Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua giờ học bộ môn và HĐGDNGLL ở trường THCS trần mai ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH QUA GIỜ HỌC BỘ MÔN VÀ HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG
THCS TRẦN MAI NINH

Người thực hiện: Lê Thị Nga
Chức vụ:

Phó Hiệu trưởng

Đơn vị công tác: Trường THCS Trần Mai Ninh
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC GIÁO DỤC KNS CHO
HS Ở TRƯỜNG THCS TRẦN MAI NINH
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
IV. KIỂM NGHIỆM
C- KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN
II. KIẾN NGHỊ
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO

TRANG
1
2
2
3
3
3
4
4
8
11
17
18
18
18
19

2



A - MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời kỳ đất nước hội nhập và phát triển, bên cạnh những thành tựu to
lớn về kinh tế, giáo dục, văn hoá...thì chúng ta cũng đang đứng trước những
thách thức mới. Đó là sự lai căng về văn hóa của một bộ phận giới trẻ. Đó là tình
trạng trẻ vị thành niên có lối sống ích kỷ, vô tâm, vô cảm, khép mình, ứng phó
không lành mạnh ngày càng tăng; kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản thân... ngày càng giảm. Những clip
tung trên mạng xã hội về hiện tượng thanh thiếu niên đánh nhau còn những
người xung quanh thản nhiên đứng xem làm chúng ta nhức nhối . Những câu
chuyện thương tâm về trẻ em bị lừa gạt, bị sa vào cạm bẫy vì thiếu kỹ năng sống
làm chúng ta phải trăn trở... Bên cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh
phổ thông hút thuốc lá, uống rượu bia, tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm
thậm chí là tự_sát_khi_gặp vướng_mắc_trong_cuộc_sống...
Theo triết lý của nhà Tâm lý học hiện đại Edgar Morlin thì mục tiêu của
giáo dục là cần tạo nên những cái đầu được rèn luyện tốt để tự nó chiếm lĩnh và
làm chủ thế giới dẫu biến động đến đâu. Tâm lý học cũng cho thấy, lứa tuổi học
sinh ở bậc THCS là lứa tuổi chuyển tiếp giữa trẻ con và người lớn. Ở giai đoạn
này, các em rất ưa hoạt động, thích tự lập, muốn bắt chước người lớn và học làm
người lớn. Tuy nhiên đây cũng là giai đoạn mà sự phát triển về thể chất và tâm
lý của các em đang phát triển mạnh mẽ, những xung đột về tâm lý đang thường
xuyên xảy ra, những biểu hiện đó đôi khi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng,
nhưng đằng sau đó vẫn còn là "trẻ con". Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho
các em, giúp các em đương đầu với những bất ngờ, đột biến, bất định trong xã
hội hiện đại ngày nay càng là vấn đề hết sức cần thiết.
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó nên trong những năm qua, Ngành giáo dục đã
tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên về công tác giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trong nhà trường. Một trong 5 nội dung của phong trào thi đua ”Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục&Đào tạo phát
động là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Điều đó cho thấy việc trang bị kỹ

năng sống cho thanh thiếu niên đang là một vấn đề cấp thiết đặt ra cho các nhà
quản lý và cán bộ giáo viên trong trường học.
Là người làm công tác quản lý ở trường THCS Trần Mai Ninh đã nhiều
năm, tôi nhận thấy học sinh của nhà trường đa số là ngoan ngoãn, chịu khó học
tập và rèn luyện. Tuy nhiên trong những năm gần đây, với cơ chế kinh tế thị
trường và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhà hàng, phương tiện giải trí và
dịch vụ Internet... mọc lên như nấm đã tác động không nhỏ đến nhận thức, hành
vi của một bộ phận học sinh. Nhiều gia đình, bố mẹ bận làm ăn, không có thời
gian chăm lo, quan tâm đến việc dạy dỗ con cái nên có những em sa đà vào các

3


trò chơi điện tử không lành mạnh, bị kẻ xấu lợi dụng; có những em lại nhút nhát
trước đám đông, không dám bộc lộ và thể hiện mình, không có khả năng giải
quyết các tình huống trong cuộc sống hàng ngày; một bộ phận khác lại được
chăm chút, cưng chiều thái quá dẫn tới việc thụ động, phụ thuộc vào bố mẹ, có
lối sống ích kỷ, vô tâm với mọi người và sự vật xung quanh...Đứng trước thực
trạng đó, mấy năm gần đây, nhà trường đã chú trọng làm tốt công tác giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh và bước đầu cũng đã thu được những thành công
đáng khích lệ. Với mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp những kinh nghiệm đã
thu lượm được trong những năm qua, tôi mạnh dạn lựa chọn sáng kiến: “Quản
lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua giờ học bộ môn và hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THCS Trần Mai Ninh” nhằm góp
một tiếng nói khiêm tốn vào quá trình tìm kiếm giải pháp hữu hiệu để nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, để các em học sinh trở thành
những người năng động, chủ động trong cuộc sống, có tình cảm nhân văn, nhân
ái, có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế - là những chủ nhân tương lai của đất nước.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất một số biện pháp quản lý việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

để cán bộ giáo viên trong nhà trường có nhận thức đúng và thực hiện có hiệu
quả công tác này nhằm giúp các em học sinh có kỹ năng giải quyết các tình
huống đơn giản thường gặp trong cuộc sống, có kỹ năng ứng xử văn hóa, chung
sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội...
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề.
Nghiên cứu, phân tích thực trạng quản lý việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh của nhà trường.
Đề xuất một số giải pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
trường THCS Trần Mai Ninh trong giai đoạn hiện nay
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo sát thực tế
Phân tích tình hình
Tổng hợp, đánh giá

4


B - NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Kỹ năng sống ( KNS) là gì?
Với những cách thức tiếp cận khác nhau, hiện nay đã có nhiều định nghĩa
và quan niệm khác nhau về KNS. Thông thường, KNS được hiểu là những kỹ
năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh
với chất lượng cao.
- Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO),
KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo,
ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả...
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt

mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,...
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng,
kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng,
tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông
Như vậy theo quan niệm của UNESCO, KNS là năng lực cá nhân để họ
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEFF, kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và
giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân
nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ KNS có thể thể
hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến
hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm
thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), KNS là những kĩ năng thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn và khoẻ mạnh, đó là những kỹ năng tâm
lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người
khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức
của cuộc sống hàng ngày.
Trong tài liệu tập huấn hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Bộ GD-ĐT, KNS là
khả năng thực hiện những hành vi thích ứng tích cực, những cách hành xử hiệu quả, giúp cá
nhân hoà nhập vào môi trường xung quanh , giúp cá nhân hình thành các mối quan hệ xã
hội, phát triển những nét nhân cách tích cực thuận lợi cho sự thành công học đường và
thành công trong cuộc sống. Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu thống kê xã hội
học, các nghiên cứu khảo sát thực tế, tài liệu này đã liệt kê một số kỹ năng sống
cơ bản cần thiết cho lứa tuổi học sinh THCS như: kỹ năng giao tiếp; kỹ năng
điều chỉnh nhận thức, hành vi; kỹ năng kiểm soát/ứng phó với stress; kỹ năng
5



hợp tác, làm việc theo nhóm; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng lắng nghe tích
cực; kỹ năng đồng cảm; kỹ năng quyết đoán, ra quyết định; kỹ năng thuyết phục,
thương lượng; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng đặt mục tiêu, lập kế hoạch thực
hiện mục tiêu; kỹ năng đặt câu hỏi; kỹ năng học bằng đa giác quan; kỹ năng tư
duy sáng tạo; kỹ năng khen, chê tích cực; kỹ năng suy nghĩ tích cực, duy trì thái
độ lạc quan; kỹ năng thích ứng; kỹ năng đánh giá và tự đánh giá…
Từ những quan niệm trên, có thể thấy rằng KNS bao gồm một loạt các kỹ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của
KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả... Nói cách khác, KNS là khả
năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những
người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống.
Như vậy, KNS hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá
trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
KNS được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong
gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Chính vì thế, KNS vừa có tính cá nhân, vừa có
tính xã hội, chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. KNS mang tính cá
nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. KNS có tính xã hội là vì trong mỗi giai
đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợp
với những kỹ năng sống ấy.
Nói tóm lại, KNS là khả năng để mỗi người có thể ứng phó một cách thích
hợp, chắc chắn với từng điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa khác nhau.
2. Tầm quan trọng của việc GDKNS cho học sinh trong nhà trường phổ thông
* KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.
Thực tế cho thấy có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có
nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng. Điều này có liên quan rất rõ đến KNS.
Có thể nói, KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ,
hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng
trước những khó khăn, thử thách, biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách phù hợp, tích
cực. Và do đó họ thường thành công hơn trong cuộc sống, họ luôn yêu đời và làm chủ

cuộc đời mình.
Không những thúc đẩy sự phát triển cá nhân, KNS còn góp phần thúc đẩy
sự phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con
người. Giáo dục KNS sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục KNS
còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân
được ghi trong Luật pháp Việt Nam và Quốc tế.
* Giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.
6


- Là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, hiểu biết về xã hội còn thiếu sâu
sắc nên các em dễ bị lôi kéo, kích động.
- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của
đất nước - thường xuyên chịu những tác động tích cực và tiêu cực, nếu không có KNS, các
em sẽ dễ dàng bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, lai căng, có lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ
phát triển lệch lạc về nhân cách…Và như vậy, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
Việc giáo dục KNS giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản
thân, gia đình, cộng đồng, giúp các em có những cách ứng phó tích cực với
những tình huống trong đời sống, xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, sống tích
cực, chủ động, an toàn và lành mạnh.
* Giáo dục KNS nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
xã hội.. Do vậy Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá XI đã đặt ra
yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam nhằm tạo ra những con
người lao động mới phát triển toàn diện để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục KNS cho HS, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả
năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp, khả năng ứng phó tích cực rõ ràng

là phù hợp và nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
Phương pháp giáo dục KNS thông qua các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực cũng là phù hợp với định hướng về đổi mới PPDH ở trường phổ thông.
3. Định hướng Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong trường THCS
* Mục tiêu giáo dục KNS cho HS trong trường THCS:
- Trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp. Trên
cơ sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại
bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực giúp HS có khả năng ứng phó phù hợp và
linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
- Giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành, tạo cơ
hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ, tâm hồn và đạo đức.
* Nguyên tắc giáo dục KNS cho HS trong nhà trường phổ thông:
+ Tương tác: KNS được hình thành trong quá trình tương tác với người khác.
+ Trải nghiệm: KNS được hình thành khi người học được trải nghiệm trong
các tình huống thực tế.
+ Tiến trình: KNS không thể được hình thành “ngày một, ngày hai” mà
phải có cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ - thay đổi hành vi.
+ Thay đổi hành vi: KNS giúp người học hình thành hành vi tích cực; thay
đổi, loại bỏ hành vi tiêu cực.
7


+ Thời gian – môi trường giáo dục:
GD KNS càng sớm càng tốt đối với trẻ em, GD KNS cần được thực hiện ở
cả nhà trường, gia đình và cộng đồng, GD KNS cần được thực hiện thường
xuyên
* Nội dung giáo dục KNS cho HS trong nhà trường phổ thông:
+ Kĩ năng tự nhận thức: là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân. Để tự
nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là

qua giao tiếp với người khác.
+ Kĩ năng xác định giá trị: là khả năng con người hiểu rõ được những giá
trị của bản thân mình. KN này có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của
mỗi người, giúp người ta biết tôn trọng người khác…
+ Kĩ năng kiểm soát cảm xúc: là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của
mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản
thân và người khác, biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
+ Kĩ năng ứng phó với căng thẳng: là khả năng con người bình tĩnh, sẵn
sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một tất yếu của cuộc sống, là
khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng
thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng
thẳng.
+ Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Bao gồm các yếu tố sau:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
- Biết xác định được những địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
+ Kĩ năng thể hiện sự tự tin: Tự tin là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng
với bản thân… Nó giúp giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ, quyết đoán
trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề.
+ Kĩ năng giao tiếp: là khả năng bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói,
viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm.
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực: là biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự
quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho ý kiến phản hồi
mà không vội đánh giá, đồng thời có thái độ đối đáp hợp lí trong giao tiếp.
+ Kĩ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt mình
trong hoàn cảnh của người khác, qua đó hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người
khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
+ Kĩ năng thương lượng: là khả năng trình bày suy nghĩ, phân tích và giải

thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một số điều chỉnh và thống nhất về
cách suy nghĩ, cách làm hoặc về một vấn đề nào đó.
8


+ Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn: là khả năng con người nhận thức được
nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ
tích cực.
+ Kĩ năng hợp tác: là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam
kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
+ Kĩ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan và
toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng… xảy ra.
+ Kĩ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo
một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức
mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng,
quan điểm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
+ Kĩ năng ra quyết định: là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống
một cách kịp thời.
+ Kĩ năng giải quyết vấn đề: là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn
đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
+ Kĩ năng kiên định: là khả năng con người nhận thức được những gì mình
muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các
bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung
hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người khác.
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm: là khả năng con người thể hiện sự tự tin,
chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm...
+ Kĩ năng đặt mục tiêu: là khả năng của con người biết đặt ra mục tiêu cho
bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó.

+ Kĩ năng quản lí thời gian: là khả năng con người biết sắp xếp công việc
theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một
thời gian nhất định.
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: trong thời đại bùng nổ thông tin, kĩ
năng này là một kĩ năng quan trọng giúp con người có thể có được những thông
tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VIỆC GIÁO DỤC KNS CHO HS Ở
TRƯỜNG THCS TRẦN MAI NINH
1. Đặc điểm chung của nhà trường.
Biên chế năm học2015 – 2016:
* Học sinh: Tổng số 1449 học sinh/31 lớp,
* Cán bộ giáo viên: Tổng số: 77 người; CBQL: 04, TPT: 01, CBNV: 03. GV: 69
Trình độ đào tạo: Thạc sĩ: 05, Đại học: 70, Cao đẳng 02.
Thuận lợi và khó khăn
9


* Thuận lợi:
- Bộ GD-ĐT đã đổi mới và giảm tải về nội dung giảng dạy theo hướng dễ
áp dụng, dễ triển khai các phương pháp dạy học tích cực, tăng thực hành …
- Sở GD-ĐT, Phòng GD&ĐT đã thực hiện tập huấn đổi mới phương pháp
giảng dạy, kiểm tra đánh giá bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng; tập huấn GDKNS
thông qua PPGD và các môn học.
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, trường THCS Trần Mai Ninh
hiện nay tọa lạc trên một khuôn viên rộng hơn 5700 m2 tại khu đô thị Đông Bắc
Ga của TP Thanh Hoá, với hai khu nhà 4 tầng khang trang bề thế. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học đảm bảo để thực hiện dạy và học theo PP mới (31
phòng học đều được lắp máy chiếu). HS của trường được lựa chọn từ tất cả các
trường trong địa bàn TP Thanh Hoá đại đa số học giỏi, ngoan ngoãn, chịu khó
học tập và rèn luyện. Trường luôn có truyền thống đi đầu trong công tác triển

khai thực hiện các mục tiêu giáo dục, các phong trào thi đua của Bộ, của Ngành,
của địa phương. Do đó ngay từ đầu năm học, BGH đã chỉ đạo triển khai nhiệm
vụ rèn luyện KNS qua các hoạt động lồng ghép vào chương trình học, các môn
học và các hoạt động của nhà trường như:
- Hoạt động chuyên môn
- Hoạt động giáo dục Ngoài giờ lên lớp
- Hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề…
- Hoạt động đoàn thể, xã hội: xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực; bảo vệ môi trường, an toàn giao thông, xây dựng trường xanh – sạch – đẹp;
tham gia các hoạt động của địa phương…
* Khó khăn
- Cơ sở vật chất:
So với yêu cầu giáo dục thì vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chí để xây
dựng một trường chuẩn quốc gia: diện tích không đủ, không có bãi tập phục vụ
cho HĐGD thể chất, chưa có các phòng học chức năng…
* Về phía giáo viên:
+ Dù Bộ Giáo dục&Đào tạo đã thực hiện giảm tải chương trình giảng dạy
nhưng do áp lực thi cử của học trò quá cao nên giáo viên phải nghiêng nhiều về
dạy kiến thức.
+ Một số ít giáo viên chưa thực sự bắt kịp những thay đổi của xã hội. Họ
vẫn chỉ biết đến công việc giảng dạy trong nhà trường - ốc đảo tương đối bình
lặng so với những biến động phức tạp của xã hội. Bên cạnh đó có những giáo
viên chưa thật sự nắm vững tâm lý lứa tuổi của học trò.
Những nguyên nhân trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc GD KNS cho các em.
* Về phía phụ huynh:
10


+ Do xu hướng của thời đại, của cuộc sống chi phối nên đại đa số phụ
huynh chỉ chú ý đầu tư cho con cái học các môn “thời thượng” để dễ chọn ngành

nghề khi vào đại học rồi ra công tác. Họ xem nhẹ các môn học khác, lại càng
không muốn con tham gia các hoạt động tập thể.
+ Từ quan niệm ấy, phụ huynh bắt con cái học thêm quá nhiều, không có
thời gian cho con tự học và dành cho các hoạt động khác.
* Về phía học sinh:
+ Đại đa số được gia đình chăm lo, chiều chuộng quá nên có một bộ phận
sinh ra lối sống ích kỷ, thụ động, dựa dẫm vào bố mẹ.
+ Cũng do áp lực thi cử, chọn trường nên nhiều em học sinh học lệch, chạy
sô học thêm. Vì vậy hiện nay có một thực trạng đáng lo ngại là nhiều học sinh
không có khả năng tự học, đánh mất tư duy và cảm xúc trong học tập…
Tuy nhiên đội ngũ cán bộ giáo viên, dưới sự lãnh đạo của BGH nhà trường,
đã đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục.
Nhiều năm qua, trường liên tục được công nhận là trường tiên tiến cấp Tỉnh,
được UBND Tỉnh tặng cờ thi đua “Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua 2 tốt khối
THCS”, được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Nhì…
2. Thực trạng GD KNS cho học sinh năm học 2015-2016
Những năm trước đây, việc giáo dục KNS cho học sinh chưa mang lại hiệu
quả cao. Một trong những lý do đó là do sức ép về chương trình, về điểm số…
Vấn đề thi cử, chọn trường vẫn còn nặng nề, buộc giáo viên chú trọng vào việc
chuẩn bị cho HS thi cử hơn là dạy cho các em thái độ, kỹ năng ứng xử trong các
mối quan hệ (với con người, với môi trường thiên nhiên…)
Năm học 2015-2016, một trong những yêu cầu quan trọng mà Bộ Giáo
dục&Đào tạo đề ra là chú trọng thực hiện lồng ghép giáo dục giá trị sống, giáo
dục kỹ năng sống trong các môn học và các HĐ GDNGL.
Thực hiện nhiệm vụ năm học, trong kế hoạch hoạt động chuyên môn và kế
hoạch “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”, nhà trường đã chỉ đạo
cho tất cả các giáo viên, đặc biệt là Tổng phụ trách đội, 31 giáo viên chủ nhiệm và các
giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn, Lịch sử, Sinh học, Địa lý, GDCD…
chú trọng tổ chức các hoạt động và lồng ghép GD KNS cho học sinh. Các kỹ năng cần
GD như : Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng hợp tác lắng nghe, kỹ năng tự

tin phát biểu trước tập thể, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận
thức, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng thể hiện sự cảm
thông, kỹ năng giao tiếp…
• Kết quả điều tra các kỹ năng sống của học sinh năm học 2014 – 2015:
Tổng số học sinh được điều tra: 450/1449 HS trong toàn trường.
11


Các kỹ năng được điều tra

Mức độ đạt được
Khá(%)
TB(%)
Yếu(%)
72=16.0% 382=72.9% 15=3.3%
97=21.6% 300=66.7% 15=3.3%
72=16.0% 316=70.2% 25=5.6%
79=17.6% 291=64.7% 38=8.4%
102=22.7% 289=63.6% 27=6.6%
95=21.1% 268=68.6% 42=9.3%
37=8.2% 353=78.4% 35=7.8%
LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC KỸ

Tốt(%)
KN tìm kiếm và xử lý TT
35=7.8%
KN hợp tác lắng nghe
38=8.4%
KN tự tin phát biểu trước TT
37=8.2%

KN quản lý thời gian
42=9.3%
KN tư duy sáng tạo
32=7.1%
KN thể hiện sự cảm thông
45=10%
KN giao tiếp
25=5.6%
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên và phụ huynh học sinh
Muốn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường đạt hiệu quả cao thì
mỗi cán bộ giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của công việc này. Do đó
Ban giám hiệu đã cử CBGV tham dự đầy đủ các lớp tập huấn do Sở Giáo dục&Đào
tạo Thanh Hoá và Phòng Giáo dục&Đào tạo thành phố Thanh Hoá tổ chức. Các giáo
viên làm cốt cán về triển khai tại đơn vị. Trường cũng mua các tài liệu phục vụ cho
công tác này. Trong Hội nghị cán bộ công chức, viên chức đầu năm học, nhà trường
cũng đặt ra nhiệm vụ cùng các giải pháp cụ thể để thực hiện có chất lượng việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh. Có nhận thức đúng thì mỗi cán bộ giáo viên sẽ coi
đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường để có ý thức thực hiện
thường xuyên liên tục.
Với phụ huynh, chúng tôi triển khai nội dung trong Hội nghị các chi hội trưởng
của 31 lớp từ đầu năm học. Sau Hội nghị này, chi hội trưởng và giáo viên chủ nhiệm
sẽ triển khai đến từng phụ huynh trong các cuộc họp phụ huynh của lớp. Đồng thời
sợi dây liên lạc giữa GVCN, giữa nhà trường với phụ huynh phải luôn được kết nối,
duy trì trong cả năm học.
Ban giám hiệu nhà trường nhận thức rằng chỉ khi các bậc phụ huynh hiểu, đồng
thuận và cùng chung sức thì công tác giáo dục KNS cho học sinh mới đạt được hiệu
quả như mong muốn. Và như vậy thì nhà trường mới hoàn thành nhiệm vụ “trồng
người” thiêng liêng.

2. Lập kế hoạch và phân công nhiệm vụ
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu đã họp bàn, lên kế hoạch cho công tác
giáo dục kỹ năng sống và thông qua Hội đồng giáo dục nhà trường. Trong kế hoạch,
phân công rõ trách nhiệm cho từng bộ phận và cá nhân:
* Giáo viên chủ nhiệm:
- Thực sự đổi mới phương pháp thực hiện các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp; đưa giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động sinh hoạt chủ nhiệm; tạo
điều kiện cho học sinh rèn luyện, coi trọng việc tự rèn luyện của học sinh,
khuyến khích và động viên kịp thời, quan tâm đến học sinh thuộc diện đặc biệt;
12


phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan
trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống và cùng với nhà trường giáo dục, rèn
luyện cho con em về kĩ năng sống.
* Giáo viên Tổng phụ trách Đội:
- Có nhiều hình thức trong tổ chức các hoạt động tập thể gắn với nội dung
rèn luyện kĩ năng; đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt dưới cờ; gắn
việc rèn luyện kĩ năng với những nội dung cụ thể của Phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” như làm cho trường lớp xanh, sạch,
đẹp, đổi mới phương pháp học tập, chăm sóc các di tích lịch sử, văn hoá và cách
mạng, đưa tiếng hát dân ca và trò chơi dân gian vào trường học…
* Giáo viên bộ môn.
- Đưa giáo dục kỹ năng sống vào trong các giờ học bộ môn như kĩ năng tư
duy sáng tạo, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng giao tiếp…
* Học sinh:
- Trước hết các em phải nhận thức được rèn luyện kĩ năng sống là việc làm
cần thiết, trước hết có lợi cho việc học tập và sự tiến bộ về mọi mặt của chính
mình, cho gia đình và sau đó cho cộng đông, cho xã hội và đất nước. Tù đó có ý
thức tự nguyện, tự giác, tự chủ, phát huy tính tích cực trong mọi hoạt động rèn

luyện kĩ năng sống.
Tuy nhiên việc phân công nhiệm vụ như trên chỉ mang tính chất tương
đối. Để công tác giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đạt hiệu quả cao thì
cần phải có sự quản lý và hoạt động đồng bộ của BGH, của mỗi thành viên.
Cũng cần thấy rằng việc giáo dục kỹ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng và
đều đặn qua các tiết học là điều cốt lõi dẫn đến thành công. Đấy là chiến thuật
mưa dầm thấm lâu.
3. Quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống thông qua môn học
3.1. Giáo dục KNS thông qua dạy môn Ngữ văn
Có thể nói, với đặc trưng môn học về khoa học xã hội và nhân văn, môn
Ngữ văn là một trong những môn giúp HS có được những hiểu biết về xã hội,
văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người hiệu quả nhất.
Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn
ngữ để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội và con người.
Với tính chất về giáo dục thẩm mỹ, giáo dục về cái đẹp, nhận biết các đẹp,
môn Ngữ văn là một môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục
KNS cho HS.
* Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long (Ngữ văn 9), giáo viên sẽ giáo dục KNS cơ bản cho các em là: Tự
nhận thức giá trị của lối sống đẹp “sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Trên cơ sở ấy,
sẽ suy nghĩ, xúc cảm và trình bày suy nghĩ, cảm xúc về lối sống đẹp ấy trước tập
13


thể lớp (kỹ năng tư duy, kỹ năng tự tin). Học sinh cũng được rèn luyện kỹ năng
giao tiếp: trình bày suy nghĩ/ý tưởng, cảm nhận của bản thân về ý nghĩa của các
hình ảnh, chi tiết trong tác phẩm…
Học bài “Bố của Xi – mông” (Ngữ văn 9), các em sẽ đựơc giáo dục kĩ năng
thể hiện sự cảm thông, đặt mình trong hoàn cảnh của nhân vật, qua đó hiểu rõ
cảm xúc và tình cảm của chú bé Xi-mông, chị Blăng-sốt và cảm thông với hoàn

cảnh, ước muốn của họ. Các em cũng sẽ học được kỹ năng tự nhận thức về nỗi
đau của nhân vật, nhận thức về giá trị của lòng tốt qua nhân vật bác Phi-líp...
3.2. Giáo dục KNS thông qua dạy môn GDCD
Trong trường THCS, môn GDCD có nhiệm vụ cung cấp cho HS một hệ
thống các chuẩn mực giá trị đạo đức và pháp luật cơ bản cần thiết đối với người
công dân ở mức độ phù hợp với lứa tuổi. Qua đó học sinh được trang bị cách
ứng xử cần thiết, có đạo đức, có văn hóa, phù hợp với những quy định của pháp
luật, giúp HS biết sống hòa nhập với đời sống xã hội hiện tại với tư cách là một
chủ thể tích cực, năng động và làm một công dân có ích trong tương lai.
Một trong những đặc điểm của môn GDCD ở trường THCS là sự tích hợp
nhiều nội dung giáo dục. Bên cạnh nội dung cốt lõi, mang tính chất ổn định, còn
có các nội dung giáo dục các vấn đề xã hội (giáo dục bảo vệ môi trường, phòng
chống tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/ AIDS, giáo dục sức khỏe sinh sản, an
toàn giao thông, giáo dục giới tính...) nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách,
hình thành ở HS quan hệ ứng xử đúng đắn với những vấn đề của cuộc sống, của
đất nước, của thời đại, giúp HS có đủ bản lĩnh hội nhập trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay.
* Ví dụ: Dạy bài 13 " Phòng, chống tệ nạn xã hội" (GDCD8) các em sẽ được
giáo dục kỹ năng sống là: Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin về các tệ nạn xã hội và
tính chất nguy hiểm của nó; kỹ năng tư duy sáng tạo trong việc đề xuất các biện
pháp phòng chống các tệ nạn xã hội cho bản thân và cộng đồng; kỹ năng thể hiện
sự cảm thông, chia sẻ đối với bạn bè là nạn nhân của các tệ nạn XH, những
người nhiễm HIV/ AIDS và gia đình của họ.
3.3.Giáo dục KNS thông qua dạy môn Lịch sử
Môn Lịch sử giúp cho học sinh nhận thức được quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc và lịch sử nhân loại, từ đó có hành động và định hướng đúng đắn
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Không chỉ giúp học sinh có kỹ
năng nhận biết giá trị, giáo dục tinh thần dân tộc mà môn Lịch sử còn có thể rèn
cho học sinh những kỹ năng quan trọng khác.
* Ví dụ: Khi dạy bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mỹ cứu

nước(1965 – 1973) (Lịch sử 9), thông qua việc giới thiệu nội dung cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ để giáo dục cho HS kỹ năng nhận thức tội ác
của kẻ thù, nỗi đau trong chiến tranh và nỗi đau trong thời bình do bom mìn còn
14


sót lại; kỹ năng phòng tránh bom mìn, nhất là những vùng trước đây là chiến
trường ác liệt như khu vực Hàm Rồng – Nam Ngạn, Thanh Hoá…
3.4 Giáo dục KNS thông qua dạy môn Sinh học.
Môn sinh học THCS giúp HS nhận thức được đặc điểm hình thái, cấu tạo
của cơ thể sinh vật thông qua các đại diện nhóm vi sinh vật, nấm. thực vật,
động_vật_và_cơ_thể_người_trong_mối_quan_hệ_với_môi_trường_sống.
Trong XH hiện đại, khi môi trường sống của con người đang chịu đựng
những tác động xấu do chính con người gây ra thì môn Sinh học ngày càng đóng
góp vai trò đáng kể vào sự hiểu biết tổng hợp và toàn diện những vấn đề bức xúc
đó. Môn Sinh học cung cấp cho HS những phương pháp và cách thức tư duy
giúp các em hiểu biết, nhận thức; hình thành kĩ năng hành động giải quyết mối
quan hệ giữa người-môi trường và có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của
môi trường.
* Ví dụ: Dạy bài 64. "Các bệnh lây truyền qua đường tình dục" (Sinh học
8) KNS được giáo dục là: KN đặt mục tiêu: không để lây nhiễm các bệnh lây
qua đường tình dục; KN từ chối: Từ chối những lời rủ rê quan hệ tình dục sớm và tình
dục không an toàn; KN thu thập và xử lý thông tin khi HS đọc SGK, các tài liệu
khác để tìm hiểu về các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục; KN ứng phó với
những tình huống ép buộc, dụ dỗ, lừa gạt quan hệ tình dục…
Việc lồng ghép GD KNS trong tiết dạy bộ môn có thể được tiến hành ở
nhiều bộ môn như trên nhưng không thể áp dụng ở tất cả các tiết, các bài được.
Do đó giáo viên thực hiện phải nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, phải luôn
liên hệ nội dung bài học với thực tế cuộc sống và đặc biệt phải tận dụng sự đổi
mới phương pháp dạy học, phải thực sự sáng tạo và linh hoạt.

4. Giáo dục KNS thông qua Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Một trong những phương pháp hữu ích và thân thiện nhất để rèn KNS cho học
sinh đó là giáo dục thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Một trong ba nhiệm vụ của HĐ GDNGLL là hình thành hệ thống kỹ năng,
hành vi. Đây là nhiệm vụ nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng thực hiện các công
việc lao động đơn giản, các kỹ năng sáng tạo nghệ thuật, thực hiện các bài thể dục,
các trò chơi, các hành vi ứng xử đối với mọi người trong gia đình, trong nhà trường
và trong xã hội. Thông qua các hoạt động, học sinh được rèn những kỹ năng
tham gia hoạt động tập thể, kỹ năng tổ chức những hoạt động chung cùng nhau,
biết phối hợp với mọi người cùng thực hiện hoạt động chung, nâng cao ý thức tự
chủ, tự tin, chủ động và giao tiếp với mọi người. Trên cơ sở những kỹ năng,
hành vi này, học sinh rèn luyện những kỹ xảo, thói quen đạo đức bền vững và tự
quản trong sinh hoạt tập thể. Như vậy, các nhà trường cần phải biết tận dụng và
phát huy nhiệm vụ này của hoạt động ngoài giờ lên lớp để góp phần rèn luyện
KNS cho học sinh.
15


- Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan
trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là học sinh
tiểu học, THCS. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ
ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt
động này góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám
đông, sáng tạo trong công việc. Trong năm học, nhà trường đã tổ chức cho các
em diễn văn nghệ chào mừng năm học mới, tổ chức “Ngày hội tuổi thơ” chào
mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 và thi kể chuyện về Bác Hồ ...
- Hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao: Vui chơi, giải trí là nhu cầu
thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có
ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh
thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm

chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết,
lòng nhân ái...Nhà trường tổ chức cho các khối lớp giao lưu bóng đá, bóng
chuyền và tổ chức các trò chơi dân gian trong dịp kỷ niệm ngày Nhà giáoViệt
Nam 20-11
- Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa học sinh vào các hoạt động xã hội để
giúp các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước. Đây là một hoạt động
tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua hoạt động này,
các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Trường đã
tổ chức cho các em thăm hỏi các gia đình có công với Cách mạng nhân dịp ngày
thương binh, liệt sĩ 27-7, chăm sóc các di tích lịch sử. Đặc biệt những năm gần
đây, nhà trường đã chú trọng tổ chức các hoạt động thiện nguyện, giao lưu chia
khó với các ban học sinh ở vùng cao. Qua đó giáo dục tình cảm nhân văn, lối
sống nhân ái, biết đồng cảm sẻ chia cho HS

Chăm sóc chùa Mật Đa và đền thờ Chu Văn Lương

16


Chia khó vùng cao

Thăm di tích lịch sử Lam Kinh
Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của
hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó
với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ hiểu
thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động
công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp
học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp
.


17


- Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật: Hoạt động này giúp các em tiếp
cận được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến. Đây là một hoạt động
nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học, rèn óc
tư duy sáng tạo và tự khẳng định mình.

IV. KIỂM NGHIỆM
Với một số giải pháp quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
như đã trình bày ở trên, bước đầu chúng tôi thấy đã có được kết quả đáng mừng:
Các em tiến bộ về kỹ năng hợp tác, giao tiếp ứng xử, lắng nghe, đánh giá….có
trách nhiệm, có kỹ năng quản lý về thời gian trong học tập; sưu tầm thu thập
kiến thức, rèn kỹ năng tự học, tìm kiếm xử lý thông tin tốt hơn; biết vận dụng
kiến thức đã học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe; biết sẻ chia, yêu thương,
giúp đỡ, đoàn kết…
KẾT QUẢ :
Mức độ đạt được
Các kỹ năng được điều tra
Tốt(%)
Khá(%)
TB(%)
Yếu(%)
KN tìm kiếm và xử lý TT
55=12.2% 92=20.4% 295=65.6%
8=1.8%
KN hợp tác lắng nghe
68=15.1% 124=27.6% 251=55.8%
7=1.5%
KN tự tin phát biểu trước TT

75=16.7% 105=23.3% 260=57.8% 10=2.2%
KN quản lý thời gian
65=14.4% 112=24.8% 254=56.4% 19=4.2%
KN tư duy sáng tạo
52=11.6% 145=32.2% 241=53.5% 12=2.7%
KN thể hiện sự cảm thông
72=16.0% 255=56.7% 106=23.6% 17=3.7%
KN giao tiếp
38=8.4% 95=21.1% 295=65.6% 22=4.9%

18


C - KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN:
Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đời sống kinh tế xã hội
có nhiều thay đổi, thanh niên, học sinh đang trải qua nhiều biến động cả tích cực lẫn
tiêu cực thì việc giáo dục, hình thành cho các em học sinh các kỹ năng sống tích cực
như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng kiên định, kỹ năng ứng phó
với căng thẳng, kỹ năng hợp tác, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng ra quyết định
và giải quyết vấn đề… dựa trên các giá trị như: Hoà bình, tôn trọng, hợp tác, chia
sẻ, trách nhiệm, yêu thương, đoàn kết.. là rất cần thiết. Từ đó các em có lối sống tích
cực, biết vượt qua các khó khăn, tôn trọng, đoàn kết, yêu thương mọi người, trưởng
thành, tự tin trong nhận thức và cuộc sống để trở thành những chủ nhân thực sự của
đất nước .
II. KIẾN NGHỊ:
Qua thực tế quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống trong trường THCS Trần
Mai Ninh, chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
Các nhà trường phải xem đây là một nhiệm vụ quan trọng trong việc “Xây
dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích cực" và là mục tiêu nhằm nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Muốn làm tốt, phải kết hợp nhiều giải pháp
đồng bộ, có sự tham gia tích cực của nhiều thành phần trong và ngoài nhà trường;
cần điều tra hiện trạng hiểu biết của HS, qua đó xây dựng chương trình GD phù hợp với
tâm sinh lý lứa tuổi, có các giải pháp áp dụng cụ thể cho từng lứa tuổi.
Phòng Giáo dục&Đào tạo, Sở giáo dục&Đào tạo có thể mở các Hội thảo
trao đổi kinh nghiệm về công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong các
nhà trường; cần có những tài liệu cơ bản về công tác này.
Với nhận thức về trách nhiệm của nhà trường, gia đình và toàn xã hội trong
vấn đề GD KNS cho học, đặc biệt là trong giai đoạn chúng ta đang thực hiện đổi
mới căn bản toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết 29 của Ban chấp hành TW
khoá XI, tôi tin tưởng công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong các
nhà trường sẽ có nhiều khởi sắc hơn nữa.
Trong quá trình thu thập tài liệu, nghiên cứu và viết SKKN, chắc chắn
không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa
học Ngành, của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành
cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

TP Thanh Hóa, ngày 15/4/2016
CAM KẾT KHÔNG COPY

Người viết

19


Lê Thị Nga
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu GDKNS trong môn Ngữ văn ở trường THCS.
- Tài liệu GDKNS trong môn Địa lý ở trường THCS.

- Tài liệu GDKNS trong môn Sinh học ở trường THCS.
- Tài liệu GDKNS trong môn GDCD ở trường THCS.
- Tài liệu GDKNS trong môn HĐNGLL ở trường THCS.
- Tài liệu tập huấn về GDKNS cho HS THCS.
- Một số bài viết bàn về vấn đề GDKNS cho HS THCS trên webside của
Bộ GD-ĐT; Báo QĐND; Báo GD&TĐ; Báo Lao Động; trên diễn đàn giáo dục
của các địa phương và một số bài viết của các bạn đồng nghiệp.

20



×