Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn luyện văn hóa giao tiếp, ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7b trường THCS thọ bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.81 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1
1
1
2

B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
4. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn
luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường.
4.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên
nhân và biện pháp giáo dục.
4.3. Xây dựng nội dung và thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp
ứng xử học đường cho học sinh.
4.4. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo
viên bộ môn Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện kỹ năng giao tiếp
ứng xử cho học sinh.
4.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện kỹ năng giao
tiếp ứng xử cho học sinh.
5. KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ
5.1. Phương pháp kiểm nghiệm


5.2. Kết quả kiểm nghiệm
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

2
4
4
4
6
7
7
7
10
12
12
13
13
14
15


A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người
ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm trong
thời gian qua đó là văn hoá ứng xử, khả năng giao tiếp trong cuộc sống của giới trẻ,
trong đó có học sinh, còn nhiều hạn chế. Vì thế, nhà trường là nơi tổ chức giáo dục
và định hướng đúng đắn cho học sinh, phải là nền tảng vững chắc và trang bị cho
các em kỹ năng giao tiếp trở thành kỹ năng sống trong học tập khi ở nhà trường và
cuộc sống ngoài xã hội sau này.
Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của

giáo dục thế kỷ XXI đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và
học để cùng chung sống”[1]. Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã và đang chuyển
hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị kỹ năng sống nhằm đào tạo
những con người toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới. Vậy, việc rèn
luyện kỹ năng sống là việc rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, nhà trường
phải xác định mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là đào tạo những con người toàn
diện và là nơi giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, trang bị đầy đủ cho
học sinh kiến thức và kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp ứng xử để nó trở
thành vốn sống trong học tập và cuộc sống của các em sau này.
Để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho
học sinh thì phải bắt đầu từ việc xây dựng chuẩn hành vi đạo đức và thực hiện các
quy tắc giao tiếp ứng xử có văn hóa. Làm được điều đó chúng ta sẽ thực hiện tốt
chức năng của nhà trường, tạo ra không gian văn hóa học đường, góp phần đào taọ
thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp phát
triển Giáo dục và Đào tạo. Hơn nữa, trường THCS Thọ Bình ở địa bàn miền núi
các em còn nhiều hạn chế trong giao tiếp ứng xử, nghèo về vốn sống. Bản thân tôi
làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi luôn nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng giao
tiếp cho học sinh lớp chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay là cần thiết hơn bao giờ
hết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp rèn luyện văn hoá
giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ
nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong
năm học 2016 - 2017.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát, tìm hiểu thực trạng giao tiếp ứng xử học đường của học sinh hiện
nay cụ thể là học sinh lớp chủ nhiệm 7B . Từ đó để tìm ra các giải pháp hợp lý
nhằm rèn luyện kỹ năng gao tiếp ứng xử giữa “Học sinh và học sinh; học sinh và
thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong nhà trường”.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào công tác chủ
nhiệm, tôi chọn 2 lớp của trường THCS Thọ Bình, cụ thể:

- Lớp đối chứng : Lớp 7 A năm học 2016 - 2017.
2


- Lớp thực nghiệm: Lớp 7 B năm học 2016 – 2017.
Là học sinh cùng khối , lại chủ yếu là con em nông thôn nên có nét tương đồng
giống nhau.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chủ yếu là phương pháp thực nghiệm, đối chứng.Tôi tận dụng tối đa thời gian
trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt cuối tuần với lớp chủ nhiệm
để rèn luyện kỷ năng giao tiếp cho học sinh. Ngoài ra còn tôi còn phối hợp với giáo
viên bộ môn để thảo luận một số hình thức cũng như tìm hiểu một số nội dung phù
hợp để tiến hành thực nghiệm.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát chung về kỹ năng sống:
1.1.1. Kỹ năng sống là gì?
- Quan niệm của UNESCO:
Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là: Học để biết
(Learning to know); Học để làm (Learning to do); Học để chung sống với người
khác (Learning to live together); Học để tự khẳng định mình (Learning to be). Có
thể hiểu KNS là: kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và
hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc.[1]
- Quan niệm của WHO:
Từ góc độ sức khỏe, WHO xem KNS là những kỹ năng thiết thực mà con
người cần có để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những
năng lực mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với
người khác và giải quyết hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống
hàng ngày.[1]
- Quan niệm của UNICEF:

KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp
cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Tóm lại: KNS ở đây là năng lực tâm lí xã hội, tính thích ứng giúp cá nhân có khả
năng làm chủ bản thân, đối phó và giải quyết hiệu quả trước các nhu cầu (sinh
sống, học tập, lao động) và các thách thức (tệ nạn, căng thẳng, mâu thuẫn…) hay
biến cố nào đó xảy ra trong cuộc sống. KNS chính là nhịp cầu giúp con người biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.[1]
1.1.2. Phân loại kỹ năng sống:
- Theo WHO, KNS được chia thành 3 nhóm:
+ Kỹ năng nhận thức, bao gồm các kỹ năng cụ thể như: tư duy phê phán, tư duy
phân tích, khả năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, ra quyết định,
tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị…
3


+ Kỹ năng đương đầu với xúc cảm, bao gồm: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm
chế căng thẳng, kiểm soát được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điểu chỉnh…
+ Kỹ năng xã hội (hay kỹ năng tương tác), bao gồm: giao tiếp; tính quyết đoán;
thương thuyết, từ chối, hợp tác; sự cảm thông, chia sẻ; khả năng nhận thấy
sự thiện cảm của người khác…[1]
- Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI:
+ Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định, giải quyết vấn đề, nhân thức được hậu quả…
+ Học để làm:gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng
đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
+ Học để chung sống với người khác: gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp,
thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông.
+ Học để tự khẳng định mình: gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…[1]
- Theo lí thuyết của Bloom, KNS được phân loại:

+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực nhận thức: Kỹ năng tư duy sáng tạo và tư duy
phê phán.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tình cảm: kỹ năng tự nhận thức và thấu cảm, tự
trọng và trách nhiệm xã hội.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tâm vận động:
* Ra quyết định và giải quyết vấn đề.
* Quan hệ liên nhân cách và giao tiếp.
* Tự nhận thức.
* Thấu cảm.
* Tư duy sáng tạo.
* Tư duy phê phán.
* Đương đầu với cảm xúc và căng thẳng.
* Trách nhiệm xã hội.
* Tự trọng.[1]
Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu
và thách thức của cuộc sống một các có hiệu quả.
Văn hóa học đường ở Việt Nam cần đảm bảo ba yếu tố: Cơ sở vật chất đảm
bảo, môi trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử giao tiếp. Qua cách nhìn nhận ấy,
chúng ta thấy rằng học đường là môi trường góp phần quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà khẳng định: Trong văn hóa có giáo
dục, giáo dục không chỉ là nội dung mà còn là con đường giữ gìn và phát triển văn
hóa. “Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ đến giáo dục. Ở một phương diện nào đó giáo
dục chính là giao tiếp. Giao tiếp không chỉ là hình thức phương tiện của giáo dục
mà còn là nội dung quan trọng của giáo dục” và “Giao tiếp ứng xử có quan hệ chặt
chẽ với giáo dục”. Hay nói cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục chính là
4


giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Theo giáo sư thì giáo dục văn hóa

giao tiếp ứng xử trong nhà trường hiện nay cần chú ý tới 2 điểm:
Thứ nhất là truyền thống và hiện đại. Ở đây vai trò của nhà trường rất quan
trọng trong quá trình rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho các em. Chính nhà
trường chứ không phải Chính phủ, báo chí hay dư luận xã hội quyết định vấn đề
này. Chào như thế nào, thưa như thế nào, xưng hô ra sao... nhà trường sẽ lựa chọn
và quy định. Quy định này không phải do Hiệu trưởng quy định mà dựa trên cơ sở
khoa học, trên các nghiên cứu, tham vấn...
Thứ hai là dân tộc và quốc tế, theo giáo sư chính công cuộc hội nhập và phát
triển một cách ồ ạt của công nghệ thông tin đã tạo ra một “Thế giới phẳng” khiến
cho khoảng cách giữa các dân tộc, Quốc gia và con người được rút ngắn lại rất
nhiều, cử chỉ, xưng hô cũng ảnh hưởng, pha trộn nhau khiến cho tính nhân văn, đạo
đức trong ngôn ngữ giao tiếp có ít nhiều ảnh hưởng.[2]
Có thể nói văn hóa giao tiếp ứng xử của học sinh là tổng hợp các giá trị, các
chuẩn mực, niềm tin và hành vi ứng xử của các thành viên trong và ngoài nhà
trường phù hợp với các chuẩn mực văn hóa. Văn hóa giao tiếp ứng xử trong nhà
trường bao gồm văn hóa chấp hành pháp luật; văn hóa giao tiếp, ứng xử với người
xung quanh; văn hóa bảo vệ môi trường...
Trong xã hội tiên tiến, học sinh ngày nay càng thông minh nhạy bén, dễ tiếp
thu cái mới, cái đẹp nhưng cũng dễ nhiễm cái xấu. Nhân cách của học sinh được
hình thành qua hai con đường cơ bản trong nhà trường: Con đường dạy học và con
đường giáo dục kỹ năng sống, trong đó kỹ năng giao tiếp ứng xử đóng vai trò quan
trọng.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1.Thuận lợi:
Được sự quan tâm, ủng hộ của Ban giám hiệu cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ
của đồng nghiệp.
Sự ủng hộ của phụ huynh học sinh trong lớp.
Bản thân tôi là người công tác nhiều năm trong ngành giáo dục và làm công
tác chủ nhiệm nhiều năm, nên đã có nhiều kinh nghiệm, có vốn sống và luôn mẫu
mực trong lời nói và gương mẫu trong việc làm.

Các em là con em nông thôn nên có nhiều em ngoan, vâng lời thầy cô giáo.
Đây là những thuận lợi để giáo dục các em ngay trong thời gian đầu năm học.
2.2. Khó khăn:
Trường THCS Thọ Bình là trường thuộc xã miền núi của huyện Triệu Sơn . Học
sinh của trường toàn là con em nông thôn, điều kiện kinh tế nghèo nàn. Vì vậy điều
kiện học tập và môi trường rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử còn rất nhiều hạn
chế.
Vì là một trường miền núi nên điều kiện tiếp cận của học sinh với sách báo
,các kênh truyền thông, mạng internet còn hạn chế.
Được sự phân công của nhà trường, năm 2016- 2017 tôi làm công tác chủ
nhiệm lớp 7 B. Lớp 7 B sĩ số 42 trong đó có 20 em nam và 22 em nữ.
5


Đối tượng học sinh của lớp chủ nhiệm 7B rất đông và đa dạng, mỗi học sinh
là một cá tính, một hoàn cảnh sống, có phản ứng khác nhau đối với việc học tập,
tìm hiểu thế giới bên ngoài và đặc biệt là khác nhau về phong cách, thái độ giao
tiếp ứng xử. Nên quá trình hình thành nhân cách, suy nghĩ và nhận thức của các em
không giống nhau, môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến
cho các em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kỹ năng sống, kỹ
năng giao tiếp ứng xử học đường. Tôi xác định việc rèn luyện văn hóa giao tiếp
ứng xử học đường cho các em học sinh lớp chủ nhiệm là một quá trình lâu dài, tỉ
mỉ, công phu chứ không phải là bước một, bước hai là đã có kết quả ngay được.
Bởi vì, bản thân các em được tác động rất lớn bởi môi trường giáo dục của gia
đình, nhà trường và xã hội. Do đặc điểm của lớp như vậy tôi xác định công tác chủ
nhiệm lớp sẽ gặp không ít khó khăn.
Tôi quan sát các hoạt động của các em, chú ý đến cách giao tiếp ứng xử của
các em với thầy cô giáo, giữa các em với bạn bè, tôi nhận thấy tất cả các em có kỹ
năng giao tiếp ứng xử không đồng đều trong đó một số em có rất nhiều hạn chế.
Ngay đầu năm học tôi tiến hành điều tra ở 2 lớp , một là lớp tôi chủ nhiêm và một

là lớp tôi không chủ nhiệm. Tôi giành 10 phút trong tiết sinh hoạt cuối tuần để điều
tra sự hiểu biết của các em về văn hóa giao tiếp ứng xử học đường, nhận thức về
vai trò của giao tiếp ứng xử trong giai đoạn hiện nay còn hạnh kiểm của các em
trong năm học lớp 6 tôi điều tra qua học bạ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện.
Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo tính bí
mật.
Bảng 1
Mức độ hiểu về kỹ năng giao tiếp ứng xử
Lớp

Hiểu đúng
Hiểu gần
Hiểu sơ sài
Không hiểu gì
số
đúng
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7B
42
0
0
5

11,9
33
78,6
4
9,5
7A
44
0
0
5
11,3
30
68,2
9
20,5
Bảng 2
Nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
Sĩ số
đường trong giai đoạn hiện nay
Lớ
Rất cần thiết
Cần thiết Bình thường
Không cần thiết
p
SL
%
SL
%
SL
%

SL
%
7B
42
4
9,5
14 33,3
18
42,9
6
14,3
7A
44
5
13,4
15 34,1
18
40,9
6
13,6

Lớp

SS

Tốt
SL

%


Bảng 3
Hạnh kiểm lớp 6
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%

Yếu-Kém
SL
%
6


7B
7A

42
44

30
15

71,4 10
34,1
25

23,8
56,8


2
4

4,8
9,1

0
0

0
0

Từ kết quả điều tra trên tôi nhận thấy dù ở các em đa số đều được xếp hạnh
kiểm loại Tốt – Khá , số ít xếp loại TB nhưng khi khảo sát về kỹ năng nhận thức ,
giao tiếp của các em vẫn còn hạn chế do những nguyên nhân sau:
- Trong nhà trường, giáo viên chỉ chủ yếu quan tâm đến việc dạy kiến thức cho học
sinh, chưa quan tâm nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
- Cách giáo dục, uốn nắn của gia đình chưa đúng mức. Sự nhận thức của một số
bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế nên dẫn đến xem nhẹ việc giáo dục cho con em
mình về văn hóa giao tiếp ứng xử. Hơn nữa, do ảnh hưởng văn hóa tiêu cực của gia
đình như bố mẹ không hạnh phúc, bố thường xuyên say rượu, các thành viên trong
gia đình thường sảy ra xung đột...
- Đại đa số các em đều là con nông thôn, chưa được va chạm nhiều, không có môi
trường để rèn luyện, nên khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ kém.
- Cũng như các lĩnh vực khác trong xã hội, văn hóa giao tiếp ứng xử học đường
cũng bị chi phối bởi: Mặt trái của kinh tế thị trường, do tác động của khoa học công
nghệ, do văn hóa phẩm không lành mạnh… Vậy nên nó sẽ tác động tiêu cực tới
việc hoàn thiện nhân cách của học sinh.
Thực tế học sinh ở lớp 7 B, khi chào hỏi thầy cô giáo thái độ chưa nghiêm

túc, chưa lễ phép. Khi bạn bè nói chuyện với nhau chưa đúng cách xưng hô, hay
dùng những từ như “mi ”, “tao”, đôi khi còn xử dụng các từ mang tính văng tục,
thiếu văn hoá. Một số em thiếu bản lĩnh nên dễ bị lôi kéo dẫn đến đua đòi, bắt
chước, nhiễm các thói hư tật xấu của nhóm bạn chưa ngoan. Một số học sinh khác
ngại phát biểu bài hoặc khi phát biểu bài thì giọng nói lí nhí, câu trả lời không rõ
ràng mạch lạc. Trong tập thể ít đấu tranh, không mạnh dạn, không dám nói lên suy
nghĩ của mình, ít xây dựng ý kiến, có những em không biết bắt đầu một câu chuyện
dù là đơn giản nhất. Còn một số học sinh nữa là chưa được giáo dục kỹ năng sống
một cách toàn diện của nhà trường và gia đình biểu hiện thái độ phân biệt giữa các
thầy cô đang dạy mình hay không giảng dạy mình, giữa các thầy cô dạy các môm
chính ( Toán ,Văn ,Anh) và thầy cô không dạy các môn phụ, giữa các thầy cô bộ
môn và thầy cô chủ nhiệm.Trước những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã đưa ra
một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh lớp
chủ nhiệm.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ năng
giao tiếp ứng xử học đường.
3.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp
giáo dục.
3.3. Xây dựng nội dung và thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
đường cho học sinh.
3.4. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn,
bộ môn GDCD để rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
7


3.5. Phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc rèn luyện kỹ
năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
4. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ

năng giao tiếp ứng xử học đường.
Trong ca dao có câu “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng
dịu dàng dễ nghe” hay “ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”. Giao tiếp ứng xử học đường đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của
mỗi người học sinh. Giao tiếp tốt giúp các em xây dựng và duy trì những mối quan
hệ hữu ích giữa các em với bạn bè và thầy cô, thành công trong học tập. Mục đích
cuối cùng của việc rèn luyện và học tập đó là tạo vốn sống để tìm một công việc
thật tốt sau này. Hiện nay một trong 3 yêu cầu hàng đầu của nhà tuyển dụng là giao
tiếp ứng xử. Có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt nó tạo cho ta nhiều cơ hội tốt sau này.
Vậy, giao tiếp ứng xử là hành trang không thể thiếu của những con người thành đạt.
Như người ta thường nói “Nếu dạy chữ, dạy kiến thức là thuần trí tuệ thì dạy
lễ, dạy nghĩa lại cần đến cả trái tim, tâm hồn, tình cảm, dạy bằng cả nhân cách
của chính mình”.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ đươc nhiều
yếu tố như đạo đức tốt; có đức tính kiên trì và nhẫn nại; mẫu mực về lời nói, hành
vi, cử chỉ trong giao tiếp ứng xử, tác phong làm việc, trình độ chuyên môn, trang
phục, luôn trau dồi về kiến thức tâm lý lứa tuổi; luôn tự rèn luyện và nâng cao kỹ
năng giao tiếp của bản thân, coi việc rèn luyện giao tiếp ứng xử cho học sinh phải
trở thành thói quen của mình; luôn tìm hiểu các thế hệ học sinh đã thành đạt của
nhà trường để rút ra bài học kinh nghiệm cho thế hệ học sinh sau này.
4.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên nhân và
biện pháp giáo dục.
Tôi phân thành 3 nhóm học sinh cần tác động:
Nhóm 1: Là những học sinh có học lực khá, hạnh kiểm tốt. Ngoan hiền, lễ
phép, đi đứng nghiêm túc, xưng hô đúng mực. Tham gia tích cực các hoạt động,
thường xuyên nhắc nhở những bạn hay có thái độ không nghiêm túc.
Nhóm 2: Bộc lộ cá tính trong giao tiếp nhưng chưa được định hướng, là
những học sinh có những biểu hiện như: Không đứng dậy chào thầy cô khi thầy cô
vào lớp, một số em đứng không nghiêm túc, nói năng vô tổ chức hoặc khi nói với
thầy cô không phân biệt trên dưới, nói ngang, nói tự do trong lớp. Khi tan học vội

vàng gấp sách vở và phóng chạy ra khỏi lớp không cần sự cho phép của thầy cô
giáo. Trong các hoạt động vui chơi, giao tiếp ứng xử với bạn bè các em nói tục, nói
bậy, bè phái, tính tình nóng nảy và chưa biết quan tâm chia sẽ với các bạn trong lớp
khi tham gia các hoạt động giáo dục
Nhóm 3: Là những học sinh không có chứng kiến: nhút nhát, ít nói; không
gần gũi bạn bè và thầy cô; ít chia sẻ, ngại phát biểu bài; không giám phát biểu ý
kiến; không có quan điểm rõ ràng và dễ nản lòng khi gặp khó khăn.
8


Những học sinh ở nhóm 1: Là những gia đình có cuộc sống khá ổn định,
trình độ nhận thức của bố mẹ rất cao, thường xuyên chăm lo việc học tập của con
cái. Những học sinh ở nhóm này được giáo dục trong một môi trường tốt. Vì vậy,
lời nói và hành động của các em chững trạc hơn.
Những học sinh ở nhóm 2: Hoàn cảnh gia đình các em thường xảy ra xung
đột, trình độ nhận thức của bố mẹ rất nhiều hạn chế, khi gặp phụ huynh để trao đổi
về tình hình học tập và rèn luyện của con em. Tôi nhận thấy bản thân phụ huynh
còn có quá nhiều hạn chế trong giao tiếp ứng xử. Vì vậy, các em bị ảnh hưởng văn
hóa tiêu cực của gia đình
Những học sinh ở nhóm 3: Một số em thiếu tự tin về năng lực học tập, về
ngoại hình, về hoàn cảnh gia đình. Hoặc có năng lực học tập nhưng chưa cân bằng
được việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống, chưa được nhà trường và
gia đình giáo dục một các toàn diện.
Vậy tôi đưa ra các biện pháp cho từng nhóm như sau:
Đối với nhóm 1: Là những học sinh ngoan hiền, lễ phép. Vì thế tôi nghỉ chỉ
cần rèn luyện thêm một ít kỹ năng trong quá trình giao tiếp, như: Cách trình bày
một vấn đề, nội dung...và lấy những học sinh này làm cơ sở cho quá trình rèn luyện
những học sinh ở 2 nhóm sau.
Đối với nhóm 2: Theo tôi cần có những biện pháp tác động mạnh giữa giáo
viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh. Tôi chú ý đến việc rèn luyện đạo đạo

đức cho các em trước. Tôi thường xuyên để ý, theo sát và uốn nắn kịp thời từ cái
biểu hiện nhỏ nhất, phân tích cho các em cái hay, cái đẹp cho các em, tách dần ra
nhóm bạn xấu, tìm cách tác động để các em về với tập thể lớp. Đối với học sinh có
tính tình nóng nảy tôi phân tích để các em nhận thức được : Khi nóng nảy đầu óc ta
không tỉnh táo khi đó sự việc có thể phức tạp hơn và nó gây bất lợi cho các em, tôi
lấy một số ví dụ dẫn chứng và tôi giáo dục các em qua nội dung câu chuyện
Câu chuyện thứ nhất “ Những lỗ đinh”.
Một cậu bế tính tình rất nóng nảy và cộc cằn. Người cha biết ý con như vậy
nên mới đưa cho cậu một túi đinh và dặn rằng. Mỗi khi con nổi nóng hay nặng lời
với ai hãy đóng một cây đinh vào hàng rào gỗ phía sau vườn và suy nghĩ việc mình
đã làm. Những ngày đầu tiên cậu đã đóng 12 chiếc đinh vào hàng rào.
Kể những ngày sau cậu cố gắng kềm chế cơn giận của mình thì số đinh đóng
trên hàng rào mỗi ngày một giảm dần. Cho đến ngày cậu không đóng đinh lên
tường rào nữa. thấy tính tình mình có thay đổi cậu kể lại với cha, người cha nói
rằng. Nếu mỗi lần con gặp điều bực mình mà tâm con không giận thì con hãy nhổ
bớt một cây đinh đã đóng trên hàng rào. Nhiều ngày trôi qua tất cả các số đinh
được đóng trên hàng rào được nhổ sạch. Cậu thông báo cho cha biết. Người cha
dẫn cậu ra hàng rào và nói: Con đã làm rất tốt, Nhưng con hãy nhìn vào tường rào
những lỗ đinh trên tương rào đã làm cho hàng rào không còn nguyên vẹn như xưa
nữa. Cũng như những lời con thốt ra trong lúc con giận dữ sẽ để lại trong lòng
người khác những vết thương giống như những lỗ đinh này. Cho dù con có nói lời
xin lỗi bao nhiêu lần thì vết thương vẫn còn đó. Vết thương tâm hồn rất khó hàn
9


gắn và chỉ có thể làm được khi có tình thương yêu chân thành trong lòng mọi
người.[2]
Câu chuyện thứ 2: “Cậu bé và hũ đậu phộng”
Cậu bé thấy hũ đậu phộng để trên bàn thích quá muốn lấy một ít để ăn. Cậu
thọc tay vào hũ và cố bốc một nắm rõ to. Tuy nhiên, cố bốc được nhiều hạt đậu

nắm tay quá to để rút ra khỏi miệng hũ nhỏ hẹp được.
Cậu bé vừa cố nắm chặt vốc hạt đậu vừa cố gắng kéo tay ra. Chẳng những không
lấy tay và đậu ra được mà tay cậu còn kẹt cứng vào chiếc hũ. Đau quá cậu bật khóc.
Lúc ấy Mẹ cậu chạy vào hỏi: Có chuyện gì vậy con?
Cậu bé vừa khóc vừa trả lời: Con không làm sao lấy nắm đậu này ra khỏi hũ được
Mẹ ạ! Ô, đừng có nóng vội như thế. Con cứ lấy từ từ mỗi lần hai ba hạt thì tay con
đâu bị kẹt trong đó. Cậu bé làm theo cách Mẹ chỉ, vừa lấy mấy hạt đậu ra khỏi hũ
vừa nhỏe miệng cười: Đúng Mẹ ạ, thật dễ dàng! Lẽ ra con phải tự mình nghĩ ra
điều ấy chứ nhỉ![2]
Đối với nhóm 3 : Tôi thiết nghĩ chỉ cần giáo dục nhẹ nhàng.
Đây là những học sinh có tính cách rụt rè, có ngoại hình không ưa nhìn, có
hoàn cảnh gia đình đặc biệt, có năng lực học tập chưa cân bằng được việc tiếp thu
kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống, chưa được giáo dục một cách toàn diện của
gia đình và nhà trường. Tôi động viên và tạo cơ hội cho các em hòa nhập với các
bạn. Kết hợp với giáo viên bộ môn cố gắng tìm ra điểm mạnh để khích lệ các em.
Trong tiết học luôn đặt các câu hỏi đơn giản , nhẹ nhàng để các em dể tiếp thu. Tìm
các cơ hội để gần gũi, động viên để các em vượt lên hoàn cảnh của bản thân hòa
nhập cùng các bạn, Đồng thời tôi nêu các tấm gương vượt khó trong nhà trường để
các em có nhiều niềm tin trong cuộc sống của mình. Trong tiết học của tôi hoặc các
buổi sinh hoạt lớp, tôi tập cho các em mạnh dạn phát biểu ý kiến hoặc nhận xét ý
kiến của bạn. Luôn chú ý điều chỉnh các em qua cách nói chuyện giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh và học sinh.
Tôi kể cho các em nghe câu chuyện:
Chàng trai khuyết tật vượt lên số phận với một trái tim rực lửa
Đó là Đặng Thế Lịch, một chàng trai sinh năm 1992 tại mảnh đất khô cằn đầy
nắng và gió Hoằng Hóa - Thanh Hóa. Lịch không được may mắn như bao người
khác, khi sinh ra cha mẹ anh vui mừng khôn xiết nhưng niềm vui đó cứ bớt dần khi
những bước đi của anh cứ tập tễnh đến lạ thường. Gia đình đưa anh đi khám thì
phát hiện đôi chân của anh đã không bình thường, nhiều khi nhìn anh cố những
bước đi trong đau đớn mà cha mẹ anh nuốt nước mắt vào trong. Thế rồi bằng sự cố

gắng của mình, anh đã tự làm từ những công việc nhỏ nhất để phục vụ bản thân.
Những ngày đầu, đôi chân của anh luôn đau nhức khiến anh cảm thấy chán nản và
định từ bỏ nhưng với ý chí sắt đá và nghị lực phi thường đã giúp anh vượt qua.
Những ngày khó khăn rồi cuối cùng cũng được khắc phục, anh không những đi lại
được mà còn phụ giúp gia đình những công việc từ chăn lợn, chăn trâu cho đến
những công việc đồng áng như cấy, gặt, trồng ngô, hái củi, mò cua… giúp cho cha
mẹ bớt đi nỗi vất vả. Nhà Lịch có 3 anh chị em, Lịch là con thứ 2 trong nhà, cả gia
10


đình gồm 5 người sống nhờ vào 5 sào ruộng cằn cỗi, cha mẹ anh lao động vất vả
quanh năm mà cuộc sống vẫn đói nghèo. Những cơn bão mỗi năm cứ kéo đến rồi
cuốn đi biết bao mồ hôi nước mắt của những người lao động hiền từ, những lúc
thấy cha mẹ rơm rớm nước mắt nhìn những ruộng lúa sắp đến kì thu hoạch chìm
trong biển nước mà lòng anh đau nhói và anh tự hứa với lòng mình sẽ phải học thật
giỏi để thoát nghèo. Suốt 12 năm học phổ thông anh luôn dành được danh hiệu học
sinh khá, giỏi và là học sinh tiểu biểu của nhà trường, ngoài giờ lên lớp anh lại về
nhà phụ giúp gia đình từ dọn dẹp nhà cửa đến công việc đồng áng. Lịch là một
người hiền lành chất phác nên được thầy, cô gia đình và bè bạn yêu mến. Bằng tất
cả ý chí và nghị lực cùng với khát vọng giúp cho những số phận nghèo khổ và thiệt
thòi giống mình trong xã hội nên anh đã quyết định thi vào khoa Công tác Xã hội
của trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân Văn. Với sự nỗ lực và quyết tâm anh
đã thi đỗ đại học với một số điểm khá cao. Ngày nhận được tin đỗ đại học anh hét
lên sung sướng bởi ước mơ của anh từ nay sẽ có khả năng thành sự thật; nhưng
niềm vui đó cũng nhanh chóng biến mất dần khi nhìn thấy cha mẹ cầm tờ giấy báo
nhập học mà nửa mừng nửa lo với ánh mắt buồn đến vô hạn. Cha mẹ anh mừng và
tự hào vì con mình đã đỗ đại học nhưng họ lại lo vì số tiền học đại học là quá lớn
đối với kinh tế nhà anh. Thế rồi tin vui đã đến với gia đình anh, anh đã nhận được
sự giúp đỡ của Quỹ học bổng Thắp Sáng Niềm Tin cùng bà con làng xóm… giúp
anh có cơ hội thực hiện ước mơ của mình.[2]

4.3. Xây dựng nội dung và thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
đường cho học sinh.
Để thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường cho học sinh tôi
xây dựng nội dung theo thứ tự các bước sau:
Bước 1:
Trước tiên tôi xây dựng đội ngũ cán bộ lớp có năng lực, gương mẫu và có kỹ
năng giao tiếp ứng xử. Lấy số học sinh ở nhóm 1 làm ban cán sự lớp. Ban cán sự
lớp phải là những cá nhân tiêu biểu có năng lực, nhiệt tình năng nổ, học lực khá
giỏi và hơn nữa là phải có khả năng giao tiếp ứng xử. Có như vậy Ban cán sự lớp
quy tụ được các bạn, đoàn kết trong tập thể. Ban cán sự gồm lớp trưởng , lớp phó
,các tổ trưởng . GVCN và Ban cán sự họp bàn đưa ra phương hướng hoạt động
trong thời gian tới. Thời gian tiếp theo GVCN bồi dưỡng năng lực quản lý, khả
năng giao tiếp ứng xử… cho Ban cán sự.
Bước 2:
Tiếp theo, để tăng cường các biện pháp rèn luyện giao tiếp ứng xử học sinh
trong lớp, tôi cho các em đọc các loại báo về lứa tuổi học trò như Báo Măng Non ,
Báo Thiếu Nhi Dân Tộc , Báo Hoa Học Trò…. , hoặc tôi có thể in các bài trên
mạng để học sinh tìm hiểu và nghiên cứu trao đổi vào các tiết sinh hoạt 15 phút đầu
giờ. Trong tiết sinh hoạt cuối tuần tôi đưa ra một số tình huống để các em trao đổi
và đưa ra ý kiến cá nhân mình.
Tình huống 1: Trong tiết học môn Công Nghệ , tiết 2 , ngày thứ 2, tuần 13 của
lớp 7 A: Bạn Văn Anh ngồi bên cạnh bạn Toàn đang nói chuyện riêng. Nhưng cô
11


giáo nhầm lẫn lại phê bình bạn Toàn trước cả lớp. Ngay lúc đó bạn Toàn đứng dậy
vẽ mặt bực tức và nói to “Cô có nhầm không đấy!”.
Theo các em thì cô giáo sẽ xử lý tình huống đó như thế nào? Nếu em là bạn
Toàn thì em có đứng dậy nói to với cô giáo như thế không?.
Vậy tôi đã đặt các em vào chính tình huống của mình và tôi hướng dẫn giải

quyết tình huống đó, từ đó để các em có bài học kinh nghiệm trong giao tiếp ứng
xử.
Tình huống 2: Vào sáng thứ 2, tuần 16: bạn Phương lớp 7B đến trường ăn mặc
lòe loẹt, áo quá ngắn, quần thì thủng nhiều chỗ . Bạn Lan Anh cùng lớp đang đứng
nói chuyện cùng đám bạn và thấy Phương đi qua thấy vậy liền nói to “ Sao bạn ăn
mặc phản cảm thế”. Lúc đó Phương rất bực tức, mặt đỏ gay gắt và xông tới tát ngay
vào mặt Lan Anh.
Theo các em thì Bạn Lan Anh nên nói như thế nào để không dẫn đến xung
đột như trên?
Sau khi các em trao đổi, thảo luận tôi đi đến kết luận để các em thấy rõ được
tầm quan trọng của việc giao tiếp ứng xử: Mỗi ngày các em đến trường có thể đẹp
hơn trong mắt người khác nếu. Các em biết dùng lời nói nhẹ nhàng, ân cần, giải
quyết các tình huống bằng những cử chỉ đẹp bằng những những hành động có văn
hóa, đúng mực và thái độ lịch sự.
Bước 3:
Tôi cho lớp xây dựng nội quy, quy định về giao tiếp ứng xử học đường đối
với học sinh. Để xây dựng nội quy, quy định, tôi đưa ra một số gợi ý như:
- Xây dựng nội dung giao tiếp ứng xử giữa học sinh với thầy cô giáo nhân viên nhà
trường và khách đến trường.
- Xây dựng nội dung giao tiếp ứng xử giữa học sinh với học sinh.
Sau đó giao cho Ban cán sự lớp chủ trì, mỗi cán sự lớp phụ trách một nội dung
và mỗi nội dung được phân cho nhóm. Đến buổi sinh hoạt lớp tiếp theo các nhóm
đưa các nội dung được phân công để bàn bạc trước lớp. Cuối cùng tôi cùng với tập
thể lớp cùng xây dựng đi đến quy tắc, quy định văn hóa giao tiếp ứng xử cho tập
thể lớp như sau:
Phần 1: Giao tiếp ứng xử giữa học sinh với thầy, cô giáo, nhân viên nhà trường và
khách đến trường.
Phần 2: Giao tiếp ứng xử giữa học sinh với học sinh.
(Nội dung nội quy, quy định về giao tiếp ứng xử học đường thể hiện ở phụ lục 2).
In bảng quy tắc, quy định văn hóa giao tiếp ứng xử vào khổ giấy A o và treo

bên phải cửa ra vào lớp để cả lớp theo dõi và áp dụng. Tôi giao nhiệm vụ cho các tổ
trưởng nhiệm vụ theo dõi việc giao tiếp ứng xử của tổ mình. Báo cáo lại vào tiết
sinh hoạt cuối tuần.Vào tiết sinh hoạt cuối tuần tiếp theo. Các tổ trưởng báo cáo với
lớp trưởng, lớp trưởng tổng hợp báo cáo với giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ
nhiệm có hình thức khen thưởng đối với cá nhân thực hiện tốt, còn đối với học sinh
vi phạm tôi yêu cầu học sinh đó trình bày nội dung vi phạm và lý do vi phạm, sau
đó tôi yêu cầu học sinh khác nhận xét, góp ý cho bạn. Sau đó tôi tìm hiểu nguyên
nhân, hoàn cảnh mà học sinh vi phạm để kịp thời điều chỉnh và uốn nắn. Tôi đưa
văn hóa ứng xử là một tiêu trí cứng để xếp hạnh kiểm theo tuần và tháng.
12


4.4. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn
Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
Tôi gặp gỡ giáo viên Ngữ văn và GDCD trao đổi và đưa ra ý kiến về biện
pháp phối kết hợp của giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để rèn luyện kỹ
năng giao tiếp cho học sinh lớp chủ nhiệm.
Với đặc trưng bộ môn, môn Ngữ văn là môn học giúp học sinh có năng lực
ngôn ngữ để phục vụ cho hoạt động giao tiếp ứng xử tốt nhất. Giáo viên bộ môn
Văn là những người có khả năng thuyết phục và khả năng giao tiếp ứng xử tốt. Qua
môn tiếng việt ở các bài như: Sự trong sáng của tiếng Việt; phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt...[3], giáo viên bộ môn giúp các em có năng lực về ngôn từ, lời nói, phục
vụ tốt cho việc rèn luyện giao tiếp ứng xử. Đối với văn học bằng những tác phẩm
có tính nhân văn giáo viên tác động tới tâm hồn các em, kéo các em về với các
chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam.
Đối với giáo viên bộ môn GDCD thông qua việc cung cấp cho học sinh
những hiểu biết chung về một số phạm trù đạo đức cơ bản và một số truyền thống
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, qua đó giáo viên rèn luyện kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ
năng giao tiếp ứng xử. Giáo viên bộ môn GDCD có khả năng lập luận, thuyết trình
và vốn sống phong phú. Nên sẽ hướng dẫn các em ứng xử và giải quyết tình huống

rất tốt, từ đó biết phản đối những điều xấu và yêu quý, trân trọng những hành động
đẹp, việc làm tốt…
Ngoài ra tôi gặp riêng và trao đổi cụ thể với giáo viên bộ môn khác, những
điểm mạnh điểm yếu của từng học sinh về giao tiếp ứng xử trong từng tiết dạy bộ
môn. Những học sinh chưa tiến bộ và bàn về cách giáo dục phù hợp đặc điểm tâm
lý cá nhân.
4.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử
cho học sinh.
Tục ngữ có câu: “Rau nào sâu ấy” hay “Giỏ nhà ai quai nhà ấy”.
Truyền thống văn hoá gia đình cũng như phương pháp giáo dục con em trong
từng gia đình một là vô cùng quan trọng. Từ khi mới sinh ra, các em được tiếp xúc
trực tiếp với môi trường sống này. Vì vậy, hành vi giao tiếp ứng xử của các em sẽ
phát triển theo chiều hướng tốt hay sấu phụ thuộc hoàn toàn vào truyền thống văn
hoá của gia đình mình. Từ đó trách nhiệm của phụ huynh trong việc rèn luyện giao
tiếp ứng xử của học sinh phải đảm bảo các yếu tố sau:
+ Dành thời gian để đôn đốc, kiểm tra, theo dõi cách giao tiếp ứng xử, hành
vi, thái độ của con cái.
+ Khuyến khích những thái độ, hành vi tốt trong giao tiếp của các em.
+ Định hướng và giáo dục giao tiếp ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức.
+ Làm gương cho con em trong gia đình.
Ngoài ra phụ huynh còn phải gần gũi con cái, gợi chuyện để con tâm sự với
mình để từ đó hiểu con nhiều hơn, phải để ý quan tâm để ý tới các thay đổi của con
như: Ăn mặc đẹp hơn; chú ý đến hình thức nhiều hơn; có bạn khác giới; nhóm bạn
13


hay chơi của con. Để từ đó có những biện pháp giáo dục con cái một cách đúng
mực.
5. KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ
5.1. Phương pháp kiểm nghiệm.

Điều tra là phương pháp mà tôi sử dụng cho đề tài này. Ngay từ đầu tôi sử
dụng phiếu điều tra về mức độ hiểu biết về kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường,
phiếu điều tra về nhận thức vai trò của việc rèn kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường
trong giai đoạn hiện nay và kết quả hạnh kiểm vào cuối năm học.
Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài trước khi tác động và
sau khi tác động là giống nhau.
5.2. Kết quả kiểm nghiệm cuối năm học.
5.2.1. Đối với lớp đối chứng 7A.
- Kết quả điều tra cuối năm học 2016-2017 (khi chưa tác động). Kết quả như sau:

Lớp
7A


số
44

Bảng 4:
Mức độ hiểu về kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường
Hiểu đúng Hiểu gần đúng
Hiểu sơ sài
Không hiểu gì
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

6
13,6 13
29,6
22
50,0
3
6,8
Bảng 5.

Lớp

Sĩ số

7A

44

Nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
đường trong giai đoạn hiện nay
Rất cần thiết
Cần thiết Bình thường Không cần thiết
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12

27,2
20 45,5
9
20,5
3
6,8
Bảng 6.

Lớp

Sĩ số

7A

44

Tốt
SL
23

%
52,3

Hạnh kiểm
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%

19
43,2
2
4,5

Yếu-Kém
SL
%
0
0

Đối với lớp đối chứng 7 A so sánh kết quả đầu năm và cuối năm khi chưa tác
động.
- So sánh bảng 1 và bảng 4 cho thấy: Số lượng học sinh hiểu khái niệm kỹ năng
giao tiếp ứng xử học đường ở mức độ hiểu đúng tăng từ 0% lên 13,6 %; hiểu gần
đúng tăng 11,3 % lên 29,6 %; không hiểu giảm từ 20,5% xuống 6,8 %
- So sánh bảng 2 và bảng 5 cho thấy: Số lượng học sinh nhận thấy vai trò của giao
tiếp ứng xử trong giai đoạn hiện nay ở các mức độ rất cần thiết tăng từ 13,4 % lên
27,2 %; cần thiết tăng 34,1 % lên 45,5 %; bình thường giảm từ 40,9 % xuống 20,5
%. Và không cần thiết giảm từ 13,6 % xuống còn 6,8 %
14


- So sánh bảng 3 và bảng 6 cho thấy hạnh kiểm của học sinh: Hạnh kiểm tốt tăng từ
34,1 % lên 52,3%; hạnh kiểm khá giảm từ 56,8 % xuống 43,2 %; hạnh kiểm trung
bình giảm từ 9,1 % xuống 4,5 %.
Qua tỉ lệ so sánh mặc dù có tăng , giảm nhưng không đáng kể so với đầu năm,
đặc biệt là tỉ lệ không cần thiết và hạnh kiểm trung bình, hạnh kiểm kém. Điều đó
cho thấy sự thay đổi về giao tiếp ứng xử của các em là không nhiều, các em vẫn giữ
nguyên thái độ mặc dù môi trường sống đã thay đổi.

5.2.2. Đối với lớp thực nghiệm 7 B.
Lớp

Sĩ số

7B

42

Lớp

Sĩ số

7B

42

Lớp
7B

Bảng 7:
Mức độ hiểu về kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường
Hiểu đúng
Hiểu gần đúng
Hiểu sơ sài
Không hiểu gì
SL
%
SL
%

SL
%
SL
%
28
67,7
4
9,5
10
23,8
0
0
Bảng 8:
Nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
đườngtrong giai đoạn hiện nay
Rất cần thiết
Cần thiết
Bình thường
Không cần
thiết
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
25
59,5

15
35,8
2
4,7
0
0

Sĩ số
42

Tốt
SL
38

%
90,5

Bảng 9.
Hạnh kiểm
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
4
9,5
0
0


Yếu-Kém
SL
%
0
0

Đối với lớp thực nghiệm 7 B so sánh kết quả đầu năm( chưa tác động) và
cuối năm (đã tác động).
So sánh bảng 1 và bảng 7 cho thấy: Số lượng học sinh hiểu khái niệm kỹ năng
giao tiếp ứng xử học đường ở mức độ hiểu đúng tăng lên rất nhiều từ 0% lên
67,7%; hiểu sơ sài giảm từ 78,8 xuống 23,8%; không hiểu giảm từ 7,3% xuống 0%.
So sánh bảng 2 và bảng 8 cho thấy: Số lượng học sinh nhận thấy vai trò của
giao tiếp ứng xử trong giai đoạn hiện nay ở các mức độ rất cần thiết tăng lên rất
nhiều từ 9,6% lên 59,5%; cần thiết tăng 23,8% lên 35,8%; bình thường giảm từ
57,0 xuống 4,7%; không cần thiết giảm từ 9,6% xuống 0%.
So sánh bảng 3 và bảng 9 cho thấy hạnh kiểm của học sinh: Hạnh kiểm tốt
tăng từ 71,4 lên 90,5%; hạnh kiểm khá giảm từ 23,8% xuống 9,5%; hạnh kiểm
trung bình giảm từ 4,8 xuống 0%.
Qua kết quả so sánh trước khi tác động và sau khi tác động của lớp 7 B thì
thấy theo chiều hướng tích cực số liệu tăng rất nhanh. Như vậy có thể khẳng định
15


rằng sau khi áp dụng đề tài đã đem lại kết quả khả quan về giáo dục đạo đức cho
học sinh, góp phần nâng cao chất lượng toàn điện cho học sinh lớp chủ nhiệm.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. KẾT LUẬN:
Với một số biện pháp mà tôi đã vận dụng đối với lớp chủ nhiệm 7B trường
THCS Thọ Bình. Kết quả đã mang lại khá rõ. Đa số học sinh trong lớp có những
chuyển biến theo hướng tích cực, nhiều học sinh đã có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt

hơn; gần gũi với thầy cô và hòa nhã với bạn bè; tự tin với bản thân; tác phong
nhanh nhẹn đồng thời kết quả học tập và hạnh kiểm cũng được cải thiện hơn rất
nhiều, các em mạnh dạn hơn, tích cực xây dựng ý kiến, không còn nhút nhát, đã
giao tiếp với bạn bè và thầy cô tự nhiên hơn, trong lớp học nghiêm túc hơn, ở ngoài
lớp không nói tục, chửi thề, bè phái đánh nhau, tính tình nhuần nhã hơn. Khi xử lý
tình huống thì bớt nóng nảy.
Điều quan trọng hơn đó là qua tác động, bằng những biện pháp tôi đã đưa ra
thì học sinh đã nhận thức được vai trò của giao tiếp ứng xử trong giai đoạn hiện
nay. Từ đó có ý thức rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử, để nâng cao kỹ năng sống
cho bản thân và trở thành con người toàn diện trong xã hội mới.
2. ĐỀ XUẤT
- Với giáo viên: Phải vừa dạy kiến thức vừa giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp ứng xử, để trang bị cho các em những kỹ năng cơ
bản khi bước vào cuộc sống mới.
- Với nhà trường: Cần xây dựng kế hoạch ngoại khoá phù hợp, trong đó có
những bài học, chương trình có nội dung liên quan đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh
- Đề tài này tôi đã đưa ra một số biện pháp mà tôi cho rằng nó phù hợp với tất
cả học sinh ở trong trường có thể áp dụng được. Tôi mong rằng các bạn đồng
nghiệp quan tâm, chia sẻ, góp ý, đặc biệt là đối với các giáo viên chủ nhiệm để tôi
hoàn thiện hơn nữa trong công tác chủ nhiệm.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 04 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết


Lê Thúy Hằng
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục kỹ năng sống: Module 35 BDTX: Nguyễn Thị Thanh Mai và Đặng
Thuý Anh.
2. Nguồn Internet:
- www.giaoduc.edu.vn: Báo giáo dục thành phố Hồ Chí Minh
-
-
-
3. Sách giáo khoa văn học 12. Nhà xuất bản giáo dục 2009.

17


PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu điều tra.
Phiếu 1: Đánh dấu x vào mức độ hiểu của em về kỹ năng giao tiếp ứng xử ?
Hiểu đúng

Hiểu gần đúng

Hiểu sơ sài

Không hiểu gì

Phiếu 2: Trong giai đoạn hiện nay, việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học
đường theo em như thế nào?

Rất cần thiết

Cần thiết

Bình thường

Không cần thiết

Phụ lục 2: Nội quy, quy định về văn hóa giao tiếp ứng xử học đường.
Phần 1: Giao tiếp ứng xử giữa học sinh với thầy cô giáo, nhân viên nhà trường
và khách đến trường.
1. Trong chào hỏi, xưng hô phải lịch sự, lễ phép kính trọng. Không được nói trống
không, cộc lốc, không sử dụng các động tác cơ thể phản cảm
2. Khi hỏi, trả lời phải lễ phép, câu hỏi và trả lời ngắn gọn, rõ ràng, có thưa có gửi,
cảm ơn. Nội dung chính xác, trung thực.
3. Khi làm phiền thầy cô giáo, nhân viên nhà trường phải đảm bảo lịch sự, tế nhị,
chân thành, biết ơn, xin lỗi đúng lúc.
4. Khi phạm lỗi với thầy cô giáo và công nhân viên nhà trường phải nghiêm túc
nhận lỗi và có thái độ sửa chửa kịp thời.
5. Không có hành vi, thái độ xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể
thầy cô, nhân viên nhà trường.
Phần 2: Giao tiếp ứng xử giữa học sinh và học sinh.
1. Trong xưng hô đảm bảo độ thân mật, cởi mở, trong sáng, ngôn ngữ giản dị, rõ
ràng, trong sáng. Nên xưng hô với nhau như: Cậu với mình hoặc cậu với tớ, tôi với
bạn hoặc tôi với cậu.
2. Trong giao tiếp phải thể hiện sự khiêm tốn, tế nhị có văn hóa , thể hiện tính trung
thực, khoan dung độ lượng, tôn trọng, đoàn kết với bạn.
3. Trong khi thăm hỏi, giúp đỡ bạn, đảm bảo chân thành, tế nhị.
4. Khi chúc mừng bạn phải đảm bảo vui vẻ chân tình, lịch sự.
5. Trong học tập đảm bảo nghiêm túc, trung thực không vi phạm quy chế kiểm tra,

thi cử.

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thúy Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Thọ Bình

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp rèn luyện văn

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Phòng GD &
ĐT huyện
hóa giao tieps ứng xử học đường
Triệu Sơn
nhằm giáo dục kỹ năng sống


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
B

Năm học
đánh giá
xếp loại
2016 - 2017

cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B
Trường THCS Thọ Bình
2.

19


20



×