Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

So sánh cái đẹp trong văn nguyễn tuân và thạch lam định hướng cảm thụ hai tác phẩm chữ người tử tù và hai đứa trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.24 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

TRANG

1. MỞ ĐẦU

2

1.1.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2

1.2.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

2

1.3.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2

1.4.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3

2. NỘI DUNG

4

2.1.

Cở sở lí luận

4

2.2.

Thực trạng của vấn đề - Cơ sở thực tiễn

5

2.3.

Giải quyết vấn đề - So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và
Thạch Lam - Định hướng cảm thụ Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam từ góc độ so sánh

5

2.3.1.


Nguyễn Tuân - “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”

5

2.3.2.

Thạch Lam: người “ham vẻ đẹp có mn hình mn thể”

8

2.3.3.

Đặc trưng Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam

10

2.3.4.

Định hướng cảm thụ Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người
tử tù của Nguyễn Tuân từ gó c độ s o s án h .

11

2.4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17
19


3.1.

Kết luận

19

3.2.

Kiến nghị

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thạch Lam và Nguyễn Tuân là hai nhà văn lớn, có phong cách nghệ thuật hết sức
độc đáo, và có nhiều đóng góp đặc trưng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Hai nhà văn
này mặc dù có phong cách sáng tác khác nhau, nhưng giữa họ cũng có những điểm
tương đồng thú vị. Đặc biệt, họ đều được mệnh danh là nhà văn của cái đẹp.
Sau bao lần thay đổi chương trình, sách giáo khoa, tác phẩm của Thạch Lam và
Nguyễn Tuân vẫn được chọn đưa vào nhà trường Việt Nam, từ bậc THCS đến đại học và
sau đại học. Đặc biệt, ở chương trình Ngữ văn THPT mà chúng tơi đang thực hiện, hai
tác giả này đều có tác phẩm được đưa vào giới hạn của mọi kỳ thi.

Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp. Tìm đến cái đẹp là tìm đến cái đích của văn
chương, tìm vào cái đẹp của Thạch Lam và Nguyễn Tuân (những người suốt đời đi tìm cái
đẹp) lại càng trở nên hết sức cần thiết.
Từ thực tiễn giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi chúng tôi thấy tác phẩm của
Thạch Lam và Nguyễn Tuân nói chung, cái đẹp trong văn của hai tác giả này nói riêng
ln thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhưng đây lại là vấn đề rất khó cho cả giáo
viên và học sinh.
Khảo sát hệ thống các cơng trình nghiên cứu về Thạch Lam và Nguyễn Tn
chúng tơi thấy chưa có cơng trình nào chỉ ra đặc trưng về cái đẹp trong tác phẩm của hai
nhà văn này trong mối quan hệ so sánh.
Từ những lí do trên đây, kết hợp với nhu cầu nâng cao trình độ chun mơn của bản
thân và niềm say mê hai tác giả nổi tiếng này, chúng tôi chọn đề tài Cái đẹp trong văn
Thạch Lam và Nguyễn Tuân dưới góc nhìn so sánh để nghiên cứu.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Chọn đề tài này để nghiên cứu chúng tôi hướng đến mục đích: đưa ra một tài liệu
đáng tin cậy, có cơ sở khoa học để giúp giáo viên và học sinh ở trường THPT tham khảo khi
giảng dạy và học tập tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Đề tài này đi vào khám
phá cái đẹp – một phương diện nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và
Nguyễn Tuân. Thực hiện đề tài này sẽ góp phần giúp bản thân và đồng nghiệp cũng như các
em học sinh khám phá tác phẩm của hai nhà văn này một cách đúng hướng. Từ đó nhìn
nhận, đánh giá đúng giá trị và những đóng góp của các nhà văn này.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đặt ra một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phải chỉ ra và chứng minh, lí giải được cái đẹp trên hành trình sáng tạo của
Thạch Lam và Nguyễn Tuân.
Thứ hai, so sánh để tìm ra những điểm đặc trưng của hai nhà văn này ở phương diện
cái đẹp.
Thứ ba, đưa ra hướng khai thác một số tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam và Nguyễn
Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Về ngữ liệu, những khái quát trong đề tài xuất phát từ toàn bộ tác phẩm của Thạch

2


Lam và Nguyễn Tn, trong đó chúng tơi đặc biệt chú trọng vào ba tác phẩm trong chương
trình Ngữ văn THPT (Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Chữ người tử tù và Người lái đị sơng
Đà của Nguyễn Tn).
Về nội dung, cái đẹp biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, từ nội dung phản ánh đến hình
thức nghệ thuật. Đề tài của chúng tơi dù ít nhiều có nói đến hình thức nghệ thuật, nhưng
chúng tơi chủ yếu tập trung vào cái đẹp với tư cách là một phương diện thuộc về nội dung
phản ánh trong tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa

2. NỘI DUNG
3


2.1. Cơ sở lí luận
Cái đẹp là điều kiện tiên quyết của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Việc
khám phá cái đẹp trong tác phẩm văn học vì thế sẽ trở nên cần thiết. Thạch Lam và
Nguyễn Tuân lâu nay đã được giới nghiên cứu suy tôn là những Nhà văn của Cái đẹp. Vì
vậy, tìm hiểu cái đẹp trong tác phẩm của hai nhà văn này dưới góc nhìn so sánh để tìm ra

đặc trưng của mỗi nhà văn là hướng nghiên cứu tìm vào đúng bản chất của văn chương nói
chung và bản sắc của hai nhà văn này nói riêng.
Trước hết, cái đẹp là phạm trù trung tâm của mĩ học. Trong lịch sử tư tưởng mĩ học,
phạm trù cái đẹp xuất hiện từ rất sớm. Từ xa xưa, các nhà mĩ học duy tâm khách quan (tiêu
biểu như Platon, Hegel) lí giải nguồn gốc của cái đẹp từ trong thế giới ý niệm, xem cái đẹp
là hồi quang của ý niệm siêu nhiên, thần thánh. Ngược lại, các nhà mĩ học duy tâm chủ quan
lại tuyệt đối hóa cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc của cái đẹp trong ý thức
của chủ thể, trong cảm xúc cá nhân. Nhà mĩ học Hume quả quyết rằng: “Cái đẹp không phải
là phẩm chất tồn tại trong bản thân sự vật, nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát
nó” [10,53]. Cịn nhà triết học học người Đức Kant thì cho rằng: “Cái đẹp không ở trên đôi
má hồng của người thiếu nữ mà ở trong con mắt của kẻ si tình” [3,83]. Đến thế kỷ XX, các
nhà mĩ học dân chủ cách mạng Nga đã kéo cái đẹp trở về với mảnh đất trần thế, họ cho rằng
ở đâu có cuộc sống là ở đó có cái đẹp. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của cái đẹp, nhà
nghiên cứu Tsernushevski đưa ra định nghĩa: “Cái đẹp là cuộc sống” [12,24]. Kế thừa thành
tự của mĩ học trước đó, mĩ học Marx – Lenin lí giải rằng: “Bản chất của cái đẹp là sự thống
nhất biện chứng giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan” [2,76]. Trên cơ sở nghiên cứu lịch
sử mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, các tác giả của cuốn sách Mĩ học đại cương đưa ra khái
niệm: “Cái đẹp là một phạm trù thẩm mĩ dùng để chỉ một phẩm chất thẩm mĩ của sự vật khi
nó phù hợp với quan niệm của con người về sự hồn thiện và tính lí tưởng, có khả năng gợi
lên ở con người một thái độ thẩm mĩ tích cực do sự tác động qua lại giữa đối tượng và chủ
thể” [2,83].
Như vậy, nhìn vào lịch sử tư tưởng mĩ học chúng ta thấy rằng quan niệm cụ thể về cái
đẹp có thể khác nhau, thậm chí là đối lập nhau giữa các trường phái mĩ học, nhưng cái đẹp
luôn được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất, phổ biến nhất, và là điểm tựa trung tâm để con
người đánh giá đời sống về mặt thẩm mĩ; cái đẹp bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm trong
mối quan hệ thẩm mĩ giữa con người với hiện thực.
Trong tác phẩm nghệ thuật, cái đẹp là yếu tố giữ vai trò then chốt. Bàn về phương
diện này, nhà nghiên cứu Bielinski từng khẳng định: “Cái đẹp là điều kiện không thể
thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì khơng có và khơng thể có nghệ thuật.
Đó là một định lí” [8,77]. Cũng cần phải nói thêm rằng, nghệ thuật nói chung và văn học

nói riêng không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng đó lại là nơi tập trung
nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc tìm kiếm, sáng tạo và thỏa mãn nhu cầu về
cái đẹp cho xã hội.
Cái đẹp trong tác phẩm văn học được thể hiện hết sức phong phú, đa dạng. Có thể là
cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, cái đẹp của
hình thức nghệ thuật. Xét riêng về nội dung phản ánh, văn học không chỉ phản ánh cái đẹp
một chiều. Trong tác phẩm văn học, nhà văn có thể miêu tả cả cái xấu, cái ác, nhưng ngay cả

4


khi các nhà văn miêu tả cái ác cái xấu thì mục đích của họ cũng là hướng về cái đẹp. Miêu tả
cái ác cái xấu vì thế trở thành một phương thức để tác động, cải tạo con người và xã hội.
Đúng như nhà văn Thạch Lam từng viết: “... văn chương là một thứ khí giới thanh cao và
đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho
lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” [4].
Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là tìm kiếm, nâng đỡ và sáng
tạo cái đẹp, thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp cho con người. Bởi vậy mỗi nhà văn là một vị sứ
giả của cái đẹp. Hành trình sáng tác của họ là hành trình tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp,
hướng con người và xã hội đến với cái đẹp. Nhưng mỗi nhà văn lại có một hướng đi riêng,
một cách thể hiện riêng. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung bàn về cái đẹp với tư cách là một yếu
tố thuộc về nội dung phản ánh trong quan niệm và thực tiễn sáng tác của hai cây bút tiêu
biểu: Thạch lam và Nguyễn Tuân.
2.2. Thực trạng của vấn đề - Cơ sở thực tiễn
Tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tn đã có mặt trong chương trình Ngữ văn
phổ thông hàng chục năm nay, thế nhưng thực tiễn dạy - học tác phẩm của hai nhà văn này
cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập. Qua thực tiễn dạy học của bản thân và các đồng nghiệp
từ nhiều cơ sở giáo dục chúng tôi thấy rất nhiều thầy cô giáo chưa có cái nhìn khái qt
về sự nghiệp văn học của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Sự hiểu biết về hai nhà văn
này ở nhà trường chỉ mới đạt được chiều rộng mà chưa có bề sâu, chưa đi đúng vào bản

sắc riêng, đóng góp riêng của mỗi nhà văn. Thạch Lam và Nguyễn Tuân là những nhà văn
của cái đẹp, nhưng cái đẹp trong tác phẩm của họ có đặc điểm gì? Có giá trị thẩm mĩ ra
sao? Cái đẹp của nhà văn này khác cái đẹp của nhà văn kia chỗ nào thì ít ai lí giải được.
Khi áp dụng hướng khai thác được trình bày trong đề tài này vào thực tế giảng dạy,
đặc biệt là giảng dạy cho đối tượng học sinh giỏi, chúng tôi nhận thấy các em học sinh hết
sức thích thú và say mê đón nhận. Kết quả cho thấy, ít nhất là các em khơng cịn tâm lí “sợ
độ khó” khi tiếp cận hai nhà văn độc đáo này. Hướng khai thác của đề tài này cũng đã được
các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm ghi nhận và đề nghị triển khai rộng rãi hơn cho mọi đối
tượng học sinh.
2.3. Giải quyết vấn đề - So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam – Định
hướng cảm thụ Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam từ
góc độ so sánh
2.3.1. Nguyễn Tuân - “người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”
“Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật” (Nguyễn Đình Thi,
Điếu văn truy điệu Nguyễn Tuân). Lời khẳng định của Nguyễn Đình Thi có thể được minh
chứng bằng chính hành trình sáng tạo của Nguyễn Tn. Trước Cách mạng tháng Tám,
Nguyễn Tuân “muốn mỗi ngày có được cái say sưa như là men rượu tối tân hơn”, và ơng
mải miết đi tìm cái đẹp để thỏa mãn nhu cầu ấy. Nhưng ở xã hội Việt Nam thời bấy giờ cái
đẹp chân chính thật khơng dễ tìm chút nào, nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi thì “Trong
cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau”. Bất mãn với xã
hội, khơng tìm thấy cái đẹp trong hiện tại, Nguyễn Tn phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ
một thời vang bóng. Tập truyện Vang bóng một thời là sự khởi đầu cho hành trình đi tìm
cái đẹp của nhà văn. Qua tập truyện này Nguyễn Tuân đã làm sống lại những phong tục

5


tập quán của dân tộc, những thú chơi tao nhã – những “thanh âm trong trẻo” trong một xã
hội hỗn loạn xô bồ mà Nguyễn Tuân gọi là xã hội “ối a ba phèng”. Chẳng hạn, ở truyện
Những chiếc ấm đất, ông cụ Sáu mê uống trà tầu, mà nước pha trà phải là thứ nước lấy ở cái

giếng tận trên chùa Đồi Mai. “Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông
cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú q nhãn tiền khơng bằng một ấm trà tầu”. Kể cả khi
thất cơ lỡ vận, ơng cụ Sáu vẫn “quen thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp
mùa hoa nở, cụ cịn cố bứt lấy ít nhị đem ướp ln vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là
trà mạn cũ”. Truyện Chén trà trong sương sớm lại còn miêu tả tỉ mỉ hơn cái thú uống trà
của lớp người xưa cũ ấy. Đối với gia đình cụ Ấm, việc uống trà cịn gắn liền với việc bình
văn, ngâm thơ buổi sớm. Cụ có thói quen uống trà từ lúc “trời còn tối đất”. Cách uống trà
của cụ Ấm trở thành một thứ lễ nghi. Chưa bao giờ ông cụ dám cẩu thả trong cái “thú chơi
thanh đạm” này mà đã để vào đấy bao nhiêu cơng phu, bởi vì theo cụ “trong ấm trà pha
ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một triết lí”.
Truyện Hương cuội khiến người đọc thích thú, thán phục bởi một kiểu tiêu khiển
khác, vừa quen thuộc vừa độc đáo của cụ Kép: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây
xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy
một ông già lông mày bạc, tóc bạc mặc áo lơng trắng lom khom tỉa những lá úa vàng trong
đám lá xanh”. Cụ “nguyện đem cả quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa
thơm cỏ quý”. Lòng yêu hoa của cụ Kép thật đặc biệt, “mỗi lần có người động mạnh vào
giò lan đen, cụ Kép lại suýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình”.
Nguyễn Tn cịn đặc biệt thích thú trước tục thả thơ, đánh thơ. Trong Vang bóng
một thời, hai truyện ngắn Thả thơ và Đánh thơ đã tạo cho người đọc những “khoái cảm
thẩm mĩ đặc biệt” bởi vì nhà văn “đã dạy cho ta nghệ thuật sống để tận hưởng ý vị tinh
túy, sâu sắc của cuộc sống”.
Vậy là, ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, để thỏa mãn nhu cầu săn tìm cái
đẹp và phản kháng lại xã hội, Nguyễn Tn đã tìm về với những phong tục văn hóa,
những nét đẹp truyền thống của cha ơng. Ơng viết về thú uống trà, về việc thả thơ, đánh
thơ, chơi chữ,… với một giọng điệu say sưa và thái độ trân trọng, ngợi ca. Nguyễn Tuân
say vẻ đẹp văn hóa cổ truyền như say men rượu tối tân hơn. Điều đó cho thấy sự tài hoa,
uyên bác và tấm lòng yêu nước thiết tha, sâu sắc và kín đáo của nhà văn.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân bắt tay làm lành với xã hội. Lúc này ơng
khơng cịn phải tìm về quá khứ với thái độ hoài cổ, tiếc nuối nữa, mà tìm cái đẹp ngay
trong cuộc sống hiện tại. Ông nhận thấy “phong cảnh tự nhiên của ta thật là lớn đẹp, con

người mình cũng phải lớn đẹp theo lên với nó. Núi sơng lúc nào cũng nhắc nhở ta,… mỗi
ngày trưởng thành lại đem thêm cái đẹp hình học, cái đẹp kỹ thuật, cái đẹp nhân tạo và hiện
đại vào giữa cái đẹp thiên tạo đủ cả núi dựng thành, sông uốn khúc” [9,189]. Nếu trước đây
Nguyễn Tuân xê dịch, phiêu lưu tìm cái đẹp trong tâm trạng của một người “thiếu quê
hương”, thèm khát được làm chủ giang sơn đất nước, thì sau Cách mạng ơng cũng xê dịch,
nhưng là xê dịch đến các chiến dịch, đến các công trường, bến cảng, đến những vùng miền
xa xôi của thời kỳ đổi mới. Nếu trước đây văn Nguyễn Tn có giọng điệu giễu nhại, thì
nay chỉ thấy đặc một giọng điệu ngợi ca. Nào là “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”, nào là ơng lái đị
với tay lái ra hoa như một nghệ sĩ trên mặt trận lao động, nào là con sơng Đà cuộn mình

6


như mái tóc dài của người thiếu nữ đa tình,...
Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân gắn liền với chất tài hoa tài tử. Dưới ngịi bút của
ơng, cảnh vật và con người bao giờ cũng hiện lên ở với đầy đủ những vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Đặc điểm ấy trở thành một nét lớn, thể hiện thống nhất và xun suốt sự nghiệp sáng tác của
ơng. Điều đáng nói là ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân
thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả con người và cảnh vật. Với Nguyễn Tn,
cái đẹp thường đi đơi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ sĩ, điều này cũng thống nhất với nét
tài hoa, nghệ sĩ trong con người ơng. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tn tỏ lịng mến
mộ, yêu quý những con người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang hồ. Ví dụ ở
truyện Đánh thơ, Nguyễn Tuân gọi đôi vợ chồng lãng tử bằng một cái tên trìu mến "Một
lứa đơi tài tử". Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "nghĩ đến việc làm
một cái tổ ở một chỗ nhất định nào". Ngay đến cả cái chết chất lãng tử cũng được Nguyễn
Tuân miêu tả hết sức đậm nét: "Đi qua Hoành Sơn quan thấy cảnh đẹp, lịng sinh tình, hai
ơng mụ đã u nhau giữa một vùng trời nước bao la... Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa
ra ma chết sát ngay bên đường thiên lý". Trong truyện Ngôi mả cũ nhân vật Hồ Viễn vốn là
ông tướng oai phong lẫm liệt một thời, nay vì thất thế mà trở thành một ơng thầy địa lý
nhưng vẫn giữ được nét tài hoa. Con người này luôn mang một phong thái ung dung, nhàn

nhã đầy chất nghệ sĩ: "Những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ
"sường chí" có những quả bông đỏ, cầm quạt,... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Đáng chú ý
hơn là cụ Hồ Viễn có tài viết chữ rất đẹp: "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá thiếp,... nét
sổ rất khỏe và rất thẳng". Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là "người có hoa tay" lại
"thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên "sống cuộc đời cũng như người ta chơi bời mà thơi”.
Ơng khơng chú tâm việc gì mà chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái
lá thuốc, ngắm trăng trên đỉnh Sài Sơn. Đặc biệt, nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không
nhắc đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Con người tài hoa ấy có tài "viết chữ
rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả vùng tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục
đã từng ao ước "có được chữ của ơng Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Con người
ấy quả đúng là “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Hãy nghe lời ơng nói với viên quản ngục ta
sẽ thấy rõ điều này: "Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu
đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người
bạn thân của ta thôi". Sang giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, chất tài hoa tài tử vẫn là
một đặc điểm lớn trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Trong tùy bút Sơng Đà, Nguyễn Tn
miêu tả ơng lái đị với tay lái ra hoa, vượt qua mọi cửa tử cửa sinh của dịng sơng Đà hung
bạo để trở thành người nghệ sĩ trên mặt trận lao động. Dịng sơng Đà dưới ngịi bút Nguyễn
Tn cũng thật lạ, đó là một nhân vật với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Đặc biệt, ơng
miêu tả: “con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt
nương xn”.
Nhìn lại cuộc đời Nguyễn Tn chúng ta có thể khẳng định: chất tài hoa tài tử trong
các nhân vật của Nguyễn Tuân chính là chất người của ông tỏa vào trong nhân vật, trở thành
một điểm phong cách nghệ thuật thể hiện xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân.
Cảm ơn đời đã sinh ra Nguyễn Tuân – một phong cách sống và một phong cách văn độc đáo,

7


góp phần thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của người đọc, góp phần làm phong phú

nền văn học nước nhà.
Nguyễn Tuân là môn đồ của thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật, cái đẹp trong tác phẩm
của ơng vì thế mang đậm tính duy mĩ. Ơng đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời, đề
cao cái đẹp một cách thuần túy, không vụ lợi. Cái đẹp, văn chương cũng như nghệ thuật,
theo ơng, khơng có nội dung xã hội, giai cấp và thời đại. Chính thái độ nâng niu, trân trọng
cái đẹp và với cách nhìn nghiêng về nghệ thuật của ông đã tạo nên một Nguyễn Tuân “vị
nghệ thuật” trong văn chương. Ông từng phát biểu: “Văn chương trước hết phải là văn
chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”. Ở chỗ khác ông khẳng định: “Mĩ thuật
vốn không là bà con với luân lí của thời đại” [9,92]. Quan niệm ấy thể hiện rõ nhất trong
thực tiễn sáng tác của ông trước cách mạng: một thằng ăn cắp trở nên đẹp đẽ vô cùng khi
hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh (Chuyến xe tình), một ngón tài bẻ khóa vượt ngục
cũng góp phần làm cho Huấn Cao nổi danh trong thiên hạ (Chữ người tử tù), một tên đao
phủ “có tài chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” (Chém
treo ngành), tài ném lưỡi mai chết người được miêu tả như một thứ nghệ thuật (Ném bút
chì), hay tiếng đàn oan nghiệt ma quái cũng được nhà văn hết lời ca ngợi: “Người ta vừa
đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí” (Chùa
đàn). Có thể nói rằng, với Nguyễn Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, khơng nhất thiết
phải xem cái tài đó có lợi hay khơng.
2.3.2. Thạch Lam: người “ham vẻ đẹp có mn hình mn thể”
Thạch Lam quan niệm nhà văn là người đi tìm cái đẹp. Trong tiểu luận Theo
dịng ơng viết: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng
ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp ở chính chổ mà
khơng ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp cuả sự vật, cho người khác một bài học
trơng nhìn và thưởng thức (…). Với tơi sự đẹp có mn hình vạn trạng, phong phú và đầy
đủ, có những giá trị khác xưa” [6].
Vậy là, Thạch Lam thừa nhận cái đẹp tồn tại trong hiện thực khách quan, biểu hiện
phong phú và đa dạng trong cuộc sống con người. Cái đẹp man mác, len lỏi, tiềm tàng,
kín đáo và bị che lấp trong sự vật. Bởi vậy, không phải ai cũng có thể nhận thấy mà chỉ
có những đơi mắt tinh tường, đủ sự nhạy cảm cần thiết mới có thể nhận ra. Quan niệm của
Thạch Lam gợi chúng tôi nhớ đến câu nói của Hồng Đức Lương trong bài tựa Trích Diễm

thi tập: “Đến như văn thơ thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon,
không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được”[13]. Quan niệm
trên đây của Thạch Lam cũng cho thấy thiên chức cao quý của nhà văn là phát hiện cái đẹp
để “cho người khác một bài học trơng nhìn và thưởng thức”, để “làm cho lòng người đọc
thêm trong sạch và phong phú hơn”. Cái đẹp trong quan niệm của Thạch lam không phải là
một thứ trừu tượng, cái đẹp ấy dù kín đáo, dù bị khuất lấp trong cuộc sống, nhưng dưới
ngòi bút của ông thì cái đẹp ấy là sự sống được cảm thấy, được “trơng nhìn” và “thưởng
thức”.
Quan niệm của Thạch Lam đã trở thành máu thịt trong tác phẩm của ông. Đến với
truyện ngắn của Thạch Lam trước hết người đọc được đắm mình trong vẻ đẹp trinh
nguyên, dịu dàng, gần gũi của thiên nhiên. Này đây “một chiều êm ả như ru, văng vẳng

8


tiếng ếch nhái kêu ran ngồi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, “phương tây đỏ rực như
lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” (Hai đứa trẻ), và này đây
“một cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai. Tâm ngẩng đầu nhìn lên, chàng vừa đi vào
dưới vòm lá tre xanh trong ngõ” (Trở về); “chàng thấy mát hẳn cả người, trên con đường
gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vịm cây xuống nhảy múa theo chiều
gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong khơng khí (…). n tĩnh quá, không một tiếng
động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực
cửa (…), bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngồi trời
vào” (Dưới bóng hồng lan); “… mùa đơng đột nhiên đến, khơng báo trước. Nhìn ra ngồi
sân, Sơn thấy đất khơ trắng, ln ln cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi
lăn những cái lá khơ lạo xạo. Trời khơng u ám, tồn một màu trắng đục. Những cây lan
trông chậu, lá rung động và hình như sắc lại vì rét” (Gió lạnh đầu mùa). Có thể nói, trong
tác phẩm của Thạch Lam, thiên nhiên với đủ màu sắc, hương vị, âm thanh,… tất cả đều
dịu nhẹ, hài hòa, trở thành “dưỡng chất trần gian” giúp con người tĩnh tâm hơn. Thiên
nhiên với đặc điểm ấy một phần cũng góp phần thanh lọc tâm hồn, tình cảm con người.

Vẻ đẹp con người trong văn Thạch Lam là vẻ đẹp của tâm hồn, tính cách, văn hố
Việt Nam. Đó là vẻ đẹp đạt đến độ thuần khiết, tràn đầy hương thơm và ánh sáng của tâm
hồn con người khi trở về với mảnh vườn quê thân thuộc, trở về tắm trong khơng khí nồng
ấm thiết tha của tình q hương (Dưới bóng Hồng Lan); vẻ đẹp của người phụ nữ chịu
thương chịu khó, tần tảo, ln hy sinh bản thân mình cho người khác (Mai trong truyện
Đói, mẹ Lê trong Nhà Mẹ Lê, Tâm trong Cô Hàng xén, chị Sen trong Đứa con, Dung trong
tiểu thuyết Ngày mới,...); vẻ đẹp của những mối tình đầu lãng mạn, trinh ngun (Tình xưa,
Dưới bóng Hồng Lan, Ngày mới…); vẻ đẹp của sự sám hối để hoàn thiện bản thân (Một
cơn giận); vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và trẻ trung của người phụ nữ (Cuốn sách bỏ qn). Thạch
Lam thường đặt nhân vật của mình vào hồn cảnh oái ăm của xã hội rồi phát hiện, giữ lại
cho con người những vẻ đẹp thuần phác để ngợi ca, để khẳng định. Thật cảm động khi Liên
và Huệ (Tối ba mươi) là hai cô gái giang hồ sống trong vũng bùn dơ bẩn nhưng vẫn giữ
được nhất điểm lương tâm, tối ba mươi họ vẫn bày bàn thờ cúng tổ tiên và mơ tưởng đến
cuộc sống ấm cúng như mọi nhà. Trong truyện Sợi tóc, Thạch Lam đã giữ lại vẻ đẹp lương
thiện cho nhân vật Thành trước sự quyến rũ của đồng tiền. Nhân vật Bà Cả (Đứa con) vốn
ác nghiệt, nhưng khi đứng trước đứa con của cơ Sen - người hầu hạ mình, bà cũng ao ước
“giá đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con”. Đó là vẻ đẹp lắng lại nơi đáy sâu tâm hồn của
một người đàn bà cay nghiệt và độc đoán. Khai thác vẻ đẹp con người như vậy Thạch Lam
hướng đến một mục đích là thanh lọc tâm hồn, tình cảm con người.
Trong mn vàn cái đẹp, Thạch Lam đặc biệt quan tâm khai thác vẻ đẹp tiềm ẩn
trong thế giới nội tâm phong phú của con người. Đó là vẻ đẹp của tình thương u, sự cảm
thơng chia sẻ giữa người với người. Thật cảm động khi hai chị em Sơn và Lan (Gió lạnh
đầu mùa) lấy trộm áo của nhà để cho bạn khi trời rét. Nhân vật Bình (Người bạn trẻ) thấy
lịng thắt lại khi bạn bị ốm. Thanh (Một cơn giận) day dứt, đau khổ và hối hận vì hành vi
của mình đã làm gia đình anh phu xe phải gian truân suốt đời. Những đứa trẻ (Tiếng chim
kêu) thương cho những người lữ khách trên đường vắng giữa đêm khuya giá rét, ái ngại
cho những nhà nghèo. Thạch Lam đặc biệt chú tâm khai thác vẻ đẹp của thế giới tinh

9



thần con người với đầy đủ những cung bậc tình cảm, những biến thái tinh vi, những cảm
xúc cảm giác hết sức tế vi trong tâm hồn con người. Người đọc chắc hẳn sẽ day dứt với
cảm giác “buồn man mác”, “mơ hồ không hiểu” của cô bé Liên trong truyện Hai đứa trẻ,
hay “cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc xát vào da thịt” (Nhà mẹ Lê). Trong
một bài viết tác giả Nguyễn Việt Thắng từng nhận xét rất chí lí rằng: “Thạch Lam có khả
năng tái tạo những rung động tâm hồn con người nhiều khi chỉ khẽ như cánh bướm. Cái
khả năng ấy chỉ có thể có ở một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cao độ” [1,175].
Có thể nói, nếu chữ “đẹp” là cái gốc, là điểm xuất phát trong quan niệm nghệ thuật
của Thạch Lam về con người và cuộc sống, thì đọc văn Thạch Lam người đọc được tắm
mình trong vẻ đẹp ở mn hình vạn trạng, ở những chỗ mà không ai ngờ tới: vẻ đẹp của
thiên nhiên thơ mộng (Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng Hồng Lan…), vẻ đẹp
của con người mang đậm phong vị Việt Nam (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén…), vẻ đẹp của cuộc
sống vốn ln sinh thành (Đứa con đầu lịng), vẻ đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc (Hà
Nội băm sắu phố phường). Đặc biệt, văn Thạch Lam chinh phục lòng người bởi cái đẹp của
đời sống tâm hồn và phẩm chất con người (Gió lạnh đầu mùa, Một cơn giận, Tiếng chim
kêu, Sợi tóc, Ngày mới…). Quả đúng là trong văn Thạch Lam cái đẹp có mn hình vạn
trạng như ông từng quan niệm.
2.3.3. Đặc trưng Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam
Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là nhà văn của cái đẹp, ở họ có những điểm tương
đồng, và cũng có khơng ít điểm đặc trưng, khác biệt. Nhìn từ quan niệm về cái đẹp cho đến
thực tiễn sáng tác của hai nhà văn ta sẽ thấy rõ điều này.
Trước hết, Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có
giá trị văn hóa của dân tộc. Nhưng nếu Thạch Lam tìm về những thuần phong mĩ tục như là
nền tảng đạo lí Việt Nam mà nhà văn nhận thấy ở ngay chính những con người bình thường
nhất, thì Nguyễn Tuân lại tìm về quá khứ để nâng niu, ca ngợi những thú chơi tao nhã của
người xưa. Nguyễn Tuân nuối tiếc một thời vang bóng bằng cách làm sống lại những vẻ
đẹp cao quý như thưởng trà, chơi chữ, chơi hoa… Còn Thạch lam đứng ở vị trí của một
người đã trưởng thành để nhìn về dĩ vãng bằng cái nhìn thâm trầm, lặng lẽ. Quá khứ trong
văn Thạch Lam khơng có những thú chơi tao nhã của những bậc tao nhân mặc khách,

nhưng lại có những khoảng trời trong trẻo, có mảnh vườn đầy hương thơm ngọt ngào, có
mối tình đầu trinh bạch, có những kỷ niệm tuổi thơ… Quá khứ vang bóng một thời đang
dần mai một, và Nguyễn Tn ln có ý thức để làm sống lại quá khứ ấy trong sự tương
phản với hiện tại đầy xấu xa đen tối. Với Thạch lam, cái đẹp trong quá khứ đã trôi qua theo
năm tháng và một đi không trở lại; nhà văn cố gắng níu giữ cái đẹp ấy ở lại trong tâm hồn
và nhân cách của con người ở thời khắc hiện tại.
Thứ hai, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh vật cũng như con người luôn được khám
phá dưới phương diện cái đẹp. Nhân vật trong tác phẩm của ông thuần một loại tài hoa tài
tử, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, dù làm nghề nghiệp gì đều mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
Nói cho cùng, tất cả cũng chỉ là những hóa thân khác nhau của chính nhà văn - “con người
sinh ra để mà thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Nguyễn Tuân thường xuyên sử dụng
thủ pháp lí tưởng hóa để biến nhân vật của ơng thành những con người mang vẻ đẹp tồn
bích. Tiêu biểu như các nhân vật Huấn Cao, người lái đò… Ngược lại, Thạch Lam quan

10


niệm: “Chỉ có thánh nhân mới hồn tồn. Người bao giờ cũng có cái dở, cái khuyết điểm,
bên cạnh cái hay, trong con người ta cái cái xấu và cái tốt lẫn lộn, (…) một người rất tốt
cũng có những lúc giận giữ, tàn ác. Nhưng một người rất ác cũng có lúc hiền hậu, nhân từ.
Người ta là người với những sự cao quý và hèn hạ của con người” (Theo dịng). Chẳng hạn,
ở truyện Đói, nhân vật Sinh do thất nghiệp, vợ chồng Sinh sống cùng quẫn không có lối
thốt. Sau khi đã bán hết đồ đạc trong nhà, họ phải đối diện với một thực tế phũ phàng, cay
đắng, đó là cái đói. Mai là vợ Sinh phải bán mình lấy tiền mua thức ăn cho chồng. Sinh
đau khổ, tủi nhục, nhưng sau cái cảm giác đau đớn, chán nản, nhục nhã đó là sự dày vị của
cái đói. Sinh đã đầu hàng một cách thảm hại, anh vụng trộm ăn những thức ăn do đồng
tiền bán mình của vợ mà có. Vậy là Sinh đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là dấu
hiệu dự báo về q trình tha hố, biến đổi nhân cách con người do tác động của hoàn cảnh.
Nhân vật Thanh trong truyện Một cơn giận đã lạnh lùng hành động trong giận dữ để đẩy
gia đình anh phu xe vào cảnh khốn cùng, sau đó chính Thanh lại day dứt, sám hối vì tội lỗi

của mình. Thành trong truyện Sợi tóc là người lương thiện, có bản lĩnh để vượt qua sự cám
dỗ của đồng tiền, nhưng chính anh đã từng có ý định lấy cắp hai tờ giấy bạc của bạn.
Thứ ba, trong văn Nguyễn Tuân, cái đẹp gắn với chất tài hoa tài tử. Với ông, cái đẹp
luôn gắn liền với cái tài, cái thiên lương trong sáng; nói cách khác, cái tài và cái tâm cũng
là một phương diện của cái đẹp. Nguyễn Tuân thường vận dụng một cách tổng hợp cách
khảo sát của nhiều nghành văn hóa nghệ thuật khác nhau để đào sâu cho đến “sơn cùng
thủy tận”. Chẳng hạn như trong Người lái đị sơng Đà, ơng lái đị với vẻ đẹp phi thường,
nắm giữ mọi bí mật của dịng sơng Đà, hiên ngang vượt qua mọi cửa tử cửa sinh đầy
nguy hiểm. Hay như Huấn Cao, ngồi tài viết chữ đẹp cịn có tài bẻ khóa vượt
ngục… Ngược lại, Thạch Lam khơng chú tâm khai thác cái tài của con người mà quan
tâm nhiều đến việc cảm và tả những vẻ đẹp trong đời sống nội tâm con người, đó là tình
thương u, sự cảm thơng chia sẻ, lịng nhân ái,…
Thứ tư, cái đẹp trong văn Thạch Lam là cái đẹp của sự mộc mạc, giản dị, tiềm tàng,
phảng phất xung quanh cuộc sống của con người. Còn Nguyễn Tuân lại ưa tìm cái đẹp biệt
lệ, phi thường, mãnh liệt.
Thứ năm, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp mang tính duy mĩ, còn cái đẹp
trong tác phẩm của Thạch Lam có sự hài hịa, vừa đảm bảo tính chất thẩm mĩ, vừa
mang nhiều ý nghĩa nhân sinh; đó khơng phải là cái đẹp theo thuyết nghệ thuật vị nghệ
thuật của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng, cái đẹp trong văn Thạch lam là cái đẹp của truyền thống phương Đơng,
truyền thống đạo lí dân tộc, thường gắn với nỗi buồn man mác, dịu nhẹ. Cịn cái đẹp trong
văn Nguyễn Tn vừa cổ kính lại vừa hiện đại.
Như vậy, cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân có rất nhiều điểm riêng biệt,
độc đáo, đặc trưng. Sở dĩ có những điểm đặc trưng ấy trước hết là bởi sự khác nhau trong
tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn. Tiếp đến phải kể đến tài năng, sở
trường và cá tính sáng tạo của mỗi người. Sự khác biệt giữa hai nhà văn trên hành trình
kiếm tìm cái đẹp cịn được tạo ra bởi sự chi phối của truyền thống văn hóa, văn học dân tộc
và nhân loại. Dù mỗi nhà văn đều có những điểm đặc trưng riêng, nhưng họ lại gặp gỡ nhau
ở một điểm hết sức cơ bản: đó là lịng u q hương, đất nước và con người Việt Nam.


11


2.3.4. Định hướng cảm thụ Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân từ gó c độ s o s án h .
Như chúng tôi đã giới hạn trên đây, cái đẹp biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng
trong tác phẩm văn học. Ở đây chúng tôi chỉ bàn về cái đẹp với tư cách là một yếu tố thuộc
về nội dung phản ánh, còn về nghệ thuật, về sự thống nhất giữa nội dung và hình thức thể
hiện chúng tơi xin được bàn kĩ ở một cơng trình nghiên cứu khác.
Với Nguyễn Tn và Thạch lam, tác phẩm của họ đã có mặt trong chương trình phổ
thơng hàng chục năm nay. Trong đó, ở chương trình THPT, Thạch lam có truyện ngắn Hai
đứa trẻ, cịn Nguyễn Tn có truyện ngắn Chữ người tử tù và tùy bút Người lái đị sơng
Đà. Xung quanh các tác phẩm này đã có rất nhiều cơng trình, bài viết bàn luận đủ mọi
phương diện. Bởi vậy, tác giả cơng trình này xin phép khơng trình bày theo hướng cảm thụ
hay phê bình chung về tác phẩm, mà chỉ xin được đưa ra một số điểm đáng lưu ý khi khai
thác các tác phẩm này, đó là nhìn tác phẩm dưới phương diện so sánh cái đẹp.
* Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Chữ người tử tù với vẻ đẹp tài hoa, dũng khí và thiên lương trong sáng của con
người
Vẻ đẹp tài hoa, dúng khí và thiên lương của con người trong truyện ngắn Chữ người
tử tù được Nguyễn Tuân tập trung thể hiện qua hai nhân vật: Huấn Cao và viên Quản ngục.
Trước hết, Huấn Cao là người mang vẻ đẹp tài hoa xuất chúng. Khi Huấn cao
chưa xuất hiện thì tài hoa của nhân vật này đã nổi tiếng như một huyền thoại. Huấn
cao “là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, cái
danh viết chữ đẹp của Huấn Cao đã trở thành quen thuộc trong dân chúng, “và thấy nhiều
người nhắc nhỏm đến cái danh đó ln”. Nguyễn Tn đã hết sức khéo léo đề cao vẻ đẹp
tài hoa của nhân vật này một cách gián tiếp qua lời đồn đại của dân chúng và đối thoại của
các nhân vật khác, trước khi để cho nhân vật Huấn Cao xuất hiện. Điều đó đã phần nào
cho thấy thái độ trân trọng và đề cao cái tài, cái đẹp của nhà văn.
Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao nổi tiếng đến mức người đời, và ngay cả viên quản

ngục phải kính nể. Quản ngục trầm trồ khen “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm... Có
được chữ ơng Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Ơng đã mua sẵn chục vng lụa
trắng để chờ xin chữ Huấn Cao, ơng khổ tâm vì chưa biết làm cách nào để xin được chữ
của ông Huấn, và lo sợ không xin được chữ trước khi ông Huấn bị hành hình thì ân hận
suốt đời.
Khi chỉ mới nghe tin Huấn Cao sắp đến, viên quản ngục đã sai lính coi ngục qt
dọn nhà ngục để đón tiếp người tử tù tài hoa này. Trong suốt thời gian ở đề lao, viên
quản ngục bất chấp thái độ khinh bạc của Huấn Cao, ra sức biệt đãi Huấn Cao, hy vọng
xin được chữ của ông để treo ở nhà. Sự biệt đãi và thái độ kính cẩn của viên quản ngục
đối với Huấn Cao không phải là thái độ và hành động của một viên quan coi ngục đối với
một phạm nhân tử tù, mà đó là thái độ và hành động của một con người có lương tâm
trong sáng trước cái đẹp, cái tài và cái tâm sáng ngời nơi Huấn Cao. Trong cảnh cho chữ,
vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao tỏa sáng, khiến cho viên quản ngục “khúm núm”, cịn thầy
thơ lại thì “run run”, vừa vì vui mừng vừa vì kính phục.
Vậy là, trong không gian tù ngục tối tăm bẩn thỉu, cái tài cái đẹp vẫn tỏa sáng. Miêu

12


tả Huấn Cao với tài viết chữ đẹp, Nguyễn Tuân đã thể hiện một đặc điểm trong phong
cách nghệ thuật của mình, đó là ln khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Thứ hai, Huấn Cao là người có vẻ đẹp khí phách phi thường. Vẻ đẹp khí phách
mạnh mẽ, phi thường, hiên ngang bất khất của nhân vật Huấn Cao cũng được nhà văn
giới thiệu ngay từ đầu tác phẩm, trước khi Huấn Cao xuất hiện, qua lời đối thoại giữa viên
quản ngục và thầy thơ lại: “người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại cịn có tài
bẻ khóa và vượt ngục nữa”, Huấn Cao là người “văn võ đều có tài cả”, “giả sử tôi là đao
phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩa mà thấy tiêng tiếc”.
Khi vừa đến cửa đề lao, trước mặt lính áp dải, “Huấn Cao lạnh lùng, chốc mũi
gơng nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh
một cái”. Hành động ấy gợi cho người đọc liên tưởng đến hành động của những bặc

anh hùng Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai (Truyện
Kiều – Nguyễn Du). Trong thời gian ở nhà lao, Huấn Cao thản nhiên hưởng sự biệt đãi của
thầy trò viên quản ngục, lại còn chửi mắng, khinh bỉ họ. Huấn Cao biết rằng ơng có thể sẽ
bị những trận đòn roi và sự tàn bạo của quan coi ngục, nhưng ông không hề sợ hãi. Với ông
“đến cái cảnh chết chém ơng cịn chẳng sợ nữa là những trị tiểu nhân thị oai này”.
Là tử tù, nhưng trong nhà lao, Huấn Cao vẫn sống ung dung, đường hồng, khơng
chút vướng bận. Mặc dù cổ đeo gông, chân vướng xiềng nhưng ông vẫn say sưa cho chữ
viên quản ngục, không hề nghĩ đến cái chết đang cận kề. Khi nghe thầy thơ lại thông báo
việc ngày mai phải về kinh chịu án tử hình, Huấn Cao vẫn bình thản. Trước khi cho chữ
viên quản ngục, Huấn Cao đã nói rằng: “Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế
mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Câu nói ấy cũng phần nào thể hiện một khí phách
mạnh mẽ, hiên ngang bất khuất của nhân vật Huấn Cao.
Huấn Cao với vẻ đẹp khí phách hiên ngang bất khuất chính là sự hóa thân của tác
giả: một người mang phong cách Ngông, lấy cái tài và cái tâm hơn đời của mình để ngạo
nghễ, khinh thường xã hội đầy xấu xa đương thời.
Cuối cùng, Huấn Cao là người mang vẻ đẹp thiên lương trong sáng. Ơng ln có ý
thức cao về tài năng, danh dự của mình, “khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình
viết câu đối bao giờ”. Trong suốt thời gian ở nhà lao của viên quản ngục, ơng ln cú ý
thức giữ gìn thiên lương, “bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Sau khi hiểu rõ
tấm lòng chân thành, trong sáng của viên Quản ngục, ơng đã hết sức cảm động mà nói
rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người
như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao q như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ
mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Sau đó ơng đã nhận lời cho chữ viên quản ngục. Cho
chữ xong, Huấn Cao đã chân thành khuyên viên quản ngục “về nhà quê mà ở, hãy thoát
khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ”. Vậy là, trước uy quyền, vũ lực,
và ngay cả cái cảnh chết chém đều không thể làm Huấn Cao vướng bận, nhưng một
tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục đã khiến ông phải xúc động, xem như tri kỉ
tri âm.
Dưới ngòi bút lãng mạn và nghệ thuật lí tưởng hóa nhân vật, Nguyễn Tn đã
xây dựng thành cơng hình tượng Huấn Cao mang vẻ đẹp hài hịa giữa tài năng, khí phách

và thiên lương trong sáng. Qua nhân vật này chúng ta thấy rõ một nét phong cách nghệ

13


thuật nổi bật của Nguyễn Tuân: ưa tìm những cái đẹp biệt lệ, độc đáo, thích khám phá
nhân vật ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật Huấn Cao cũng thể hiện tư tưởng thẩm mĩ
của nhà văn: tài và tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời. Cái đẹp chiến thắng tất cả,
cái đẹp cứu vớt nhân thế. Đồng thời, cũng qua nhân vật này tác giả thể hiện niềm khao khát
được thoát khỏi cuộc sống tối tăm, và kín đáo bộc lộ tấm lịng u nước thiết tha của nhà
văn.
Nói thêm về viên Quản ngục, về vị trí xã hội, Quản ngục là người mang chức phận
cai tù, sống giữa gông xiềng và tội ác, luôn phải chứng kiến những cảnh tàn nhẫn, lừa lọc.
Cảnh sống ấy dễ đẩy con người vào bùn nhơ. Thế nhưng trong chốn tù ngục tối tăm ấy,
viên quản ngục vẫn xuất hiện như một thanh âm trong trẻo giữa chốn hỗn loạn xô bồ. Quả
đúng là “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” (ca dao). Trong cảnh ngục tù, viên quản
ngục luôn ý thức rõ về bản thân: “cỏi thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”, và ơng ln
day dứt vì đã chọn nhầm nghề. Điều đặc biệt là đối lập với công việc quản ngục, nhân vật
này lại có một sở nguyện hết sức thanh cao, đó là thèm có được chữ Huấn Cao để treo
trong nhà như một báu vật. Mặc dù phải làm cái công việc biểu trưng cho tội ác và sự tàn
nhẫn, nhưng viên quản ngục lại rất biết quý trọng, nâng niu cái tài cái đẹp, khát khao cái
đẹp, lo sợ đánh mất cái đẹp, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng chỉ vì cái đẹp. Hành
động biệt đãi của viên quản ngục đối với Huấn Cao suốt nửa tháng trời đủ nói lên điều đó.
Trước lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục đã khúm núm vái lạy, nước mắt nghẹn
ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái vái lạy và dịng nước mắt khơng làm viên quản
ngục nhỏ bé, thấp hèn. Trái lại, càng làm cho nhân cách của nhân vật này trở nên cao đẹp và
sáng ngời hơn. Quả đúng như Nguyễn Tuân đã viết trong truyện: “Trong hoàn cảnh đề lao,
người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết
trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Quản ngục khác với Huấn Cao về vị thế xã hội, nhưng lại là tri âm tri kỉ với Huấn
Cao về tâm hồn, họ đều là những người có lương tâm trong sáng, biết quý trọng và nâng
niu cái đẹp. Nếu Huấn Cao là người sáng tạo ra cái đẹp, thì viên Quản ngục là người
hướng về cái đẹp, hưởng thụ và nâng niu cái đẹp. Chính sự gặp gỡ ấy đã đưa hai con
người vốn xa nhau về địa vị xã hội đến gần nhau, trở thành tri âm tri kỉ của nhau. Qua hai
nhân vật Huấn Cao và viên Quản ngục, tác giả đã khẳng định cái đep nói chung và cái đẹp
trong nghệ thuật nói riêng ln có một sức sống bất diệt bất chấp mọi hoàn cảnh.
Cảnh cho chữ được diễn ra trong một không gian và thời gian hết sức đặc biệt: “Đêm
hơm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ cịn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân dán”. Trong khơng gian đó, “một bó đuốc tẩm dầu rọi
lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
“Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm
cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ơ chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy
gị, thì run run bưng chậu mực”.
Cảnh tượng đó được nhà văn miêu tả thật sống động, gợi cảm, từ ngữ phong phú, câu

14


văn có nhịp điệu, giàu sức dư ba. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một “tượng đài
thiên lương” gồm ba con người chụm đầu vào nhau theo bút pháp điện ảnh. Ba cái đầu chụm
vào nhau trong bức tượng đài thiên lương ấy thể hiện tấm lòng biệt nhỡn liên tài của cả ba
con người, và của tác giả Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ được tái hiện trên đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Cho
chữ, xin chữ là thú chơi tao nhã, thường diễn ra nơi thư phòng trang trọng, sạch sẽ. Trong
trường hợp này, cảnh cho chữ lại diễn ra giữa chốn ngục tù đầy bóng tối, bẩn thỉu. Nhà
ngục là nơi giam cầm, đày đọa con người, nhưng chính nơi đây lại diễn ra một việc làm
trái khốy, đó là người ta viết chữ tặng nhau, cứ đường hồng bình thản như ở bên ngoài.

Cảnh cho chữ lẽ ra phải diễn ra ở những lúc trà dư tửu hậu, trong trạng thái thoải mái. Ở
đây, Huấn Cao – người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp lại trong tư thế cổ đeo gông, chân vướng
xiềng và là kẻ tử tù mà vẫn ung dung viết chữ. Trong cảnh cho chữ có sự đổi ngơi: người
tử tù lại ở tư thế bề trên, uy nghi, lồng lộng; còn viên quản ngục và thầy thơ lại, những kẻ
có quyền thế thì lại “khúm núm” và “run run”, kính cẩn, trọng vọng người tử tù.
Vậy là, trong cảnh ngục tù tăm tối, cái đẹp, cái tài hoa, cái thiên lương trong sáng
đã lên ngôi. Sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối, của cái thiện trước cái ác, của
cái đẹp trước cái xấu xa nhơ bẩn, của cái cao cả trước cái thấp hèn, của tinh thần bất khuất
hiên ngang trước thái độ cam chịu nô lệ. Đó là sự chiến thắng của chân, thiện, mĩ trước
mọi hồn cảnh. Có những người như viên quản ngục phải sống trong môi trường bẩn thỉu,
ác độc nhưng tâm hồn vẫn hướng về cái đẹp. Đó chính là niềm tin của tác giả vào bản
chất hướng thiện của con người.
Cảnh cho chữ giản dị mà thiêng liêng ấy đã thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc
sống và nghệ thuật: cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người nghệ sĩ trước hết phải có thiên
lương trong sáng. Những con người có tài cao đức trọng sẽ bất tử trong lòng người đời.
Cũng qua cảnh cho chữ này, Nguyễn Tuân đã gửi đến người đọc một lời đề nghị về lối
sống: dù trong hoàn cảnh nào cũng hướng về cái đẹp, cái thiện. Nói như Cao Bá Quát
rằng “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời chỉ cúi đầu vái lạy hoa mai).
* Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Cái đẹp trong Hai đứa trẻ biểu hiện trên những phương diện nào? Giá trị thẩm mĩ
được thể hiện qua cái đẹp ấy?
Trước hết, truyện ngắn Hai đứa trẻ hấp dẫn người đọc bởi cái đẹp của khung cảnh phố
huyện khi chiều bng, “tiếng trống thu khơng trên cái chịi của huyện nhỏ; từng tiếng một
vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng
như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. “Một
chiều êm ả như ru” thấm đượm nỗi buồn dịu nhẹ, có màu sắc của mặt trời trong cảnh ngày
tàn, có âm thanh của ếch nhái kêu ran, có gió nhẹ thoang thoảng từ ngồi đồng thổi vào, có
cả mùi riêng của đất.
Cảnh sắc thiên nhiên dịu nhẹ, mang nỗi buồn man mác thấm vào lòng người nơi
phố huyện nghèo. Nổi bật lên giữa khung cảnh ấy là hình bóng mờ nhạt của những mảnh

đời bé nhỏ, những kiếp sống nghèo đói, leo lắt: mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi lại nhặt nhạnh
những thanh nứa thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được mà những người bán hàng
bỏ lại trên sau buổi chợ tàn. Chị Tí ban ngày mị cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước bên

15


gốc cây bàng. Cái “cửa hàng nước” ấy chỉ có hai cái ghế và cái chõng, vài thứ điếu đóm mà
tối tối hai mẹ con cứ mang đi mang về nhưng cũng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bà cụ Thi
hơi điên với tiếng cười khanh khách và dáng đi lảo đảo lần bước lần vào đêm tối.
Cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi phố huyện buổi ngày tàn dường như
có sự tương hợp với nhau, gợi nỗi buồn man mác trong lòng người đọc về cuộc sống
nghèo nàn, buồn tẻ nơi phố huyện.
Khi trời đã bắt đầu đêm, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát.
Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, các nhà đều cửa đóng then cài.
Bóng tối ngập tràn cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ
vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. Bóng tối dày đặc, thành hình thành khối, ngập tràn
khắp cảnh vật, thâm nhập vào cả lòng người. Trong đêm tối thăm thẳm ấy, chỉ có một
vài khe sáng cịn hé ra từ những cửa hàng nước bé nhỏ, vệt sáng của những con đom
đóm, quầng sáng lay lắt nơi ngọn đèn trên chõng hàng chị Tí, chấm lửa lơ lửng lúc ẩn lúc
hiện từ gánh phở của bác Siêu, và từng hột sáng lọt qua phên nứa trong cửa hàng của chị
em Liên. Đặt hai nguồn sáng tối bên nhau, bóng tối lại càng tối hơn. Bóng tối được đặc tả
như một sức mạnh khủng khiếp đè nặng lên những kiếp người mòn mỏi. Ánh sáng dù bé
nhỏ, leo lắt, không đủ xua tan bầu trời tăm tối và cuộc sống nghèo khổ, leo lắt nơi phố
huyện nghèo, thì cũng phần nào thể hiện tâm hồn của những con người nơi đây: dù nghèo
khổ thế ấy, nhưng tâm hồn họ vẫn ấm áp tình người. Trong tối tăm chừng ấy người nơi
phố huyện vẫn cùng nhau hướng về ánh sáng, hướng về một cuộc sống tươi đẹp, dù đó
chỉ là mơ ước bé nhỏ, mong manh.
Trong không gian ấy, Bác phở Siêu gánh hàng đi trong đêm, tiếng địn gánh kĩu kịt,
bóng bác lơ lửng trong đêm tối. Chị Tí vẫn ngồi bên ngọn đèn leo lét để chờ một vài

người khách quen thuộc. Vợ chồng bác Xẩm góp vui bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong
yên lặng. Chị em Liên buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn phải gượng thức khuya. Những
kiếp sống nghèo khổ, leo lắt ấy như làm nặng thêm không khí tĩnh mịch của phố huyện lúc
về đêm.
Khi đêm đã về khuya, cảnh vật và sự sống của phố huyện chìm hẳn trong thẳm sâu
đêm tối. Âm vang tiếng trống cầm canh dường như cũng bị cô đặc lại bởi bóng tối, “tiếng
ngắn khơ khan, khơng vang động xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”. Trong cảnh đêm khuya
vắng lặng, buồn tẻ, chừng ấy con người nơi phố huyện vẫn gắng đợi đoàn tàu, và đoàn tàu
đã đến – một chuyến tàu “không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng
hơn” nhưng cũng đủ xua tan cái màn đêm tĩnh lặng đang bủa vây không gian và lòng người
nơi phố huyện nghèo.
Thiên nhiên hiu hắt, cuộc sống con người nghèo khổ, buồn tẻ được Thạch Lam cảm
và tả với đủ màu sắc, âm thanh, hương vị đã tạo nên một không gian đặc trưng trong truyện
ngắn Hai đứa trẻ - một kiểu không gian nửa mùi thôn ổ nửa đã thị thành, một kiểu không
gian ngập đầy bóng tối. Khơng gian ấy góp phần chuyển tải cái nhìn của Thạch Lam về hiện
thục đời sống con người và xã hội thời bấy giờ. Trong khi Vũ Trọng Phụng thẳng thừng bảo
rằng đó là một “xã hội chó đểu”, Nam Cao khơng phát ngơn trực tiếp mà cô đặc xã hội
trong bức tranh làng Vũ Đại đầy những cảnh trái ngang phi lí, cịn Nguyễn Tn gọi đó là
xã hội “ối a ba phèng” , thì Thạch Lam phản ánh xã hội một cách nhẹ nhàng, kín đáo – phản

16


ánh qua cái không gian nửa thành thị nửa nông thôn nghèo nàn, buồn tẻ. Vậy là, cái đẹp của
không gian phố huyện không chỉ ở cảnh và người, mà còn ở giá trị thẩm mĩ mà nhà văn gửi
gắp trong không gian ấy. Qua bức tranh phố huyện – một bức tranh đẹp và man mác buồn
như chính cuộc sống con người nơi đây, Thạch Lam vừa phản ánh được hiện thực đời
sống tối tăm, bế tắc, vừa thể hiện được nỗi niềm thương cảm sâu xa của mình đối với
những kiếp sống mòn mỏi, và thái độ nâng niu, trân trọng đối với những tâm hồn trẻ thơ.
Đồng thời, cũng qua đó tác giả đã gửi đến người đọc một thơng điệp: hãy mở rộng tấm

lịng thương u, trân trọng, và nâng niu đối với những mảnh đời tối tăm, bé nhỏ, đặc
biệt là những tâm hồn trẻ thơ, đừng để ước mơ của chúng bị vùi lấp vào đêm tối.
Hai đứa trẻ đặc biệt hấp dẫn người đọc bởi cái đẹp của lịng người và tình đời.
Thạch Lam đã rất tinh tế khi khai thác những cảm xúc, cảm xác hết sức tế vi trong thế
giới tâm hồn con người, đặc biệt là tâm hồn nhạy cảm của nhân vật Liên. Không gian
buồn và cuộc sống nghèo khổ của phố huyện trong buổi chiều tà dường như đã thấm thía
vào tâm hồn Liên; “chị” man mác buồn, động lòng thương lũ trẻ nhà nghèo, đứng sững dõi
mắt nhìn theo dáng hình dật dờ của bà cụ Thi... Có lẽ cuộc sống nghèo khổ đã khiến cơ
bé Liên nhạy cảm, dễ rung động một cách đáng thương như thế, và đó cũng chính là nét
đẹp của tâm hồn mà Thạch lam hết sức nâng niu, trân trọng.
Khi bóng đêm đã đè nặng lên phố huyện, nỗi lòng man mác, mơ hồ của Liên càng
đậm đà hơn. Lúc này, “đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”, “chị ngồi
n khơng động đậy”, tâm hồn chị “yên tỉnh hẳn” và vẫn cứ “mơ hồ không hiểu”. Liên
khơng hiểu vì sao cuộc sống nơi đây lại tối tăm đến vậy, vì Liên mới chỉ là một cơ bé mà
đã phải quẩn quanh bên cái cửa hàng nhỏ xíu để kiếm kế sinh nhai, làm sao có thể hiểu
được vì sao cuộc sống con người và xã hội lại tối tăm và bế tắc như thế. Thạch Lam
không trực tiếp phản ánh hiện thực, mà từ tâm trạng của những mảnh đời bé nhỏ này để
soi rọi, làm hiện lên bức tranh hiện thực đời sống. Đó là một lối đi độc đáo trong con
đường nghệ thuật của nhà văn.
Khi đêm đến, khơng gian có bóng tối ngập tràn, có ánh sáng le lói. Lịng Liên cũng
vậy. Bên cạnh nỗi buồn, tâm hồn Liên cịn có những ước mơ tươi đẹp. Trong đêm tối, hai
chị em Liên “ngước mắt nhìn lên các vì sao để tìm sơng Ngân Hà và con vịt theo sau ơng
thần nơng”. Cái nhìn lên của chị em Liên thật hồn nhiên và cũng thật đáng thương. Tác giả
đã nâng niu, trân trọng những ước mơ ấy, dù biết rằng ước mơ của hai đứa trẻ thật xa vời,
chỉ có trong cổ tích mà thơi. Trước mắt hai đứa trẻ vẫn ngập đầy bóng tối.
Cũng trong cảnh phố huyện tối tăm ảm đạm, Liên nhớ lại kỷ niệm về Hà Nội, nơi
gắn với những thứ quà ngon, được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước mát lạnh xanh
đỏ. Đó là quá khú sáng rực và lấp lánh. Kỷ niệm ngọt ngào ấy cũng là một nét đẹp trong
tâm hồn nhân vật Liên, dù “kỷ niệm khơng rõ rệt gì” nhưng Thạch Lam cũng cố nâng niu.
Bên cạnh nhân vật Liên cịn có bác phở Siêu với gánh hàng kĩu kịt, chị Tí bên

ngọn đèn leo lét, vợ chồng bác Xẩm với mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng… Những
kiếp sống nghèo khổ, leo lắt, nhưng bóng đêm khơng dập tắt hy vọng trong họ. Cuộc sống
của họ dẫu nghèo, vất vả nhưng tâm hồn họ vẫn ấm cúng lạ thường. Trong đêm khuya,
những con người nghèo khổ ấy chụm đầu bên nhau, cùng mong đợi một cái gì tươi sáng
hơn. Sự nhẫn nại chờ đợi đoàn tàu đến đã thể hiện cái khát vọng cao đẹp ấy. Chuyến tàu đi

17


qua phố huyện có ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống tươi sáng đẹp đẽ, lấp đi khoảng trống
trong tâm hồn người, nuôi dưỡng ước mơ hy vọng về tương lai. Có lẽ chính vì vậy mà dù
chỉ vụt qua trong chốc lát nhưng chuyến tàu như khiến cả phố huyện thốt ra khỏi cái
khơng khí tù đọng vốn có và con người lại lặng theo những mơ tưởng mơ hồ.
Như vậy, cái đẹp trong Hai đứa trẻ là cái đẹp của khung cảnh thiên nhiên, của
con người lao động nghèo khổ nhưng ăm ắp tình yêu thương, sự cảm thông chia sẻ, là kỷ
niệm về tuổi thơ tươi đẹp và khát vọng về ngày mai tươi sáng hơn. Qua tâm trạng của
Liên, qua nỗi lịng ngóng đợi đồn tàu của chừng ấy người nơi phố huyện, Thạch lam đã
cho người đọc thấy rằng: cuộc sống tối tăm, tù túng và đơn điệu không giam hãm được
tâm hồn luôn khát khao ánh sáng của con người nơi phố huyện nghèo. Họ nghèo về vật
chất nhưng lại giàu có về tinh thần, họ sống khổ nhưng tâm hồn vẫn ấm cúng, vẫn lạc
quan tin tưởng và luôn hy vọng vào tương lai.
Qua cái đẹp của cảnh, của người Thạch lam còn gửi đến người đọc một thơng điệp
mang tính thời đại: hãy nâng niu, trân trọng những tâm hồn trẻ thơ, những khát vọng chân
chính của người dân nghèo, đừng để ước mơ khát vọng của họ bị vùi lấp trong bầu trời đen
tối. Truyện ngắn Hai đứa trẻ vì thế có thể xem như một minh chứng cho quan niệm của
Thạch Lam: “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố
cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch
và phong phú hơn” [4].
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Theo chủ quan chúng tôi, đề tài này rất có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Trước

hết, đề tài đưa đến một hướng tiếp cận mới về cái đẹp trong văn phẩm của Thạch Lam và
Nguyễn Tuân - tìm vào cái đẹp tức là tìm vào bản chất của văn chương, tìm vào hồn cốt
của Thạch Lam và Nguyễn Tuân.
Về mặt thực tiễn, đề tài này sẽ giúp ích cho giáo viên và học sinh trong việc khám
phá, giảng dạy và học tập tác phẩm của hai nhà văn này nói chung và các tác phẩm của
họ trong nhà trường nói riêng. Từ việc khám phá hai nhà văn này mà có thể vận dụng để
khám phá những nhà văn khác.
Đề tài này đã được chúng tôi kiểm nghiệm qua thực tiễn giảng dạy cho các em học
sinh giỏi và đã được anh chị em đồng nghiệp ghi nhận. Kết quả cho thấy, đối với học sinh,
các em hết sức hứng thú và ngộ ra những điều lí thú khi tiếp xúc với nội dung đề tài. Văn
Thạch Lam và Nguyễn Tuân vốn rất hay và khó, việc tìm đúng bản chất tinh hoa trong tác
phẩm của hai nhà văn này lại càng khó hơn. Đề tài này một phần giúp các em hiểu hơn
về cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm của Thạch lam và Nguyễn Tuân, một phần giúp
các em hứng thú hơn, say mê hơn khi đến với tác phẩm của hai nhà văn mà tâm lí các em
lâu nay vẫn rất e ngại. Chúng tôi cũng hy vọng đề tài này sẽ là một tài liệu hữu ích cho các
thầy cơ giáo trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Tuân
trong nhà trường.

18


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN

So sánh cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân và Thạch Lam - định hướng cảm thụ hai tác
phẩm “Chữ người tử tù” của Ngyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là đề tài địi
hỏi người viết phải có cả chiều rộng lẫn bề sâu. Để thực hiện đề tài này nhất thiết phải nắm
vững toàn bộ sự nghiệp văn học của Thạch Lam và Nguyễn Tuân - từ quan niệm đến thực
tiễn sáng tác. Mặt khác, quan trọng hơn là phải cố gắng để tìm ra những điểm đặc trưng của
mỗi nhà văn. Họ đều là nhà văn của cái đẹp, vậy họ khác nhau chỗ nào? Họ có đóng góp

riêng gì cho nền văn học dân tộc? và khai thác tác phẩm của họ như thế nào cho đúng hướng?
Đó là khó khăn khơng nhỏ mà người viết đề tài này phải nỗ lực vượt qua. Với thời gian hạn
hẹp, chúng tơi đã nỗ lực tìm tịi, khám phá, vận dụng thành quả nghiên cứu của những người
đi trước kết hợp với những suy nghĩ của riêng mình, việc thực hiện đề tài này dù khó khăn
nhưng cũng đã hồn thành.
Trong đề tài, chúng tôi đã lần lượt chỉ rõ và phân tích đặc điểm trong hành trình kiếm
tìm cái đẹp của hai nhà văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Trên cơ sở đó chúng tơi đã rút ra
những điểm đặc trưng của hai nhà văn về phương diện này. Cuối cùng, tác giả đề tài cũng đã
đưa ra những định hướng khá chi tiết đối với việc khai thác các tác phẩm của Thạch lam và
Nguyễn Tuân trong nhà trường THPT.
Cái đẹp trong văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân dưới góc nhìn so sánh là một đề tài
khá rộng. Bước dầu chúng tôi chỉ mới khai thác cái đẹp ở phương diện nội dung và ý
nghĩa thẩm mĩ của nó. Cái đẹp về phương diện hình thức trong tác phẩm của hai nhà văn
này vẫn còn là một khoảng trống mời gọi người đọc khám phá. Chúng tôi hy vọng trong
tương lai sẽ có nhiều người cùng chúng tơi tiếp tục hành trình nghiên cứu sâu hơn, rộng
hơn về mọi phương diện trong sự nghiệp sáng tác của hai cây bút tiêu biểu này.
3.2. KIẾN NGHỊ

Đề tài này có thể không phù hợp với đông đảo học sinh, nhưng sẽ rất có ý nghĩa đối
với các em học sinh có năng lực văn chương khá, giỏi. Thiết nghĩ, nếu đề tài này được nhân

19


rộng, phổ biến thì sẽ đưa lại hiệu quả cao trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Khi viết
đề tài này chúng tôi không kỳ vọng cao xa, chỉ mong được góp một tiếng nói mới, một
tài liệu tham khảo có ích cho các thầy cơ giáo và các em học sinh. Những khiếm khuyết
trong đề tài ắt sẽ không tránh khỏi, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của bạn đọc
để đề tài được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 24 tháng 5 năm 2016
Cam kết khơng copy

Lê Hồng Chính

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu), Thạch Lam về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, 2001
[2]. Lê Văn Dương, Lê Đình Lục, Lê Hồng Vân, Mĩ học đại cương, Nxb Giáo dục,
1999
[3]. Đỗ Huy, Mĩ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1992
[4]. Thạch Lam, Gió đầu mùa (tập truyện ngắn), Nxb Đời nay, 1937
[5]. Thạch Lam, Nắng trong vườn (tập truyện ngắn), Nxb Đời nay, 1938 [6].
Thạch Lam, Theo dòng (tiểu luận), Nxb Đời nay, 1941
[7]. Thạch Lam, Sợi tóc (tập truyện ngắn), Nxb Đời nay, 1942
[8]. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Giáo dục, 1997
[9]. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, 1998
[10]. Lê Ngọc Trà (chủ biên), Giáo trình mĩ học đại cương, Nxb Văn hố Thơng tin, 2005
[11]. Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1, Nxb Văn học, 1982.
[12]. Tsernushevski, Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực, Nxb Văn hóa
Nghệ thuật, Hà Nội, 1962
[13]. Nhiều tác giả, Ngữ văn 10, Nâng cao, tập 2, Nxb Giáo dục, 2006. [14].
Nhiều tác giả, Ngữ văn 11, Nâng cao, tập 1, Nxb Giáo dục, 2006. [15]. Nhiều
tác giả, Ngữ văn 12, Nâng cao, tập 1, Nxb Giáo dục, 2008.

20



21



×