Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn hóa học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.8 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hóa Học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Hóa Học được vận dụng
rất nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó
Có liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội- môi trường như: Sản xuất lương
thực, thực phẩm, may mặc, sức khỏe, vật liệu, an ninh, quốc phòng,… Đặc biệt,
có khả năng phát huy sự hiểu biết của học sinh đối với thế giới bên ngoài nếu
giáo viên biết khai thác, lồng ghép, tích hợp liên hệ các câu hỏi, bài tập thực tiễn
vào trong quá trình dạy và học. Trong phương châm giáo dục hiện nay, trước hết
tạo điều kiện cho học sinh việc “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với
thực tế”; tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng cho
các em thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng
tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, tự thu thập thông tin và phân
tích thông tin, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Giúp cho các em có nhiều hiểu
biết về tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống con
người, đặc biệt là đối với môi trường. Từ đó, giáo dục cho các em ý thức bảo vệ
môi trường.
Trong những năm gần đây, vấn đề liên hệ trong thực tiễn vào bài giảng đã
có áp dụng, song ít được mọi người quan tâm. Phần vì giáo viên chưa chịu khó
sưu tầm các hiện tượng bên ngoài thực tế, phần vì do thời gian tiết dạy có hạn
(45 phút). Nên phần lớn giáo viên tập trung đi sâu vào phần nội dung lý thuyết
của bài, thời gian dành cho việc liên hệ vào thực tế còn hạn chế. Do đó, học sinh
chỉ lĩnh hội kiến thức suông, không biết vận dụng những kiến thức đã học để
giải thích một số hiện tượng thực tiễn trong đời sống, sản xuất; hoặc chỉ vận
dụng một cách máy móc. Chính vì thế, trong quá trình học tập học sinh dễ bị
nhàm chán, khô khan, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của bộ môn.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học đã nhiều năm, tôi thực sự trăn
trở về điều này và tôi thấy rằng, ngoài việc phát huy tốt các phương pháp giảng
dạy tích cực thì vấn đề quan trọng không thể thiếu được đó là: Cần khai thác
thêm các hiên tượng hóa học trong thực tiễn đưa vào bài giảng, nhằm phát huy
tính tích cực, sáng tạo, tự tin, tạo ra niềm vui, hứng thú trong học tập. Với lí do


trên, tôi dã tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo tài liệu và áp dụng với đề tài: “ Tích
hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 ”
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh xây dựng hệ thống
một số hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào các bài giảng trong chương trình
Hóa Học 9, giúp các em giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc
mê tín, dị đoan, góp phần nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn hóa học.
Đồng thời đề tài cũng làm rõ ý nghĩa khoa học hóa học có thể ứng dụng thực
tiễn trong đời sống hàng ngày, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú
trong môn học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong tình hình
đất nước hiện nay.


1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các hiện tượng hóa học diễn ra trong thực tiễn
liên quan đến chương trình lớp 9, được kiểm chứng qua 2 năm học ở trường
THCS Hoằng Phúc
Cụ thể: Năm học 2014-2015: Lớp 9 có 30 học sinh
Năm học 2015-2016: Lớp 9 có 30 học sinh
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
+ Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản về đổi mới chương trình, phương
pháp dạy học
+ Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cực
của bộ môn Hóa Học
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Quan sát, điều tra, khảo sát, phỏng vấn
+ Qua thực trạng dạy học Hóa 9 ở trường THCS Hoằng Phúc
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coi
là chiến lược của dân tộc mình. Vì thế trong đại hội Đảng lần IX, Đảng ta ghi rõ:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân tộc, một quốc gia phải
nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó.
Ở nước ta, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học giáo dục được đổi mới
mạnh mẽ theo bốn trụ cột đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng
định mình, học để cùng chung sống.
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát
triển như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành
giáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh
mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa
mang tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng
hướng thiện khoa học.
Bộ môn hoá học trong trường THCS giữ một vai trò quan trọng trong việc
hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho
học sinh hiểu đúng đắn, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế
giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... Học Hoá để hiểu, giải
thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử,
sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học...
Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng
phục vụ trong đời sống của con người. Kiến thức Hóa Học góp phần giải tỏa,
xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người.
Mặt khác, làm cho các em thấy được đây là môn học rất gần gũi với các em.


2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, môn Hóa Học là một trong những môn học
mới, lạ đối với học sinh THCS. Ngay từ đầu, đòi hỏi học sinh có sự tưởng tượng

vào thế giới vi mô, thế giới những hạt vô cùng nhỏ, đó là: phân tử, nguyên tử,…
Vì vậy, nếu không có những bài giảng và phương pháp phù hợp thì dễ làm cho
học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận kiến thức. Đã có hiện tượng một
số học sinh không muốn học, ngày càng xa rời với giá trị thực tiễn của Hóa Học.
Trước đây, khi chưa thay sách giáo khoa, chưa đổi mới phương pháp dạy
học, người dạy thực hiện phương pháp dạy học “Thuyết trình kết hợp với đàm
thoại”. Nhưng thực chất là “Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận ghi nhớ” là chủ yếu,.
Dạy học theo kiểu áp đặt, nhồi nhét, lý thuyết suông… Nhiều giáo viên chưa
quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, còn sử dụng đồng loạt một cách dạy,
một bài giảng cho nhiều thế hệ, nhiều lớp khác nhau. Với lối dạy đó không thể
thực hiện được mục tiêu của ngành giáo dục đề ra. Đồng thời, không thể đáp
ứng được yêu cầu của xã hội trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Trong thực tế cuộc sống hàng ngày nhiều hiện tượng nhiên, nhiều vấn đề xã
hội diễn ra xung quanh chúng ta cần phải được học sinh vận dụng kiến thức
khoa học liên môn mới giải quyết được; nó liên quan đến hóa học, vật lý, sinh
học, địa lý vv…. Lâu nay việc sưu tầm các hiện tượng, vấn đề đó đang còn xem
nhẹ dẫn đến học sinh hiểu vấn đề một cách phiến diện hoặc giải quyết không
thỏa mãn triệt để.
Thực trạng ở trường THCS Hoằng Phúc: số học sinh ít, số giáo viên bộ
môn biên chế ít nên rất khó khăn trong việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy; chỉ
mới có phòng học bộ môn chung môn sinh học, chưa có phòng thực hành riêng
cho bộ môn, cơ sở vật chất chưa đủ (một số hóa chất còn thiếu hoặc có nhưng đã
bị biến chất…; chưa có giáo viên chuyên trách thí nghiệm nên rất vất vả cho
giáo viên bộ môn trong quá trình chuẩn bị đồ dùng, thí nghiệm dạy học. Mặt
khác, là địa phương thuần nông nên kinh tế gia đình của học sinh còn nhiều khó
khăn, do đó việc mua sắm tài liệu còn hạn chế, thậm chí sách giáo khoa còn
không đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. Bản
thân học sinh lại chưa nắm vững vai trò bộ môn, cũng như chưa có định hướng
nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập bộ môn chưa cao, đang còn xem

nhẹ bộ môn.
Đặc biệt, qua các kỳ thi khảo sát chất lượng học kỳ, thi học sinh giỏi các
cấp thì vấn đề liên hệ thực tế có liên quan đến kiến thức Hóa Học ít được chú ý.
Chính vì vậy, giáo viên bộ môn ít quan tâm đến vấn đề “Tích hợp các hiện
tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng” để hướng dẫn học sinh vận
dụng.
Kết quả khảo sát chất lượng môn hóa học học sinh lớp 9 đầu năm học trước khi
thực hiện đề tài:


Giỏi
Năm học

TB

Yếu

Kém

Lớp
SL

2015-2016

Khá

9(30)

2


%
6,7

S
L
5

%
16,7

SL
13

%
43,3

SL
7

%

S
L
23,3 3

%
10

2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Các giải pháp:

Để thực hiện tốt được vấn đề “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong
thực tiễn vào bài giảng Hóa Học 9 ” đòi hỏi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ
bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm; tìm hiểu, tham khảo các vấn đề
thực tế có liên quan đến bài học, hình thành bài giảng theo hướng phát huy tích
cực, chủ động của học sinh. Song phải mang tính chất hợp lý, hài hòa, đôi lúc có
khôi hài nhưng vẫn đảm bảo được mục đích, tiêu chí, nội dung của bài dạy. Tuy
nhiên, thời gian dành cho vấn đề này không nhiều (ví như thứ gia vị trong đời
sống, không thể thay thế cho thức ăn, nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn
uống)
Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã sử dụng các hiện tượng hóa học
trong thực tiễn vào bài giảng bằng cách:
1/ Đặt tình huống vào bài mới:
Tiết dạy có gây được sự chú ý của học sinh hay không phụ thuộc vào người
dạy rất nhiều. Trong đó, phần mở đầu đặc biệt quan trọng. Nếu ta biết đặt ra một
tình huống thực tiễn yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽ
tạo được sự chú ý, cuốn hút học sinh trong quá trình học tập.
2/ Sử dụng trong giảng dạy bài mới :
Trong các giờ giảng bài mới, giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương
pháp khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất
là hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.
Phương pháp Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức
hóa học với kiến thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một
thể thống nhất.
Ví dụ: Khi giảng bài về “Các oxit của cacbon”, bên cạnh giảng về vai trò làm
chất khử của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện kim, giáo
viên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ độc của CO, triệu chứng bị
ngộ độc. Các nguồn sinh ra CO thường có trong cuộc sống để phòng tránh. Hoặc
khi giảng về khí CO2, song song với việc giảng về vai trò của CO 2 đối với quá
trình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo viên phải đề cập đến vấn đề gây
“hiệu ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học sinh nên trồng cây xanh, bảo vệ

rừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.
Phương pháp Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt
cấu trúc để có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội
dung liên quan đến thực tiễn, hoặc những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,


gây cười có thể đan xen vào tiết học. Cách này có thể tạo không khí học tập
thoải mái, kích thích niềm đam mê hứng thú bộ môn.
3/ Nêu hiện tượng thực tiễn thông qua các bài tập tính toán: nhằm giúp học
sinh lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích, hiểu được bài toán yêu cầu
gì và giải quyết như thế nào? Từ đó hiểu được cách tiết kiệm nguyên liệu, sử
dụng nguyên liệu đúng cách…
4/ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường ngày sau khi đã
kết thúc bài học: Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào kiến
thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện
tượng đó. Học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi “ vì sao lại có hiện tượng đó”? Tạo
tiền đề thuận lợi cho khi học bài mới tiếp theo.
5/ Hướng dẫn tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn ở gia đình,
địa phương,… sau khi đã học, tìm hiểu, nghiên cứu qua một nội dung, một vấn
đề hóa học trong bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thề làm cho học sinh căn cứ
vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua
các thí nghiệm trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa
học vào đời sống thực tiễn.
6/ Lồng ghép, tích hợp vấn đề môi trường trong bài dạy:
Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,…đang được con người nhắc đến
rất nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày các hiện tượng thường xuyên bắt gặp như:
nước thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng gà,…; khói bụi của các lò gạch,
nhà máy xay lúa, các cánh đồng sau thu hoạch,…có liên quan gì đến những diễn
biến bất thường của thời tiết hiện nay không? Giáo viên dạy học bộ môn Hóa có
thể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của

một số chất,… Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn phải giáo
dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực
trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi với
học sinh.
Ví dụ: Khi giảng về độ pH của dung dịch ta có thể hỏi học sinh “Vì sao
chúng ta lại bị sâu răng? Đặc biệt là khi ăn các thức ăn ngọt?” Hay khi dạy về sự
thủy phân của các muối giáo viên có thể đặt câu hỏi “Vì sao phèn chua lại có thể
làm trong nước”, “ tại sao NH4HCO3 được dùng làm bột nở ?”….Giáo viên có
thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng các kiến thức trong bài để giải quyết vấn
đề đặt ra và bổ sung thêm cho học sinh những kiến thức có liên quan đến vấn đề
đó nhưng không nằm trong phạm vi kiến thức hóa học như vấn đề bảo vệ môi
trường, bảo vệ sức khỏe,….
7/ Tích hợp trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:
Trong giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực
tiễn mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tập
để giải quyết những kiến thức thực tiễn có liên quan.
Ví dụ: Khi dạy phần luyện tập về Clo, có thể đưa ra bài tập sau: Trong
phòng thí nghiệm (hoặc nhà máy sản xuất giấy) khi bị ngộ độc Clo người ta sơ
cứu bằng cách cho nạn nhân ngửi khí nào?


A. H2
B. NH3
C. O2
D. N2
8/ Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ hóa học, các
buổi ngoại khóa về hóa học, các cuộc thi hóa học vui,…. nhằm tạo điều kiện cho
học sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng thú
và say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình thành

cho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện tượng trong
cuộc sống và phải tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó.
*CỤ THỂ MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA:
Hệ thống các hiện tượng hóa học trong thực tiễn tích hợp vào bài giảng
Hóa học 9
CHƯƠNG I: Các hợp chất vô cơ
Hiện tượng1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù
mịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm
cho tính mạng của người và động vật.
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
CaO + H2O → Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo
cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra
nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố
vôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một số
Oxit quan trọng
Hiện tượng2: “Mưa axit” là gì ? Tác hại của nó như thế nào ?
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong
(ôtô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2
và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà
máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa
axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài
làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là
CaCO3):

CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Ngày nay, hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những
hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề
ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất
chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao


ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên liên hệ tích
hợp môi trường trong Bài 2: Một số Oxit quan trọng, ý thứ 2 có thể liên hệ khi
học bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat.
Hiện tượng 3: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Giải thích: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ
dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3
dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có
trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl 
→ NaCl + CO2 + H2O
Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài 2: Một số axit quan trọng
hoặc bài 29: Muối Cacbonat
Hiện tượng 4: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (hay một số con khác) có
axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm
ta đỡ đau.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
bazơ ở Bài 7: Tính chất hóa học của Bazơ
Hiện tượng 5: Tại sao ăn trầu phải có đủ cau, trầu và vôi, nhất là không thể
thiếu vôi ?
Giải thích: Trong lá trầu có chứa tinh dầu, trong hạt cau có chứa một chất

gọi là arecolin, chất này có tính độc. Không có vôi miếng trầu không thể chuyển
sang màu đỏ, vôi là chất kiềm khi tác dụng với arecolin làm chất này chuyển
thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt
hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn làm sạch miệng, làm chặt
chân răng.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ sức khỏe ở Bài 8:
Một số Bazơ quan trọng
Hiện tượng 6: Bột nở là chất gì mà có thể làm cho bánh to ra và xốp được ?
Giải thích: (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm bột mì
hoặc các bột khác, lúc nướng bánh (NH 4)2CO3 phân hủy thành các chất khí và
hơi làm cho bánh xốp và nở.
t
(NH4)2CO3 
→ 2NH3 ↑ + CO2 ↑ + H2O ↑
Giáo viên có thể tích hợp vào Bài 9: Tính chất hóa học của muối
Hiện tượng7: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thấy xuất
hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào ?
Giải thích: Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là
nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá
học:
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 sinh ra đóng cặn.
0


Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH 3COOH 5%) và rượu,
đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau
mạnh là sạch.
Giáo viên có thể tích hợp vào trong bài 9:Tính chất hóa học của muối

( hay bài 29: Muối các bonat). Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng
góp phần cho học sinh hiểu bản chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học
sinh có thể ứng dụng trong gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là
một thí nghiệm tự làm được.
Hiện tượng 8: Ca dao Việt Nam có câu:
“Lúa chim lấp ló ngoài bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu ca dao đó mang ý nghĩa hóa học gì ?
Giải thích: Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đồng mà có
trận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ?
Do trong không khí có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp (tia lửa
điện) thì:
Sau đó: 2NO + O2 → 2NO2
Khí NO2 hòa tan trong nước: 4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3
HNO3 hòa tan trong đất được trung hòa bởi một số muối tạo muối nitrat
cung cấp Nitơ cho cây.
Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đất
được cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ.
Đây là một câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đời
sống, quả là một kinh nghiệm được ông cha ta rút ra qua những tháng năm canh
tác nông nghiệp. Học sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thích
được một cách khoa học về vấn đề trên. Giáo viên có thể đề cập trong bài 11:
Phân bón hóa học
Hệ thống các hiện tượng tích hợp trong những bài giảng
CHƯƠNG II: Kim loại
Hiện tượng1: Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm ?
Giải thích: Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng
khí H2S tương đối cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng
Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H 2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể
giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:

4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O
(đen)
Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến
tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọi
người cần phải biết. Giáo viên có thể tích hợp hiện tượng trên khi dạy phần
Tính chất của kim loại.
Hiện tượng 2: Tại sao khi đánh phèn chua vào nước thì nước lại trở nên
trong ?


Giải thích: Công thức hóa học của phèn chua là muối sunfat kép của
nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm 24 phân tử nước: K 2SO4.Al2(SO4)3.24H2O.
Do khi đánh phèn trong nước phèn tan ra tạo kết tủa Al(OH) 3, chính kết tủa keo
này đã dính kết các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành các hạt đất to hơn,
nặng và chìm xuống làm nước trong. Nên trong dân gian có câu:
“ Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước
trong dùng cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn
gọi là minh phàn ( minh là trong trắng, phàn là phèn).
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên tích hợp cho phần liên hệ thực tế trong
bài 18: Nhôm.
Hiện tượng 3: Xung quanh các nhà máy sản xuất gang, thép, phân lân, gạch
ngói,…cây cối thường ít xanh tươi, nguồn nước bị ô nhiễm. Điều đó giải
thích như thế nào ?
Giải thích: Việc gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí là do
nguồn chất thải dưới dạng khí thải, nước thải, chất rắn thải…
- Những chất thải này có thể dưới dạng khí độc như: SO 2, H2S, CO2, CO,
HCl, Cl2…có thể tác dụng trực tiếp hoặc là nguyên nhân gây mưa axit làm hại
cho cây.

- Nguồn nước thải có chứa kim loại nặng, các gốc nitrat, clorua, sunfat… sẽ
có hại đối với sinh vật sống trong nước và thực vật.
- Những chất thải rắn như xỉ than và một số chất hóa học sẽ làm cho đất bị
ô nhiễm, không thuận lợi cho sự phát triển của cây.
Do đó để bảo vệ môi trường các nhà máy cần được xậy dựng theo chu trình
khép kín, đảm bảo khử được phần lớn chất độc hại trước khi thải ra môi trường.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi này khi dạy xong phần sản xuất gang, thép để
tích hợp vấn đề bảo vệ môi trường, giúp học sinh ý thức được việc bảo vệ môi
trường ở bài 20: Hợp kim Sắt, Gang, Thép.
Hệ thống các hiện tượng tích hợp trong những bài giảng
CHƯƠNG III: Phi kim
Hiện tượng1: “Ma trơi” là gì? “Ma trơi” thường gặp ở đâu?
Giải thích: “Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể
(xương động vật) có chứa một hàm lượng Phốtpho khi chết phân huỷ tạo 1
phần thành khí PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Điphotphin), khí
PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong
không khí.
2H 4
2PH3 + 4O2 P
→ P2O5 + 3H2O
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa
địa càng tăng nên tính chất kịch tính.
Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về Phốtpho để giải thích hiện
tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc
sống lành mạnh. Giáo viên có thể tích hợp trong bài 25: Tính chất của phi kim


Hiện tượng 2: Tại sao nước máy lại có mùi khí clo ? Vì sao không dùng
nước máy để tưới cây cảnh?
Giải thích: Trong hệ thống nước máy, người ta cho vào một lượng nhỏ

khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần
tác dụng với nước:
Cl2 + H2O 
→ HCl + HClO
Axit hipoclorơ (HClO) sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng
khử trùng, sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra do đó
khi ta sử dụng nước ngửi thấy mùi clo.
Khi dùng nước máy tưới cây cảnh thì trên lá cây xuất hiện những đốm
trắng và làm rụng lá vì chất diệp lục trên lá bị oxi hóa bởi lượng HClO trong
nước máy, vì vậy không nên dùng nước máy để tưới cây.
Giải thích được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng
dụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có thể kiểm nghiệm thật dể dàng.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng
dụng của clo trong bài 26: Clo
Hiện tượng 3: Tại sao khi cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơm
một mẫu than củi ?
Giải thích: Do than củi xốp, có tính hấp phụ nên hấp phụ hơi khét của
cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài 27:
Cacbon
Hiện tượng 4: Vì sao khi mở chai nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát
ra ?
Giải thích: Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có
thêm khí cacbonic CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực
lớn để ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu
được nước ngọt.
Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức bay vào
không khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa hè
người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh.
Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí

CO2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát
ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta
có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ
dày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai bia
thì chắc hẳn học sinh nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và có
công dụng ra sao, tại sao người ta đưa khí đó vào bình được ? thì học sinh không
biết được. Để giúp học sinh hiểu về vấn đề này giáo viên có thể tích hợp khi dạy
bài 28: Oxit của cacbon
Hiện tượng 5: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa hóa học gì?


Giải thích: Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi gặp
nước mưa và khí CO2 trong không khí tạo thành môi trường axit nên làm tan
được đá vôi theo PTHH: CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2
Ca(HCO3)2 tan trong nước, chảy qua khe đá vào trong hang động, khi giọt
nước nhỏ từ từ Ca( HCO3)2 lại chuyển hóa thành CaCO3:
Ca(HCO3)2 → CaCO3 + CO2 ↑ + H2O
Như vậy lớp CaCO3 dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những
hình thù đa dạng như các hang, động...
Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá vôi, cụ thể là
động Phong Nha Kẽ Bàng (Quảng Bình), động Hương Tích ( Chùa Hương)…
Học sinh sẽ biết được quá trình hình thành các hang động với những hình dạng
phong phú là do thiên nhiên kiến tạo dựa trên các quá trình biến đổi hóa học.
Dựa vào tính chất của Canxi cacbonat giáo viên có thể tích hợp vấn đề trên ở bài
29: Axit Canonic và Muối Cacbonnat
Hiện tượng6: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
Giải thích: Muốn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng
chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ…cần khắc nhờ lớp sáp (nến)
mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo

đi lớp sáp do có phản ứng:
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Nếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bột
CaF2 (màu trắng). Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng
vật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2
vào chổ cần khắc, cho thêm H 2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng
đặt lên trên khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn những
nơi cạo lớp sáp.
Do:
CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh và sản
xuất thuỷ tinh. Nó không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thủy
tinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi gặp
vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê
học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo
viên có thể nêu vấn đề trên để dẫn dắt vào bài giảng bài 30: Silic – Công
nghiệp Siliccat
Hiện tượng 7: Kho quặng lớn nhất thế giới chứa hầu hết các nguyên tố hóa
học nằm ở đâu ?
Giải thích: Nằm ở đại dương ( nước biển) vì nước biển bay hơi liên tục,
trở lại dưới dạng mưa và mang theo chất tan. Nước chảy càng xa mới đến biển
sẽ càng hòa tan nhiều muối. Nước chảy từ những vùng khác nhau thì mang theo
những nguyên tố khác nhau đổ ra biển.


Giáo viên có thể tích hợp Bài 31: Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyên
tố hóa học
Hệ thống các hiệntượng hóa học tích hợp trong những bài giảng
CHƯƠNG IV: Hiđro cacbon và nhiên liệu

Hiện tượng1: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)?
Giải thích: Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi
các vật thể này thối rữa (hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ) sinh ra khí
metan. Người ta ước chừng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm
là từ các hoạt động cày cấy.
Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn nuôi heo
tạo khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy
Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về môi
trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên tích hợp vấn đề này vào
trong phần liên hệ thực tế bài 36: Metan
Hiện tượng2: Làm cách nào để quả mau chín ?
Giải thích: Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả
xanh thì toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy ?
Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên
cứu quá trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một
lượng nhỏ khí etilen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế
bào trái cây và làm cho quả mau chín.
Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm chậm quá trình chín của trái
cây bằng cách làm giảm nồng độ etilen do trái cây sinh ra. Điều này đã được sử
dụng để bảo quản trái cây không bị chín nẫu khi vận chuyển xa. Ngược lại khi
cần cho quả mao chín, người ta thêm etilen vào kích thích quá trình hô hấp của
tế bào trái cây.
Ngày nay người ta dùng khí đó cho vào thùng trái cây để làm trái cây mau
chín vì khi có hơi nước khí đó tác dụng trong môi trường ẩm sinh ra etilen làm
trái cây mau chín.
Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai cũng biết
giải thích được. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế trong
phần ứng dụng của etilen ở bài 37: Etylen
Hiện tượng3: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ?
Giải thích: Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC 2, khi tác

dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit:
CaC2 + 2H2O → C2H2 + Ca(OH)2
Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra anđehit axetic, chính chất này làm tổn
thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết
Giáo viên dùng hiện tượng này mở rộng cho phần điều chế axetilen nhằm
củng cố lại tính chất của axetilen qua bài 38: Axetilen
Hiện tượng 4: Vì sao lại không dùng xăng pha chì nữa?
Giải thích: Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30%
xăng dầu khi sử dụng. Nhưng khí cháy trong động cơ, chì oxit bám vào các ống


xả, thành xi lanh nên thực tế xăng còn hoà tan thêm vào Đibrom etan thì chì
oxit sẽ bị chuyển thành Chì bromua (PbBr 2), dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh,
ống xả, thải vào không khí làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Vì chì sẽ ở trong môi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên khi
tiếp xúc với khí thải, động thực vật bị bệnh sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ con người. Ngoài ra hơi Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp,
làm bỏng da. Hiện nay, nước ta đã không sử dụng xăng pha chì.
Nên thông qua bài học, giáo viên có thể làm rõ qua nội dung bài 40: Dầu mỏ
và khí thiên nhiên
Hệ thống các hiện tượng hóa học tích hợp trong những bài giảng
CHƯƠNG V: Dẫn xuất của Hiđro cacbon. Polime
Hiện tượng1: Tại sao rượu giả có thể gây chết người ?
Giải thích: Để thu được nhiều rượu (rượu etylic) người ta thêm nước vào
pha loãng ra , vì vậy rượu nhạt đi người uống sẽ không thích. Nên họ pha thêm
một ít rượu metylic làm nồng độ rượu tăng lên. Chính rượu metylic gây ngộ độc,
nó tác động vào hệ thần kinh và nhãn cầu, làm rối loạn chức năng đồng hóa của
cơ thể gây nên sự nhiễm độc axit.
Đây là các câu hỏi nhằm kích thích tính tò mò của học sinh. Học sinh
không lạ gì với các hiện tượng trên nhưng để giải thích thì không phải dễ. Giáo

viên có thể nêu vấn đề trên khi dạy xong bài 44: Rượu Etylic
Hiện tượng2: Cách làm xà phòng bánh ra sao?
Thông thường thí nghiệm xà phòng hóa ít thành công (chỉ thu được váng xà
phòng). Sau đây là cách làm để thu được bánh xà phòng:
Cho dầu ăn và mở bò vào chén sứ, đun trên ngọn lửa đèn cồn.
Từ từ cho dung dịch NaOH đã pha sẵn vào dầu ăn, khuấy đều đến khi hỗn hợp
này hòa đều với nhau (như hồ tinh bột).
Đổ hỗn hợp ra khuôn ta sẽ thu được xà phòng bánh.
Với vấn đề trên, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hóa học trong đời sống, tạo
sự hưng phấn trong học tập, giao viên có thể tích hợp qua bài 47: Chất béo
Hiệng tượng 3: Gương soi có lịch sử như thế nào?
Giải thích: Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến
thời đồ đồng thau thì gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển
sang thủy ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thủy ngân gây ngộ độc cho
người sản xuất.
Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng tráng bạc sau tấm kính nhờ
phản ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3 /NH3
R-CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R-COONH4 + 2Ag + NH4NO3
hay thay andehit bằng glucozơ
C6H12O6 + Ag2O NH

3→ C6H12O7 + 2Ag
Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một
lớp sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.


Đây là một ứng dụng thực tế trong đời sống cần tích hợp để học sinh hiểu
phần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng bắt gặp. Giáo viên
có thể vận dụng vào bài 50: Glucozo
Hiện tượng 4: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?

Giải thích: Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá
trình quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.

→ (C H O ) + 6nO
6nCO2 + 5nH2O clorophin
6 10 5 n
2
Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ
có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho phòng
thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2
Giáo viên có thể tích hợp vấn đề này vào bài 52: Tinh bột
Hiện tượng 5:Vì sao “chảo không dính” khi chiên thức ăn?
Giải thích: Thực ra, mặt trong của chảo chống dính người ta có trải một lớp
hợp chất cao phân tử: Đó là Politetra floetilen được tôn là “vua chất dẻo”thường
gọi là “teflon”chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc.
Nhưng cần lưu ý ở nhiệt độ trên 2500C lớp chống dính bắt đầu phân hủy và thoát
ra chất độc. Khi rửa chảo chống dính không nên chà sát bằng đồ vật cứng vì có
thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
Giáo viên có thể tích hợp vấn đề này khi dạy Bài 54: Polime.
MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGOẠI KHÓA CÓ THỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINH
THỰC HIỆN Ở NHÀ
Đề tài 1: Thử tính axit của quả chanh
Lấy 1 cánh hoa râm bụt chà mạnh trên tờ giấy trắng và để yên khoảng 10
giây, giúp tạo ra giấy quỳ tím nhân tạo.
Sau đó nhỏ 1-2 giọt nước cốt quả chanh tươi vào mảnh giấy quỳ tím trên.
Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.
Đề tài 2: Thử tính bazơ của dung dịch bột xà phòng giặt
Lấy 1 cánh hoa râm bụt chà mạnh trên tờ giấy trắng và để yên khoảng 10
giây giúp tạo ra giấy quỳ tím nhân tạo.
Sau đó nhỏ 1-2 giọt dung dịch bột xà phòng giặt vào mảnh giấy quỳ tím trên.

Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.
Đề tài 3: Thử tính hấp phụ của than gỗ
Vùi 1 mẫu to than sạch vào nồi cơm bị khê (khét). Sau khoảng 30 phút mở
nắp nồi cơm.
Hãy quan sát, ghi chép kết quả thí nghiệm và giải thích.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Trong quá trình dạy học bộ môn Hóa Học tại trường THCS Hoằng Phúc,
tôi đã và đang tiến hành các biện pháp trên để rèn luyện và phát triển kỹ năng
vận dụng kiến thức Hóa Học vào thực tiễn cho học sinh. Bản thân tôi nhờ vận
dụng dạy “tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng Hóa
Học 9” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả
nhất định, đó là:


Tôi thấy học sinh tích cực hơn trong việc học tập. Số học sinh yếu lúc đầu lơ
là, thụ động trong việc tìm kiếm kiến thức, nhưng bây giờ đã có thể góp sức
mình vào hoạt động tìm ra kết quả. Từ đó, các em thấy tự tin hơn, mạnh dạn
phát biểu xây dựng bài. Vì vậy, không khí lớp học sôi nổi hơn, học sinh hứng
thú học tập bộ môn hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cả
những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thực tế, rồi lại đến
hỏi tôi.
Có thể nói, kiến thức hóa học đã giúp các em giải thích được các hiện
tượng trong tự nhiên, tránh mê tín dị đoan. Thậm chí hiểu được những dụng ý
của khoa học trong những câu ca dao, tục ngữ mà thế hệ trước đã để lại. Và có
thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống chỉ bằng những kiến thức được học,
không gây nhàm chán, xa lạ lại trái lại có tác dụng kích thích học sinh chủ động
sáng tạo, hứng thú trong môn học, làm cho bộ môn Hóa Học không khô khan,
bớt đi tính đặc thù và phức tạp.
Kết quả đối chứng:
Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp

dụng liên hệ thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt.
* Kết quả giảng dạy ở trường của năm học 2014- 2015; 2015- 2016 tôi đã
có số liệu cụ thể trong bảng sau:
Lớp
Mức độ áp
9
dụng đề tài
2014- Không áp dụng
2015 hoặc ít áp dụng
2015Áp dụng
2016 thường xuyên

Không khí
học tập
Ít sôi nổi, lớp
học trầm
Sôi nổi, hăng
say phát biểu

Giỏi
10%
16,7%

Kết quả học tập
Khá
TB
Yếu

16,7% 43,3% 23,3% 6,7%
30%


43,3%

10%

* Kết quả giảng dạy năm 2015-2016:
Lớp 9
(30 HS)

Giỏi
20,0%

Kết quả học tập
Khá
TB
43,3%
36,7%

Yếu
0%

* Chất lượng bồi dưỡng đội tuyển trong những năm gần đây:
Năm học
2011 – 2012
2014 – 2015
2015 – 2016

Đạt giải
1 giải ba, 1 giải KK
1 giải KK

1 giải nhì, 1 giải ba

Kém

Đồng đội
Xếp thứ 11/49
Xếp thứ 15/43
Xếp thứ 3/43

0%


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trên đây, là một số giải pháp mà tôi đã tích lũy được về việc tích hợp các
hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 tại trường
THCS Hoằng Phúc. Có được giải pháp này là do bản thân tôi đã nghiên cứu tài
liệu, áp dụng chuyên đề, dự giờ thăm lớp, và tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp. Những giải pháp trên đã và đang được thực hiện nhằm nâng cao chất
lượng bộ môn. Giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức trong bài học vào thực tế
cuộc sống, học sinh dễ nhớ kiến thức và khắc sâu được kiến thức.
Như vậy, đổi mới dạy và học hiện nay là tạo cho học sinh hướng tới học
tập chủ động, tích cực, tự tìm tòi, chống thói quen học tập thụ động. Các phương
pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động nhận thức
của người học phải gắn liền với giá trị thực tiễn của nội dung bài học. Đó là nhu
cầu cũng là xu hướng của giáo dục thời kỳ hội nhập.
- Tuy nhiên áp dụng các hiện tượng thực tiễn phải biết lựa chọn đúng nội dung
bài học, thời gian phải hợp lí thì giờ học mới cuốn hút sự chú ý, tập trung của
học sinh, tạo không khí thoải mái trong tiết học, gây sự hưng phấn, có ý thức
học tập và yêu thích bộ môn hơn.
* Bài học kinh nghiệm:

Nếu tích hợp tốt hệ thống các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài
giảng trong chương trình Hóa Học 9 nói riêng, với môn Hóa Học nói chung thì
sẽ làm tăng ý nghĩa thực tiễn của môn học; làm cho bài học trở nên hấp dẫn và
lôi cuốn học sinh hơn. Đồng thời góp phần nâng cao năng lực nhận thức, tự học,
tích cực, chủ động học tập của học sinh.
Để có thể vận dụng được tốt thì người giáo viên phải thường xuyên:
- Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm - sức để tìm hiểu các vấn đề hoá học ngoài
thực tiễn, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học để có bài giảng thu hút được
học sinh.
- Đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Việc lồng ghép các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy học,
trước hết phải tạo điều kiện cho việc “ học và hành” gắn liền với thực tế, tạo cho
học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng cho các em những kỹ
năng quan sát, thu thập thông tin và phân tích thông tin, dần hình thành phương
pháp nghiên cứu khoa học.
- Luôn học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Biết áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, …
- Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất, tôi đã kết hợp hài hoà trong
phong cách dạy của mình, có thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái,
nhưng khả năng tiếp thu bài cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành
cho vấn đề này là không nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh
hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đều không
tốt. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ.
* Một vài kiến nghị:


- Với nhà trường và phòng giáo dục: thường xuyên tổ chức các chuyên đề
về đổi mới phương pháp dạy học, khuyến khích giáo viên tham gia các lớp học
trên chuẩn nhiều hơn nữa. Triển khai thêm các chuyên đề soạn giảng và sử dụng
một số phần mềm dạy học, khuyến khích giáo viên sử dụng internet.

- Đối với Sở GD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu tham
khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng
dạy. Với những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo nên phổ biến để cho các
giáo viên được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức của
giáo viên sẽ hoàn thiện hơn.
Có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng
cao chất lượng học Hoá Học trong thời kỳ đổi mới. Tôi mong rằng các giải pháp
này thực sự mang tính “hữu ích”, thiết thực và đáp ứng phần nào nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn Hóa Học ở trường THCS nói chung và chương trình Hóa
9 nói riêng.
Mặc dù, tôi đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các
bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 5/05/2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người thực hiện

Trần Thị Thọ


MỤC LỤC

Trang


1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1. Cơ sở lí luận

2

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng


3

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

14

3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

16




×