộng
đồng dân cư, và ngày nay là giữa các quốc gia, thì cũng không có hoạt động hải
quan. Qua việc xem xét quá trình hình thành phát triển của hoạt động hải quan trên

thế giới, có thể thấy chính sách hải quan của các nhà nước, lãnh thổ được đặt ra từ
rất sớm nhằm phục vụ các yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng và cùng với
nó là sự xuất hiện của hiện tượng vi phạm các chính sách này cũng như việc xử
phạt chúng.
b) Quản lý nhà nước về hải quan hiện nay
Hiện nay, các cơ quan hải quan nói chung của các nước, bên cạnh chức năng
truyền thống như kiểm tra hàng hoá, thu thuế, đấu tranh chống buôn lậu... còn có
nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện các quy định khác của quản lý nhà nước đối với
hàng hoá xuất, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh và
quá cảnh, ví dụ như các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các luật lệ về tài
chính, hạn ngạch xuất nhập khẩu; bảo vệ an ninh nội địa, chống khủng bố, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh,
môi trường.
Cũng giống như các nước trên thế giới, ở Việt Nam hiện nay, thông qua việc
làm thủ tục hải quan và thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan, cơ quan hải quan
cũng có nghĩa vụ đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh theo đúng các quy định của Nhà nước: các chế độ về giấy phép và
hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh,
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; các chế độ về thuế và nghĩa vụ
tài chính khác; chế độ xuất khẩu, nhập khẩu tiền Việt Nam; các quy định về tiêu
chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; các quy định về tiêu chuẩn
vệ sinh, môi trường, an toàn thực phẩm, sức khoẻ người tiêu dùng...; các quy định
về xuất xứ hàng hoá, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ...
9


Những chế độ quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà
cơ quan Hải quan chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm
bảo việc tuân thủ pháp luật hiện nay được quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP
ngày 20 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương

mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia
công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
Như vậy, các quy định, các chế độ quản lý của nhà nước cũng là cơ sở phát
sinh của các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng
trong hoạt động hải quan.
1.1.2.2. Thủ tục hải quan
Tương tự như các hoạt động hành chính khác, cơ quan hải quan thực hiện
quyền kiểm tra, giám sát nhà nước về hải quan chủ yếu thông qua hệ thống các thủ
tục hành chính đặc biệt, đó là thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là các công việc
mà người khai hải quan (bao gồm: chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải hoặc
người được chủ hàng, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền) và công chức hải quan
phải thực hiện theo quy định của pháp luật đối với hàng hoá, hành lý xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Thủ tục
hải quan bao gồm các công việc: Khai và nộp tờ khai hải quan; nộp, xuất trình
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; đưa hàng hoá, phương tiện vận tải đến địa điểm
được quy định cho việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải; nộp thuế và
thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật v.v. Các thủ tục
hành chính đó phải được thực hiện đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng trình tự
theo quy định của pháp luật.
Những quy định này gắn liền với nghĩa vụ của người khai hải quan trong
quá trình làm thủ tục hải quan nhằm đảm bảo việc cơ quan quản lý nhà nước một
mặt hợp thức hoá cho hàng hoá, phương tiện vận tải khi xuất khẩu, nhập khẩu, xuất
cảnh, nhập cảnh; mặt khác có thể quản lý được quá trình tuân thủ pháp luật của
người khai hải quan, đảm bảo các chế độ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh được tuân thủ nghiêm chỉnh, trật tự nhà nước trong
10


hoạt động này không bị phá vỡ. Do đó, thủ tục hải quan là một yếu tố cơ sở phát
sinh các vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

1.1.2.3. Hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan
Hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan cũng là một trong những
cơ sở phát sinh các vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Hoạt động này
được thực hiện thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ pháp luật hải quan. Việc vi phạm hành chính trong trường hợp này về
bản chất là việc vô ý hay cố ý không thực hiện một số các quy định của Nhà nước
nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật trong hoạt động hải quan.
Các hành vi vi phạm liên quan đến công tác kiểm tra của hải quan có thể là:
Không đưa hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đến đúng địa điểm quy định để làm thủ
tục hải quan; Không cung cấp thông tin, chứng từ, tài liệu liên quan đến hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh khi cơ quan hải
quan yêu cầu theo quy định của pháp luật; Không chấp hành quyết định kiểm tra
sau thông quan mà không có lý do xác đáng; Không lưu trữ đầy đủ hồ sơ hải quan,
sổ sách, chứng từ kế toán liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được
thông quan trong thời hạn phải lưu trữ theo quy định của pháp luật; Không xuất
trình hàng hoá đang lưu giữ là đối tượng kiểm tra sau thông quan theo yêu cầu của
cơ quan hải quan; Không bố trí người, phương tiện phục vụ việc kiểm tra thực tế
hàng hoá, phương tiện vận tải khi cơ quan hải quan yêu cầu mà không có lý do xác
đáng.
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực giám sát hải quan bao gồm các hành vi
không thực hiện các nghĩa vụ của người khai hải quan gây cản trở cho công tác
đảm bảo tuân thủ pháp luật; các hành vi đó bao gồm: không bảo quản nguyên vẹn
niêm phong hải quan kho hàng hoá, hàng hoá, phương tiện vận tải đang chịu sự
kiểm tra, giám sát hải quan mà không có lý do xác đáng; di chuyển phương tiện
vận tải, hàng hoá đang chịu sự giám sát hải quan không đúng quy định; tự ý thay
đổi bao bì, hình thức, kiểu dáng công nghiệp, xuất xứ, nhãn, mác hàng hoá đang
chịu sự giám sát hải quan; tự ý thay đổi chủng loại, số lượng, chất lượng, trọng
11



lượng hàng hoá đang chịu sự giám sát hải quan; Tự ý tiêu thụ hàng hoá đang chịu
sự giám sát hải quan.
Trong hoạt động kiểm soát của cơ quan hải quan, các hành vi vi phạm hành
chính chủ yếu bao gồm: Lên, xuống phương tiện vận tải chở hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu đang chịu sự kiểm tra hải quan khi chưa được phép của cơ quan hải
quan; không dừng phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh đúng địa
điểm quy định để làm thủ tục hải quan; không thực hiện đúng quy định về quản lý
hải quan khi đưa tàu biển vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu vào Việt
Nam không đúng cảng quy định; tự ý cặp mạn tàu, thuyền chở hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu đang làm thủ tục hải quan; không chấp hành hiệu lệnh của công chức
hải quan theo quy định khi di chuyển phương tiện vận tải trong địa bàn hoạt động
hải quan; Không thực hiện yêu cầu mở nơi cất giữ hàng hoá theo quy định để công
chức hải quan kiểm tra; đưa vào địa bàn hoạt động hải quan hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu mà hàng hoá đó chưa đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định; chứa chấp, mua
bán, vận chuyển trong địa bàn hoạt động hải quan hàng hoá có nguồn gốc nhập
khẩu trái phép; bốc dỡ hàng hoá không đúng cảng đích ghi trong vận đơn mà
không có lý do xác đáng; điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh không đúng tuyến đường, cửa khẩu quy định; tự ý xếp dỡ, chuyển tải, sang
mạn, sang toa, cắt toa hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh trên phương tiện
vận tải đang chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan; chứa chấp, mua bán, vận chuyển
hàng hoá có nguồn gốc nhập khẩu trái phép trong địa bàn hoạt động hải quan; tẩu
tán, tiêu hủy hoặc vứt bỏ hàng hoá để trốn tránh sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát
hải quan; đánh tráo, tẩu tán tang vật, phương tiện vi phạm đã bị phát hiện, tạm giữ.
Ngoài ra, cùng với sự phát triển của các hình thức giao dịch trong hoạt động
kinh tế đối ngoại, còn rất nhiều hành vi khác được coi như các hành vi vi phạm
hành chính hải quan như các vi phạm về chế độ kho, về các chế độ tạm quản...
được quy định trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan.
1.1.3. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
12



Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mang đầy đủ các đặc điểm của
vi phạm hành chính nói chung, do vậy, cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan cũng là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính xâm
hại trật tự quản lý nhà nước của một loại vi phạm hành chính và cần thiết cho việc
xác định ranh giới của các loại vi phạm hành chính khác nhau. Tuy nhiên, do đặc
thù của hoạt động hải quan, các vi phạm hành chính hải quan cũng có một số đặc
điểm riêng có tác động nhất định đến việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm này.
Thứ nhất, vi phạm hành chính hải quan chỉ xảy ra trong hoạt động hành
chính có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, và
do đó có liên quan đến các yếu tố nước ngoài. Đối tượng áp dụng của pháp luật hải
quan ngoài các tổ chức, cá nhân trong nước thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải, còn có các tổ
chức, cá nhân nước ngoài. Đây là đặc điểm có tác động rất lớn đến việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan do các tổ chức, cá nhân vi phạm có thể là
tổ chức hoặc công dân nước ngoài, cư trú tại nước ngoài; các đối tượng nói trên
cũng có thể vận dụng các quy định của luật pháp nước ngoài, các thông lệ quốc tế
trong hoạt động xuất, nhập khẩu và xuất, nhập cảnh để tác động đến quá trình xử lý
vi phạm.
Thứ hai, vi phạm hành chính hải quan có thể do nhiều cơ quan cùng tham
gia xử lý. Theo quy định của Luật hải quan về địa bàn hoạt động hải quan thì trong
phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh để chủ
động phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, chống
gian lận thương mại; và ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hoạt động hải quan nếu
cơ quan hữu quan phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì theo thẩm quyền, cơ
quan đó thực hiện việc kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, do có bao gồm cả các
vi phạm về chế độ quản lý xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, hành lý,

ngoại hối, vàng, tiền Việt Nam, kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hoá phẩm, bưu
13


phẩm, vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và các tài
sản khác (gọi chung là hàng hoá); các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
phương tiện vận tải, nên có liên quan đến nhiều văn bản Luật hoặc các quy định
chuyên ngành. Trong một số trường hợp, việc phân biệt rõ ràng giữa vi phạm hành
chính hải quan và vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác là tương đối khó
khăn. Chẳng hạn, phân biệt hành vi khai sai mã số, thuế suất, khai sai trị giá tính
thuế của hàng hóa vừa có thể xử phạt theo hành vi vi phạm hành chính hải quan,
vừa có thể xử phạt theo hành vi vi phạm Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tùy
theo cách xác định xem đã thuần túy là vi phạm hành chính hải quan hay có mục
đích trốn thuế... mà việc xác định này không phải khi nào cũng dễ dàng.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan.
1.2.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Như một tất yếu, khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật do cá nhân, tổ chức
thực hiện thì Nhà nước có những “phản ứng tự vệ”, tức là tiến hành áp dụng những
biện pháp, hình thức xử lý đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm nhằm
lập lại trật tự quản lý đã bị xâm hại bởi các hành vi đó. Những biện pháp, hình thức
xử lý của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật được pháp luật quy định
cụ thể. Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, để giữ vững trật tự, kỷ
cương trong lĩnh vực quản lý hải quan, giữ vững trật tự pháp luật và đấu tranh có
hiệu quả với những hành vi vi phạm hành chính nói chung và về hải quan nói
riêng, các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng bị xử phạt theo
quy định của pháp luật.
Công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thể hiện quyền
lực Nhà nước, thực hiện sự cưỡng chế đối với các chủ thể vi phạm pháp luật hải

quan. Công tác này mang tính nghiệp vụ tổng hợp, nhằm thực hiện đúng các
nguyên tắc trình tự theo luật định. Trong xử lý - tố tụng hành chính phải hiểu đầy
đủ các quy định pháp luật xuyên suốt trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, đồng
14


thời qua hoạt động này cũng tác động tích cực lại các khâu nghiệp vụ khác. Nhà
nước áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức có vi
phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính riêng biệt đối với từng
loại đối tượng là cá nhân có quá trình vi phạm pháp luật nhiều lần trong lĩnh vực
hải quan nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo Nghị định 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 thì xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan là việc áp dụng “hình thức xử phạt chính (cảnh
cáo; phạt tiền), hình thức xử phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi hành chính), các
biện pháp khắc phục hậu quả (buộc tiêu huỷ tang vật vi phạm là văn hoá phẩm độc
hại, hàng hoá gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng; buộc đưa ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, phương tiện vi phạm tại cửa
khẩu nhập; buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm đã tiêu
thụ, tẩu tán, tiêu huỷ trái với quy định của pháp luật) đối với hành vi vi phạm hành
chính” [5]. Việc áp dụng các hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp khắc phục
hậu quả khi xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào các văn bản quy phạm
pháp luật cụ thể (Luật Xử lý vi phạm hành chính của Quốc hội, Nghị định của
Chính phủ) quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
quản lý nhà nước.
Nghiên cứu những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan là vấn đề có ý nghĩa rất lớn, góp phần quan trọng trong
việc ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm hành chính, tăng cường
trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước về hải quan, khắc phục hậu quả do vi

phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan gây ra.
1.2.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Xuất phát từ bản chất của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan là áp dụng các chế tài hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan theo trình tự, thủ tục do pháp luật
15


quy định nên xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có một số đặc
điểm riêng, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan căn cứ
vào các văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan ban hành: Quốc hội ban
hành các Luật, Chính phủ ban hành các Nghị định, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban
hành các Thông tư hướng dẫn.
Các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thường hay
được sửa đổi, bổ sung do sự biến động và thay đổi thường xuyên, nhanh chóng của
thực tế quản lý nhà nước. Điều này dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo
giữa các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật. Cho nên, trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan nói riêng thì việc xác định và quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật về các hành vi vi phạm hành chính sao
cho đồng bộ thống nhất là một vấn đề nổi cộm đang được đặt ra, vì các nghị định
quy định về xử phạt vi phạm hành chính do nhiều cơ quan soạn thảo và thường ban
hành chậm, hay xảy ra tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.
Thứ hai, hoạt động áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập cảnh phương tiện vận tải có thể do
nhiều cơ quan, nhiều người có thẩm quyền thực hiện, ví dụ như Hải quan, lực
lượng Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường, một số thanh tra
chuyên ngành... Trong khi đó, vi phạm hành chính diễn ra phổ biến, hàng ngày,
hàng giờ trong đời sống xã hội dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Việc áp

dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành trực tiếp với người dân,
với các tổ chức và cũng trực tiếp động chạm đến các quyền tự do dân chủ của công
dân, do vậy công tác giám sát, kiểm tra rất khó thực hiện sâu sát và có hiệu quả.
Điều này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm và tính tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật cao
của nhân viên, công chức, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong
khi thực thi công vụ.

16


Hoạt động của cơ quan hải quan - người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính và áp dụng các biện pháp hành chính khác - phải bảo đảm phù hợp với
các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tổ
chức hoạt động, về chức năng nhiệm vụ của cơ quan hải quan và người có thẩm
quyền. Khi tiến hành các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm
quyền phải thực hiện mục đích, nội dung và yêu cầu của văn bản pháp luật cụ thể
quy định xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ ba, trong lĩnh vực hải quan, người có thẩm quyền xử phạt vi vi phạm
hành chính chỉ được thực hiện quyền xử phạt vi phạm hành chính của mình trong
phạm vi thẩm quyền đã được xác định. Những trường hợp ra quyết định xử phạt
hoặc quyết định áp dụng biện pháp hành chính khác vượt thẩm quyền quy định cho
phép là vi phạm pháp luật và phải bị xử lý.
Thứ tư, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ
Tài chính có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống vi
phạm pháp luật hành chính (bên cạnh Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc
hội ban hành theo thẩm quyền và các văn bản quy phạm pháp luật quy định hành vi
vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan do Chính

phủ ban hành).
1.2.2. Cơ sở pháp lý thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là một loại vi phạm pháp luật,
xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về hải quan và diễn ra phổ biến trong hoạt
động hải quan. Trong lĩnh vực hải quan, vi phạm pháp luật hải quan diễn ra ở hầu
hết các khâu nghiệp vụ của quá trình kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan. Vì
vậy, để giữ vững trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan,
giữ vững trật tự pháp luật và đấu tranh có hiệu quả đối với những hành vi vi phạm
17


hành chính nói chung và về hải quan nói riêng thì việc xử phạt các hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan là một điều tất yếu.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thể hiện quyền lực Nhà
nước, thực hiện sự cưỡng chế đối với các chủ thể vi phạm pháp luật hải quan góp
phần quan trọng trong việc ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm
hành chính, tăng cường trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước về hải quan, khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan gây ra.
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan dựa trên những cơ
sở pháp lý sau:
- Luật Hải quan năm 2014;
- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính;
- Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong
lĩnh vực hải quan;
- Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 của Chính phủ quy định
hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo

thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong
thời gian làm thủ tục trục xuất;
- Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định
về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
- Thông tư số 190/2013/TT-BTC ngày 12/12/2013 của Bộ Tài chính quy
định chi tiết thi hành Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính trong lĩnh vực hải quan;
- Thông tư số 173/2013/TT-BTC ngày 20/11/2013 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện một số nội dung về quản lý, xử lý tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính;
18


Trong lĩnh vực hải quan, do vi phạm hành chính được xác lập ở nhiều văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau, có thẩm quyền xử phạt của cơ quan hải quan
nên nguyên tắc ưu tiên áp dụng văn bản pháp luật được áp dụng thường xuyên
trong xử phạt, mặc dù nguyên tắc này không được quy định trong Luật Xử lý vi
phạm hành chính, cụ thể:
- Trong trường hợp Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan và văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
- Trường hợp Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
và các văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề, do cùng một cơ quan ban hành thì áp dụng văn bản được ban hành sau cùng.
- Trường hợp Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
hoặc văn bản quy phạm pháp luật liên quan mới được ban hành không quy định
trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi
xảy ra trước ngày văn bản mới có hiệu lực mà thời điểm phát hiện hành vi sau
ngày văn bản mới có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới theo hướng có lợi cho cá

nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan bản chất cũng giống
như xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, nên cùng chịu ảnh hưởng
của các yếu tố sau:
1.2.3.1. Chất lượng của pháp luật
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan với các nguyên tắc của nó đã thể hiện vị trí và vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình đổi
mới toàn diện mọi mặt đời sống xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
19


Nghiên cứu bản chất và nội dung của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan, những bảo đảm đối với pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính là để nhằm xác định những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc tăng cường và
hoàn thiện pháp luật hành chính, từ đó chúng ta có những biện pháp thích hợp để
tiến hành có hiệu quả trong giai đoạn phát triển hiện nay ở nước ta.
Để thực hiện việc củng cố, tăng cường pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan, cần phải có cơ sở pháp luật. Nhà nước phải có một hệ
thống pháp luật với đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan
hệ xã hội và để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Không có một hệ
thống pháp luật toàn diện, đầy đủ, ổn định và có tính khả thi cao thì không thể có
sự nghiêm minh của pháp luật. Nhưng nếu mặc dù đã có hệ thống pháp luật tương
đối đầy đủ mà chất lượng không cao, có nhiều mâu thuẫn chồng chéo hoặc đã lạc
hậu, không còn phù hợp, thì pháp luật cũng không thể duy trì và bảo đảm với chất
lượng cao do việc thi hành và tổ chức thi hành pháp luật sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp

từ thực trạng hệ thống pháp luật như vậy. Để cho hệ thống pháp luật được xây
dựng và hoàn thiện có chất lượng thì vấn đề đặt ra là phải thiết lập một cơ chế xây
dựng pháp luật có hiệu quả.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng lớn đến pháp luật là vấn đề tổ chức thực
hiện pháp luật. Thực tế đã chứng tỏ rằng, có một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy
đủ và chất lượng cao là vô cùng cần thiết nhưng yếu tố đó chưa đủ để tạo nên một
nền luật pháp có chất lượng, hiệu quả như mong đợi vì bản thân hệ thống pháp luật
đó chỉ nằm trên giấy nếu không được tổ chức thực hiện hiệu quả trong thực tiễn.
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò và ý nghĩa to lớn, là khâu quan
trọng bậc nhất để tăng cường và hoàn thiện pháp luật bởi đó chính là khâu đưa
pháp luật vào đời sống xã hội, là một khâu biến các quy phạm pháp luật trở thành
yếu tố vật chất tác động vào thực tế đời sống nhằm bảo đảm cho pháp luật được
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Chính vì vậy, hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ tuân thủ pháp luật trong xã hội.
20


Để việc tổ chức thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao thì hoạt động tuyên
truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân là hết
sức quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước, các cấp, các
ngành cần thường xuyên kiện toàn, củng cố các tổ chức pháp chế để tạo điều kiện
nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Ngoài ra, cần bảo đảm cho tất cả
các quy định của pháp luật về các nghĩa vụ pháp lý phải được thực hiện nghiêm
túc. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật phải thực
hiện quyền áp dụng pháp luật của mình trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn được
pháp luật quy định. Tất cả các biểu hiện của sự lạm quyền, trốn tránh trách nhiệm
hoặc sách nhiễu trong hoạt động áp dụng pháp luật phải bị xử lý nghiêm khắc.
1.2.3.3. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý
nghiêm minh những vi phạm pháp luật

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm minh những vi
phạm pháp luật là hoạt động không thể thiếu nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của
luật pháp. Chất lượng hoạt động của công tác này ảnh hưởng lớn đến tình trạng
thực thi pháp luật.
Trước tiên, có thể nói kiểm tra, giám sát nhằm mục đích uốn nắn, chấn chỉnh
hoạt động chấp hành và thực thi pháp luật, kịp thời có những biện pháp để bảo đảm
cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, chính xác trong thực tế. Bên cạnh đó,
kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật còn để kịp thời phát hiện những vi phạm
pháp luật để xử lý nghiêm minh, bảo đảm nguyên tắc: mọi vi phạm pháp luật phải
được phát hiện và xử lý kịp thời; thực hiện mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Nếu công tác này không được chú trọng thường xuyên, không được tổ chức
và tiến hành có hiệu quả thì vai trò của pháp luật sẽ bị suy giảm, tình trạng coi
thường tính nghiêm minh của pháp luật sẽ diễn ra ngày càng nhiều, các hiện tượng
tiêu cực như tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vô trách nhiệm, cửa quyền và nhiều
vi phạm pháp luật khác sẽ nảy sinh do không được uốn nắn, xử lý kịp thời. Hậu
quả là người dân sẽ giảm dần niềm tin vào sự công bằng, vào tính nghiêm minh

21


×