Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sử dụng BĐTD để dạy bài 20 vùng đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 23 trang )

MỤC LỤC
Phần , mục
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

Trang
2
2
3
5
5
5
5

2. 2.

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng



7

2.3.

kiến kinh nghiệm:
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải

9

2.4.

pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối

17

với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
3.
3.1
3.2

nghiệp và nhà trường:
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20
20

20

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
nhân tố hàng đầu để quyết định thắng lợi công cuộc CNH- HĐH và hội nhập
1


quốc tế là nguồn lực con người. Để đáp ứng nhu cầu đó chúng ta phải tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục.Với mục tiêu giáo dục phổ thông là "giúp người
học phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào công cuộc lao động tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Muốn đạt được kết quả đó ngành giáo dục
phải tập trung đổi mới phương pháp dạy học. Trong Luật giáo dục 2005 (điều 5)
quy định: "Phương pháp giáo dục phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho HS năng lực tự học, khả
năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên".
Còn chương trình giáo dục phổ thông cũng đã nêu: Phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc
điểm đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp
tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS.
Trước những mục tiêu chung đó, môn Địa lí ở Trung học cơ sở cũng đó đề
ra những mục tiêu cụ thể như: " Về kiến thức, học sinh phải nắm được một số
kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết về : Trái Đất, các thành phần tự nhiên của
Trái Đất, bản đồ, dân cư trên Trái Đất, các môi trường địa lí và các hoạt động
kinh tế chủ yếu của con người trong các môi trường địa lí; đặc điểm tự nhiên,

dân cư, xã hội và hoạt động kinh tế của con người ở các châu lục và các khu vực
khác nhau trên Trái Đất; đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh
tế - xã hội của đất nước ta, của các vùng miền khác nhau trên đất nước và địa
phương nơi học sinh đang sống. Về kĩ năng: phải hình thành một số kĩ năng học
tập bộ môn như: Đọc bản đồ, biểu đồ, lát cắt; quan sát, nhận xét, mô tả các sự
vật hiện tượng địa lí qua ảnh, hình vẽ mô hình; so sánh nhận xét phân tích số
liệu thống kê; … , bước đầu có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để giải thích

2


một số hiện tượng địa lí thường xảy ra, vận dụng kiến thức kĩ năng vào cuộc
sống, sản xuất ở địa phương…"( Trích tài liệu chuẩn kiến thức T.H.C .S)
Trước những yêu cầu chung đó, Bộ giáo dục và đào tạo bắt đầu chỉnh lí nội
dung chương trình sách giáo khoa ở các cấp học. Và từ đó các nhà nghiên cứu
các thầy cô giáo từng bước nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy ở tất cả
các bộ môn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục .
Từ những yêu cầu chung về mục tiêu giáo dục T.H.C.S nói chung và môn Địa
lí nói riêng, chúng tôi cũng đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi đổi mới phương
pháp dạy học và đó đạt được nhiều thành quả. Tuy nhiên, qua thực tế giảng
dạy tôi thấy, một bộ phận lớn các em chưa chú ý đến học tập môn Địa lí, đa số
các em ngại học, xem môn học này chỉ là môn phụ. Đây cũng chính là trào lưu
chung của HS phổ thông hiện nay, học lệch, xem nhẹ các môn xã hội, chú trọng
các môn tự nhiên hơn. Đặc biệt là HS lớp 9, các em chỉ tập trung thời gian vào
các môn thi vào cấp 3 và môn sau này học chuyên ban, thi đại học. Từ thực tế đó
các thầy cô giảng dạy môn Địa lí đó không ngừng đổi mới phương pháp cho phù
hợp, giúp HS thêm yêu môn học hơn. Song hiện nay phần lớn các giáo viên mới
tập trung đổi mới phương pháp trong phần giảng dạy kiến thức mới, chưa chú ý
nhiều đến phần ghi nhớ kiến thức bài học và hướng dẫn HS cách ghi nhớ kiến
thức. Do vậy phần lớn HS rất ngại ghi bài, cảm giác nhàm chán, không hệ thống

khắc sâu được kiến thức, hời hợt nhanh quên và về nhà không muốn học bài cũ,
không muốn chuẩn bị bài mới. Từ đó các em không có cảm giác hứng thú mong
chờ đến tiết học Địa lí tiếp theo.
Chính từ thực tế trên, mà tôi chọn đề tài : "Sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài
20: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng ( Lớp 9) " để nghiên cứu, viết SKKN.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trước yêu cầu phát triển của xã hội, ngành Giáo dục trong những năm qua
cũng không ngừng đổi mới về mọi mặt, trong đó chú trọng đổi mới về nội dung
và phương pháp. Trong mỗi giờ học giáo viên luôn phải tạo điều kiện tốt nhất
để học sinh phát huy tính tích cực, tạo điều kiện để học sinh được suy nghĩ nhiều
3


hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn chủ động trong tiếp thu bài giảng, huy
động được mọi học sinh làm việc, đánh giá được khả năng làm việc, tích cực
làm việc cũng như kết quả từng học sinh. Từ đó học sinh có thể khắc sâu, hệ
thống được kiến thức. Muốn đạt được mục tiêu của tiết học thì trước hết phải thu
hút được sự chú ý của học sinh, gây hứng thú cho HS học tập, hoạt động. Khi
nghiên cứu vấn đề này mục đích chính của tôi cũng là phát huy khả năng tư duy
sáng tạo, hiểu sâu nhớ lâu và in đậm các kiến thức cơ bản sau mỗi bài học, tiết
học, chương một cách hệ thống. Mặt khác tạo cho các em phát huy khả năng
thẩm mỹ từ việc bố cục màu sắc đường nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các
ý tưởng một cách khoa học, súc tích hợp lí, trực quan, dễ hiểu, dễ đọc, dễ tiếp
thu… Từ đó tạo sự hứng khởi chú ý trong học tập, ghi bài một cánh sáng tạo,
tránh sự nhàm chán, khô khan trong khi học. Thông thường kiến thức địa lí rất
khô khan, khó nhớ, khó hiểu nên trong giờ học, HS thường căng thẳng, mệt mỏi.
Hiện nay, chúng ta đó và đang sử dụng nhiều phương pháp dạy học mới vào các
bước kiểm tra bài cũ, dạy bài mới giảm bớt sự căng thẳng, HS tiếp thu bài một
cách tích cực, chủ động hơn nhưng HS chưa thực sự muốn ghi chép bài. Vì vậy
khi sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học từ khâu kiểm tra bài cũ, dạy

bài mới và củng cố bài HS sẽ thấy hứng thú học tập, tránh sự nhàm chán hơn.
HS được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua
đó tự khám phá những điều mình chưa biết, chưa rõ, biết cách ghi bài một cách
sáng tạo. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực
tiếp quan sát, thảo luận giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình,
trình bày, bổ sung kiến thức theo khả năng tư duy của mình. Đặc biệt khi sử
dụng bản đồ tư duy trong dạy học, HS sẽ nắm vững, dễ nhớ, dễ thuộc, khắc sâu
kiến thức tốt hơn mà không cảm thấy nặng nề, căng thẳng, nhàm chán. Từ đó
HS sẽ thấy nhớ, thấy mong chờ đến tiết học sau.
Ngoài ra chọn đề tài này, tôi cũng mong muốn đóng góp thêm một ph ương
pháp dạy học, ghi bài bằng bản đồ tư duy, làm phong phú hơn các phương pháp
dạy học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
4


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài này tôi vận dụng bản đồ tư duy vào tiến trình dạy học
ở bài 20: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng (Địa Lí 9). Đặc biệt, thông qua quá trình
vận dụng bản đồ tư duy vào dạy này các em sẽ có kiến thức cơ bản về: Nhận
biết vị trí địa lí, giới hạn lãnh thổ và nêu ý nghĩa của chúng đối với việc phát
triển kinh tế- xã hội. Trình bày được đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
của vùng và những thuận lợi, khó khăn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
Trình bày được đặc điểm dân cư, xã hội và những thuận lợi, khó khăn đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội. Qua đề tài này chúng ta sẽ có thêm một phương pháp
dạy học có hiệu quả nhất, tác dụng của vận dụng bản đồ tư duy vào tiến trình
dạy học, ghi nhớ kiến thức.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Ở đề tài: "Sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài 20: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng
( Lớp 9)" tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp. Trong đó có các phương
pháp nghiên cứu chính là: Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông

tin về tình hình học tập của học sinh và thực tế vận dụng đổi mới phương pháp
của bản thân, đồng nghiệp trong quá trình dạy học, nhất là việc ứng dụng bản đồ
tư duy…Mặt khác tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết về bản đồ tư
duy, từ đó vận dụng bản đồ tư duy vào quá trình dạy học và hướng dẫn HS các
ghi nhớ kiến thức bằng bản đồ tư duy cụ thể ở bài 20: Vùng Đồng Bằng Sông
Hồng ( Lớp 9). Bên cạnh đó tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, sử lí số liệu
qua khảo sát kết quả học tập của học sinh trước và sau khi sử dụng bản đồ tư
duy để từ đó thấy được hiệu quả của việc vận dụng bản đồ tư duy để dạy bài 20:
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng ( Lớp 9).
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Môn Địa lí ở T.H.C.S, bên cạnh mục tiêu cung cấp kiến thức còn phải rèn
cho HS kĩ năng học tập bộ môn. Song song với yêu cầu kiến thức, kĩ năng, là
thái độ và hành vi. Hình thành ở HS tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước
5


thông qua việc ứng xử hợp với tự nhiên và tôn trọng các thành quả kinh tế - văn
hoá của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân loại. Từ đó các em có miền tin
vào khoa học, ham học hỏi, hứng thú, say mê, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng
địa lí; có ý chí kiên cường dân tộc, niềm tin vào tương lai của đất nước, tâm thế
sẵn sàng tham gia xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; ý thức trách nhiệm
và tham gia tích cực vào các hoạt động sử dụng hợp lí, bảo vệ cải tạo môi
trường; nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và cộng đồng.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tích cực hoá hoạt động
học tập của HS. Tích cực hoá hoạt động học tập của HS là quá trình làm cho
người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ. Để
phát huy tính tích cực của HS cần tạo điều kiện để người học được suy nghĩ
nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn, được phát biểu quan điểm của
mình, được đưa ra những nhận xét về vấn đề đang bàn luận, được tham gia vào

quá trình học tập để tự chiếm lĩnh kiến thức. Một trong những phương pháp dạy
học tích cực đang được các nhà giáo và các nhà quản lí trường học quan tâm đó
là phương pháp dạy học bằng "Bản đồ tư duy".
Bản đồ tư duy hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy: là hình thức ghi
chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của
một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề bằng cách kết hợp sử dụng hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết. Dạy học bằng bản đồ tư duy là phương pháp dạy
học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào
sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hoá một chủ đề hay một mạch kiến thức…
bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ
viết với sự tư duy tích cực. Bản đồ tư duy kế thừa, mở rộng ở mức độ cao hơn
của việc lập bảng biểu, sơ đồ. HS tự ghi chép kiến thức trên bản đồ tư duy bằng
từ khoá và ý chính, cụm từ viết tắt và các đường liên kết ghi chú,… màu sắc,
hình ảnh và chữ viết. Khi tự ghi theo cách hiểu của mình, HS sẽ chủ động hơn,
tích cực học tập hơn và ghi nhớ bền vững hơn, dễ mở rộng, đào sâu ý tưởng.
Mỗi HS ghi theo một cách khác nhau, không rập khuôn, máy móc, dễ phát triển
6


ý tưởng bằng cách vẽ thêm nhánh, phát huy được khả năng sáng tạo. Từ đó các
em luôn có được niềm vui trước "sản phẩm kiến trúc hội hoạ" tự mình làm ra
dưới sự hướng dẫn của giáo viên và sự hợp tác của tập thể.
Dạy học bằng bản đồ tư duy xuất phát từ tiếp thu kinh nghiệm quốc tế và
nghiên cứu thực tiễn đó và đang áp dụng vào giáo dục Việt Nam. Bản đồ tư duy
là công cụ đồ hoạ nối các nội dung kiến thức với nhau vì vậy có thể vận dụng
vào dạy kiến thức mới, ôn tập, hệ thống kiến thức…
Trên tinh thần đó, việc áp dụng bản đồ tư duy vào tiến trình bài dạy nói
chung, vào phần dạy bài mới nói riêng, vừa mang lại sức sống và năng lượng vô
tận cho tư duy sáng tạo. Từ đó HS sẽ chủ động hơn, tích cực học tập hơn và ghi
nhớ hệ thống bền vững hơn, dễ mở rộng, đào sâu ý tưởng, khắc sâu được kiến

thức, vừa hứng thú, không nhàm chán trong giờ học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Học sinh trung học cơ sở là trẻ em trong độ tuổi từ 11đến 15 tuổi nên phần
lớn các em ý thức chờ đợi những hình thức tổ chức tìm hiểu mới đối với bài học
mới mà ở đó có tính tích cực, tính hoạt động (động não) của tư duy và tính tự lập
của HS được thể hiện, các khả năng trí tuệ được khêu gợi, yêu cầu tự suy ngẫm
và tự khái quát hoá tài liệu được đề cao. Phong cách tự tìm hiểu, tự suy ngẫm,
thái độ tò mò,….Đó là những điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới phương
pháp dạy học nói chung và dạy học môn Địa lí THCS nói riêng. Tuy nhiên do cơ
chế thị trường cùng với sự mở rộng của các trò chơi điện tử đó thu hút một bộ
phận học sinh chơi nhiều hơn học. Một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm chặt
chẽ tới việc học hành của con nên các em sao nhãng. Hơn nữa trong quá trình
dạy môn Địa Lí T.H.C.S ở những năm trước đây cho chúng ta thấy một thực tế
đáng buồn là: số HS yêu thích môn này rất ít, phần lớn phụ huynh và HS xem
đây là môn phụ không cần thiết lắm. Có em tâm sự với cô giáo:"các em phải tập
trung thời gian học những môn để sau này thi vào cấp III, còn môn Địa thì các
em học qua loa, cố gắng lấy điểm 5 là được rồi". Vì thế không mấy mặn mà với
môn học này, các em học qua loa, đại khái mang tính đối phó, về nhà không học
7


bài cũ, tiếp thu bài mới càng khó…Do vậy, các em rất ngại học, không có hứng
thú. Mặt khác, kiến thức Địa lí lớp 9 lại chủ yếu học về dân cư, kinh tế, sự phân
hoá lãnh thổ Việt Nam rộng lớn và phức tạp, khô khan và khó tiếp thu, khó nhớ,
phải kết hợp nhiều kĩ năng nên các em lại càng ngại học. Từ tâm lí đó các em ít
chú ý khi học, về nhà không làm bài tập không học bài cũ, hoặc chỉ làm mang
tính đối phó. Ngay cả khi chọn HS tham gia đội tuyển HS giỏi một số em cũng
không có nhã hứng vì cảm thấy khó. Có em còn e ngại tâm sự với cô: " Em thấy
môn Địa vừa phải học thuộc nhiều, vừa nhiều bài tập thực hành nên học rất căng
thẳng". Có em lại nói " Bố mẹ em bảo em phải tập trung vào các môn tự nhiên

để còn đầu tư thi vào cấp 3, còn các môn ấy chỉ cần học qua ở lớp là được",…
Điều đó làm cho chất lượng môn Địa lí chưa cao, mức độ ghi nhớ chỉ đạt mức
trung bình, đặc biệt nhớ theo hệ thống kiến thức còn rất ít, độ hiểu rất hạn chế .
Vì thế qua khảo sát chất lượng của HS lớp 9B sau khi học bài 20: Vùng Đồng
bằng Sông Hồng tôi thu được kết quả chỉ đạt như sau:
Chất lượng học tập của HS sau khi học bài 20: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng
Năm học: 2014- 2015.
Loại giỏi
Loại khá
Loại trung bình
Loại yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp Sĩ số
9B
33
0
0
4
12
20
61
9
27

Qua kết quả khảo sát cho chúng ta thấy: chưa có HS giỏi, HS khá chỉ đạt 12%,
HS yếu, kém chiếm tỉ lệ lớn (27%). Phần lớn các em thấy ngại ghi bài, ghi bài
một cách nhàm chán, máy móc, khó nhớ. Qua điều tra cho thấy: 50% HS ngại
ghi bài. Hơn 40% HS thấy bình thường, 10% HS thích ghi bài. Như vậy, mặc dù
chú ý đổi mới, kết hợp nhiều phương pháp tích cực trong dạy học, nhưng kiến
thức đọng lại trong các em còn ít, các em nhanh quên, chưa khắc sâu được kiến
thức trọng tâm. Thực tế đó có một phần cơ bản là do phần chốt lại kiến thức cơ
bản trọng tâm trong từng phần, cả bài học chưa được chú ý thích đáng, đôi khi
người dạy cũng thể hiện một cách máy mốc, nhàm chán, đơn điệu, truyền thống
như các dấu "-" ,rồi "+". Vì vậy chưa thu hút HS chú ý vào bài học, khắc sâu, hệ
8


thống kiến thức. Một số HS chú ý nghe giảng bài xong về nhà các em không có
thời gian ôn lại nên cũng nhanh quên, nhớ chàng màng. Từ đó chất lượng học
của HS chưa cao, môn Địa lí chưa thực sự là môn học hấp dẫn đối với các em.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề:
Từ thực tế trên, là một giáo viên dạy bộ môn này tôi rất trăn trở, tìm tòi
nghiên cứu để dạy học Địa lí đạt hiệu quả cao hơn. Được sự giúp đỡ của BGH,
tổ chuyên môn, tôi đó cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để thu hút sự chú ý của HS,
gây hứng thú cho các em trong các hoạt động. Đặc biệt tôi đó sử dụng phương
pháp dạy học bằng bản đồ tư duy vào quá trình giảng dạy, để HS có thể hệ
thống kiến thức, khắc sâu kiến thức cơ bản ngay tại lớp. Từ đó cũng tạo được
niềm vui, tránh được tình trạng nhàm chán căng thẳng khi học và giảm bớt thời
gian học bài cũ ở nhà để các em có thời gian nhiều hơn để học môn khác. Để
thực hiện được điều đó chúng tôi đó đưa ra nhiều giải pháp như sau :
Trước hết về phía Nhà trường: luôn quan tâm đồng đều đến tất cả các bộ
môn, không xem môn học nào là chính, là phụ. Nhà trường có phòng đồ dùng
kiên cố, tương đối đầy đủ các thiết bị dạy học, có giáo viên phụ trách thư viện.

Đồng thời nhà trường đã trang bị phòng máy chiếu phục vụ cho giáo viên dạy
giáo án điện tử …
Đối với giáo viên phải luôn luôn trau dồi kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm,
tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề, tập huấn, giao ban cụm môn Địa lí. Đặc biệt
phải luôn chuẩn bị chu đáo về giáo án, đồ dùng dạy học,…cho mỗi tiết học,
tuyệt đối tránh chuẩn bị qua loa, đại khái, đối phó. Trong mỗi tiết học phải luôn
tạo điều kiện tốt nhất để các em phát huy tính tích cực, chủ động trong tiếp thu
lĩnh hội tri thức, thu hút được mọi HS làm việc, đánh giá được khả năng làm
việc, ý thức và hiệu quả của từng em. Tích cực thiết kế, sưu tầm những bản đồ
tư duy có liên quan đến kiến thức bài học. Sử dụng bản đồ tư duy vào thời điểm
thích hợp, tránh sự tràn lan, không chính xác. Trong quá trình tổ chức dạy học,
giáo viên đóng vai trò chủ đạo còn HS chủ động tiếp thu sáng tạo kiến thức.
9


Đối với học sinh: yêu cầu các em phải có đầy đủ sách vở và các đồ dùng học
tập; trong giờ học các em phải chú ý học tập, tham gia hoạt động một cách tích
cực, có tư duy sáng tạo, ghi bài đầy đủ, có ý thức xây dựng bài; về nhà học, làm
bài tập đầy đủ, đồng thời chuẩn bị bài mới. Kiến thức Địa lí không chỉ có trong
sách, mà các em còn quan sát, liên hệ với thực tế cuộc sống.
Kiến thức "Sự phân hoá lãnh thổ Việt Nam" nói chung, đặc biệt là "Vùng
Đồng bằng Sông Hồng nói riêng rất quan trọng, giúp các em có những hiểu biết
nhất định về Vùng Đồng bằng Sông Hồng, về thế mạnh khác nhau của mỗi vùng
đất nước. Trong SGK Địa lí 9, nội dung kiến thức Vùng Đồng bằng Sông Hồng
được trình bày thành 3 bài, trong đó có 1 bài thực hành. Mục đích chính của
phần Vùng Đồng bằng Sông Hồng nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết
tương đối vững chắc về các nội dung sau:
- Nhận biết vị trí địa lí, giới hạn lãnh thổ và nêu ý nghĩa của chúng đối với việc
phát triển kinh tế- xã hội .
- Trình bày được đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của vùng và những

thuận lợi, khó khăn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Trình bày được đặc điểm dân cư, xã hội và những thuận lợi, khó khăn đối với
sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Trình bày được tình hình phát triển kinh tế.
- Nêu tên các trung tâm kinh tế của vùng.
- Nhận biết vị trí địa lí, giới hạn và vai trò của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Đây là những kiến thức rất quan trọng. Chính vì nhận thức được tầm quan
trọng Vùng Đồng bằng Sông Hồng, nên trong quá trình dạy tôi đã sử dụng bản
đồ tư duy vào các nội dung kiến thức của mỗi mục. Đồng thời hướng dẫn các em
đọc hiểu và vẽ tiếp bản đồ tư duy. Ban đầu trong một số đơn vị kiến thức của bài
dạy tôi vẽ tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào trung tâm
rồi đặt các câu hỏi gợi ý để các em trả lời và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3…
Hướng dẫn, gợi ý để các em hệ thống các kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ
của đơn vị kiến thức đó. Từ đó các em đó làm quen với bản đồ tư duy có sẵn và
10


các bước cơ bản để lập bản đồ tư duy ở đơn vị kiến thức nhỏ, đơn giản. Như vậy
các em mới nắm được những kiến thức nhỏ lẻ mà chưa biết tổng hợp kiến thức ở
mức độ cao hơn, hệ thống và khái quát hơn. Vì vậy trong phạm vi bài viết này,
tôi chỉ trình bày một vài kinh nghiệm của bản thân trong cách sử dụng bản đồ tư
duy để dạy bài 20: Vùng Đồng bằng Sông Hồng (Lớp 9).
Khi dạy bài 20: Vùng Đồng bằng Sông Hồng tôi đã kết hợp nhiều phương
pháp, đặc biệt là sử dụng giáo án điện tử khai thác kiến thức qua lược đồ, hệ
thống tranh ảnh, thể hiện kiến thức cơ bản trọng tâm dưới dạng bản đồ tư duy, tổ
chức HS hoạt động chiếm lĩnh kiến thức một cách tích cực, sáng tạo dưới sự
định hướng của giáo viên.
* Khi giới thiệu bài mới:
GV: dùng Bản đồ tư duy về cấu trúc Địa lí 9 để đặt câu hỏi, giới thiệu bài mới.


* Khi dạy mục I: Vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ:

11


GV đưa ra cụm từ chính, rồi tổ chức HS Quan sát H20.1, tranh ảnh và nội
dung SGK cho biết diện tích, xác định vị trí, giới hạn của vùng Đồng Bằng Sông
Hồng. Từ đó, HS phát hiện kiến thức và GV hướng dẫn các em chốt lại kiến
thức cơ bản thể hiện dưới dạng Bản đồ tư duy :

Tiếp theo GV cho các em thảo luận để thấy được ý nghĩa của vị trí địa lí đó, và
tiếp tục vẽ thêm nhánh hoàn thành kiến thức trọng tâm của mục I.

12


* Khi dạy mục II: GV yêu cầu HS nhắc lại kiến thức cơ bản mục I, giới thiệu
yêu cầu tiếp theo: Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
GV tổ chức HS tiếp tục quan sát H20.1 và tranh ảnh kết hợp hiểu biết của
mình trình bày đặc điểm tự nhiên của vùng? Sau khi các em lĩnh hội được kiến
thức, GV gợi ý để các em thể hiện nhánh tếp theo trên bản đồ tư duy:

Sau khi HS trình bày được đặc điểm tự nhiên, GV tổ chức HS tiếp tục dựa vào
H20.1 và tranh ảnh để thảo luận 2 nhóm với câu hỏi:
? Đặc điểm tự nhiên của vùng có những thuận lợi và khó khăn gì cho phát triển
kinh tế - xã hội ?
Từ đó các em thấy được những thuận lợi, khó khăn và tiếp tục vẽ thêm nhánh
vào bản đồ tư duy:

13



Khi dạy mục III: GV yêu cầu HS trình bày khái quát nội dung mục II, từ đó
đưa ra cụm từ chính của mục III:

GV hướng dẫn các em phân tích biểu đồ H20.2, tranh ảnh bảng số liệu từng
bước gợi ý để HS từng bước lĩnh hội được kiến thức và thể hiện tiếp vào bản đồ
tư duy dưới sự định hướng chuẩn kiến thức của GV:

14


GV tổ chức cho HS quan sát hình ảnh về người lao động, về cơ sở hạ tầng, về
hình ảnh đô thị Hà Nội, …và đưa ra câu hỏi để HS thảo luận:
? Qua quan sát tranh ảnh kết hợp với nội dung SGK và hiểu biết của bản thân
em hãy cho biết những thuận lợi và khó khăn về dân cư, xã hội vùng ĐBSH?
Sau khi HS phát hiện những thuận lợi GV cùng các em vẽ tiếp các nhánh thể
hiện thuận lợi vào bản đồ tư duy. Về khó khăn cũng tương tự nên có thể cho một
em đại diện lên thể hiện và các bạn nhận xét, GV chốt lại để cùng hoàn thành
bảnđồ tư duy cho nội dung phần III :

Như vậy, Bài 20 :Vùng Đồng bằng Sông Hồng đã được thể hiện toàn bộ kiến
thức cơ bản trọng tâm dưới dạng Bản đồ tư duy:
15


16


Để củng cố bài học GV tổ chức cho các tổ xem bản đồ tư duy của nhau để

nhận xét, góp ý, học tập lẫn nhau trong cách thể hiện bản đồ tư duy. Qua đó các
em sẽ hệ thống được kiến thức, khắc sâu kiến thức một các nhẹ nhàng, tự nhiên
nhưng lại rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thứ học tập của HS.
Với cách học bài như thế này sẽ rèn luyện cho bộ óc các em hướng tới cách
suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức
vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về: "Sử dụng bản đồ tư duy để dạy
bài 20 : Vùng Đồng bằng Sông Hồng."
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Trong quá trình nghiên cứu dạy thử nghiệm ở chương trình Địa lí 9 ở Bài 20:
Vùng Đồng bằng sông Hồng ở lớp 9C và lớp 9B. Lớp 9C có sử dụng phương
pháp dạy học tích cực nhưng không sử dụng bản đồ tư duy trong trình dạy học
còn lớp 9B cũng sử dụng phương pháp dạy học tích cực và kèm theo sử dụng
các bản đồ tư duy trong quá trình bài dạy. Đây là hai lớp HS đại trà nhưng tôi
nhận thấy ở lớp 9C HS tiếp thu bài một cách trầm hơn, sau giờ học HS cảm thấy
căng thẳng, một số em ngại học, ngại ghi bài, khả năng ghi nhớ chưa tốt, đặc
biệt là chưa ghi nhớ kiến thức theo hệ thống một cách lôgic, mạch lạc. Còn ở lớp
9B tôi nhận thấy: Dạy học địa lí có sử dụng bản đồ tư duy vào trong quá trình
dạy bài mới, sử dụng bản đồ tư duy để chốt kiến thức bài học làm cho giờ học
nhẹ nhàng và giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức một cách hệ thống vào não
chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. Trong tiết học, tất cả HS tích cực
tham gia hoạt động, xây dựng bài, tìm hiểu kiến thức. Nhờ đó giờ học sôi nổi và
đầy hứng thú, các em nắm được kiến thức tốt hơn, lâu hơn. Khi sử bản đồ tư duy
sẽ tạo không khí tiết học sôi nổi, giữa thầy và trò có sự cởi mở, thân thiện hơn.
Dạy học Địa lí kết hợp các phương pháp tích cực khác với sử dụng bản đồ tư
duy trong tiết học, tạo sự hứng khởi, lôi kéo HS vào tìm hiểu kiến thức của bài.
Từ đó chất lượng giờ học cao hơn, HS ghi nhớ tốt hơn, khắc sâu và mở rộng
17



kiến thức hơn. Tình trạng HS không học bài cũ, không chuẩn bị bài mới rất hạn
hữu. Nhiều em nhớ kiến thức ngay sau giờ học, không mất nhiều thời gian cho
việc học thuộc lòng kiến thức ở nhà, không còn tình trạng "ở nhà em học thuộc
rồi nhưng bây giờ lại quên chẳng nhớ gì cả". Nhờ vậy mà chất lượng khảo sát
của HS được nâng cao rõ rệt.
Kết quả tôi thu được cụ thể ở hai lớp như sau:
* Kết quả khảo sát chất lượng của lớp 9C, (sau khi học bài 20: Vùng Đồng
Bằng Sông Hồng) - không sử dụng bản đồ tư duy:
- Năm học : 2015 - 2016
Lớp
9C

Sĩ số
32

Loại giỏi
SL
%
1
3

Loại khá
Loại trung bình
SL
%
SL
%
9
28

17
53

Loại yếu
SL
%
5
16

* Kết quả khảo sát chất lượng của lớp 9B, (sau khi học bài 20: Vùng Đồng
Bằng Sông Hồng)- có sử dụng bản đồ tư duy:
- Năm học : 2015 - 2016
Loại giỏi
Loại khá
Loại trung bình
Loại yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp
Sĩ số
9B
36
6
16

11
31
19
53
0
0
Qua thực tế giảng dạy và kết quả khảo sát chất lượng cho thấy mặc dù đã đổi
mới theo phương pháp tích cực ở lớp 9C chất lượng HS có nâng lên so với năm
học trước nhưng chất lượng HS còn thấp, tỉ lệ HS yếu vẫn còn cao (16%). Còn
đối với lớp 9B cũng sử dụng phương pháp tích cực cùng với sử dụng bản đồ tư
duy vào quá trình bài học thì kết quả tốt hơn nhiều: số lượng học sinh giỏi, khá
đó nâng cao hơn rõ rệt, chiếm 47% , trong đó giỏi 16%, khá 31% và điều đáng
mừng là tỉ lệ học sinh yếu, kém không còn.
Nhìn chung HS có ý thức nghiêm túc trong các giờ học, rất hăng say và có
hứng thú tìm hiểu kiến thức Địa lí. Các em không còn xem nhẹ môn học, không
còn cảm giác khô khan, mệt mỏi trong khi học, đặc biệt rất thích vẽ bản đồ tư
duy. Các em có khả năng ghi nhớ kiến thức, nắm vững bài tốt hơn nhiều, ghi
18


nhớ các nội dung bài học một cách hệ thống lâu hơn, trình bày kiến thức lôgic,
mạch lạc.
Kết quả đó cho thấy việc áp dụng bản đồ tư duy vào dạy học sẽ tập cho HS
có thói quen tự ghi chép hay tổng hợp một vấn đề, một chủ đề đó học theo cách
hiểu của các em dưới dạng bản đồ tư duy. Ngoài việc vẽ bản đồ tư duy trong học
tập còn tập cho các em có thói quen sử dụng bản đồ tư duy tự ghi tóm lược nội
dung chính của cuốn sách dưới dạng bản đồ tư duy khi các em đó đọc. Nó giúp
HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, ở lớp hoạt động nhóm bằng bản đồ tư duy.
Ngoài ra việc dùng bản đồ tư duy đó giúp các em phát huy tối đa tính sáng tạo,
phát triển năng khiếu hội hoạ, sở thích của các em, các em tự sáng tác nên trên

mỗi bản đồ tư duy thể hiện rừ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS
và cũng do các em tự làm nên các em yêu quý trân trọng tác phẩm của mình. Do
đó chất lượng môn học được nâng cao rõ rệt. Là một giáo viên dạy Địa lí, tôi
cũng cảm thấy rất phấn khởi trước sự tiến bộ của học sinh.
Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện, bản thân tôi và đồng nghiệp đó rút
ra được một số bài học kinh nghiệm về cách sử dụng bản đồ tư duy trong dạy
học Địa lí nói riêng và dạy các môn nói chung cần lưu:
+ Khi thiết kế bản đồ tư duy cần chọn lọc những kiến thức cơ bản, cần thiết,
ví dụ minh hoạ để có nhiều thông tin cho bài học. Thiết kế bản đồ tư duy của
một bài học phải thể hiện được kiến thức trọng tâm, cơ bản cần chốt lại của bài
học. Tránh khuynh hướng vẽ quá cầu kì những hình ảnh không cần thiết hoặc
quá sơ sài không có thông tin, chỉ ghi các mục của bài học.
+ Khi thiết kế bản đồ tư duy cần tránh: ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng,
ghi chép quá nhiều ý không cần thiết hoặc dành quá nhiều thời gian để vẽ, viết,
tô màu…Chỉ nên vẽ các hình ảnh có liên quan đến chủ đề kiến thức, tránh vẽ
hoặc đưa nhiều hình ảnh không liên quan đến bài học làm mất nhiều thời gian vẽ
3. KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết Luận:
19


Địa lí là một môn học khó, đòi hỏi sự trau dồi kiến thức và kĩ năng. Xã hội
luôn luôn phát triển, để đáp ứng mục tiêu đó phương pháp giáo dục cũng sẽ
không ngừng đổi mới trên cơ sở kế thừa. Là giáo viên cũng vậy, bản thân tôi và
đồng nghiệp cũng không ngừng phấn đấu để nâng cao kiến thức, bổ sung thêm
kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm, đổi mới phương pháp, để ngày càng hoàn thiện
hơn. Tạo được một tâm lí nhẹ nhàng, thoải mái, thân thiện để các em có thể tiếp
thu bài tốt nhất. Ghi nhớ kiến thức sâu một cách hệ thống, mạch lạc. Biết vận
dụng một số kiến thức để giải thích các hiện tượng Địa lí hay gặp trong cuộc

sống…
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệp nhỏ của bản thân, rèn luyện cho bộ óc các
em hướng tới cách suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu
bài, ghi nhớ kiến thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. Từ đó
tạo hứng thú để HS tiếp thu bài giảng tốt ngay ở trên lớp, đáp ứng được sự đổi
mới phương pháp, nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn Địa lí nói chung và bài
20: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng nói riêng. Tôi xin đưa ra đây mong được sự
đóng góp ý kiến của các nhà giáo dục, của đồng nghiệp để có được phương pháp
dạy học tích cực nhất, phù hợp nhất, để chất lượng giáo dục ngày một nâng cao.
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi không chỉ áp dụng vào bài 20: Vùng Đồng
Bằng Sông Hồng mà có thể vận dụng vào dạy ở nhiều bài mới ở từng mục hay
toàn bài học hoặc củng cố bài học, hệ thống hoá một chủ đề, một bài, một
chương giúp HS ghi nhớ, ôn tập, liên kết các mạch kiến thức đã học ở tất cả các
môn học và nhiều lĩnh vực khác nhau. Bản đồ tư duy cũng có thể sử dụng để ra
bài tập về nhà hoặc kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kì. Trong đề kiểm tra có thể cho
1 đến 2 điểm trong biểu chấm, qua đó dễ phân loại HS và đánh giá năng lực, khả
năng tư duy sáng tạo của HS.
3.2. Kiến nghị:
Trong quá trình dạy học môn Địa Lí THCS chúng tôi được Phòng giáo dục,
Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện để tôi tham gia các lớp chuyên đề, các
lớp tập huấn, các buổi giao lưu cụm, tham gia thi khảo sát chất lượng giáo viên
20


môn Địa lí…để giao lưu học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
trong giảng dạy. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn tạo điều kiện để tôi được thao
giảng, dự giờ, từ đó góp ý, rút kinh nghiệm. Đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo
cơ sở vật chất khác ngày càng được bổ sung, phong phú hơn….
Tuy nhiên tôi và đồng nghiệp còn gặp một số khó khăn trong quá trình
giảng dạy bộ môn, đó là:

Giáo viên bộ môn Địa lí ở THCS, trong mỗi trường còn ít, nên còn hạn chế
khi dự giờ rút kinh nghiệm, hay trao đổi chuyên môn.
Trang thiết bị hiện đại còn thiếu, nhà trường chỉ có 1 máy chiếu nhưng lại
hay mất điện, nên còn khó khăn khi giáo viên muốn sử dụng.
Trên đây là một số khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong quá trình dạy học,
đồng thời có một vài đề xuất:
Thứ nhất: mong PGD tổ chức thêm và thường xuyên các lớp tập huấn, lớp
chuyên đề, các buổi giao ban cụm về môn Địa lí để chúng tôi có điều kiện trao
đổi, học tập, nâng cao trình độ và nghiệp vụ chuyên môn hơn.
Thứ hai: Tăng cường bổ sung CSVC trường học tạo điều kiện thuận lợi
cho việc dạy- học của giáo viên và học sinh.
Xác nhận của thủ trưởng cơ quan:

Thanh Hoá, ngày 10 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết:

Lưu Thị Hạnh

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Địa lí T.H.C.S.
2. Đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lí.
3. Tài liệu: Một số chuyên đề bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên THCS.
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí 9.


22


23



×