Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 12a2, 12a5 trường THPT quan sơn chủ động trong giờ học lịch sử bằng việc sử dụng các sơ đồ dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.13 KB, 25 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong những năm vừa qua, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Lịch sử nói riêng được đông đảo
mọi người quan tâm. Trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan
tâm đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đồng thời Bộ giáo
dục và Đào tạo đã chủ trương đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện quá trình
dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm. Đưa phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm trong các cấp học, các môn học, thay sách giáo khoa cho phù
hợp và đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cũng như việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông theo
phương pháp mới còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực lớn của thầy
và trò. Nhằm thực hiện mục tiêu dạy học theo quan điểm đổi mới, phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động cho học sinh (HS) cần đạt các kĩ năng
cần thiết, đặc biệt là định hướng cho HS tự khai thác, nghiên cứu tư liệu. Thực hiện
phương châm đổi mới thay sách: "nghe là quên, nhìn là nhớ, thực hành là hiểu”.
Để đạt được kết quả tốt trong dạy và học trong trường phổ thông nói chung,
môn Lịch sử nói riêng ta phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy và học. Người
giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu
tiên đến khâu kết thúc giờ học. Từ cách ổn định lớp kiểm tra bài cũ đến học bài
mới, củng cố dặn dò. Những hoạt động đó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một
cách tự giác chủ động, tích cực sáng tạo và ngày càng yêu thích say mê môn học.
Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú say mê trong giờ học Lịch sử? Điều
này đã khiến tôi trăn trở rất nhiều. Từ việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông
tin, tổ chức thảo luận nhóm đến dạy học liên môn… cũng đã giúp tôi cải thiện tích
cực trong quá trình dạy học. Trong năm học vừa qua tôi áp dụng nhiều phương
pháp sử dụng sơ đồ để dạy học ở các lớp tôi được chuyên môn phân công. Kết quả
là đa số HS rất tích cực hoạt động trong giờ học, HS thích được tự làm sơ đồ để
học và các em không còn sợ đến giờ cô kiểm tra bài cũ nữa. Tôi nghĩ rằng phương
pháp sử dụng sơ đồ để dạy học không còn là mới và đã có nhiều giáo viên áp dụng


nhưng đối với một trường đóng trên địa bàn vùng đặc biệt khó khăn như trường tôi
thì phương pháp này có thể gọi là mới và có tác dụng tích cực đối với việc dạy bộ
môn Lịch sử ở đây.
Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử là một trong những biện pháp dạy học
có vai trò quan trọng góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Do đó cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử theo hướng sử
1


dụng sơ đồ để dạy học nhằm để nâng cao hiệu quả dạy học ở trường phổ thông là
phương pháp cần thiết trong quá trình dạy học bộ môn Lịch sử.
Có nhiều dạng sơ đồ kiến thức giáo viên có thể sử dụng một cách linh hoạt
phù hợp với nội dung, thời lượng của tiết học, giáo viên có thể đưa vào cuối mỗi
mục hay cuối nội dung bài học để học sinh có thể nắm khái quát toàn bộ kiến thức
mà mình đã học.
Hiện nay tình trạng học sinh học bài theo kiểu ngồi “đọc vẹt” còn rất nhiều,
vì thế mà sau khi học xong các em không nhớ được hết nội dung, có thể quên ngay,
hoặc nếu có nhớ thì cũng không nhớ hết, mà nếu có nhớ hết thì các em cũng đọc
liền mạch từ đầu đến cuối, giáo viên bảo trình bày một đoạn, hay một mục kiến
thức nào đó thì các em trở nên lung túng, trình bày một cách không theo trình tự.
Vì thế cần phải tìm ra một phương pháp mới để giúp học sinh có thể nắm được
kiến thức một cách chắc chắn nhất.
Qua một thời gian sử dụng phương pháp sử dụng sơ đồ vào dạy học bộ môn
Lịch sử, tôi thấy rằng các em có sự hứng thú cao trong học tập và chất lượng bộ
môn được nâng lên rõ rệt. Nhưng về phía bản thân giáo viên cần phải có một số sự
chuẩn bị chu đáo về hệ thống sơ đồ kiến thức. Trong một tiết giáo án ngoài việc
chuẩn bị về nội dung, phương pháp, hình ảnh…thì sơ đồ kiến thức là một khâu
quan trọng để kiểm tra kiến thức, khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh ở mỗi
mục, hay cuối bài, không những thế còn giúp cho học sinh có thể học bài cũ một
cách dể nhớ hơn.

Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chỉ chú ý đến nội dung,
phương pháp mà không chú ý đến việc học sinh nắm kiến thức như thế nào. Bằng
cách nào để học sinh nắm được kiến thức, đấy mới là điều quan trọng. Từ những
cơ sở lý luận và thực tiễn như vậy qua một thời gian áp dụng hệ thống sơ đồ kiến
thức trong quá trình giảng dạy trên lớp tôi thấy có hiệu quả về nhiều mặt. Do đó tôi
quyết định chọn đề tài: “ Hướng dẫn học sinh lớp 12A2 và 12A5 trường THPT
Quan Sơn chủ động trong giờ học Lịch sử bằng việc sử dụng các sơ đồ để dạy
học”
II. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất
định để trang bị cho những kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tỉnh, thi ĐH-CĐ cho
học sinh thi khối C; Khắc phục tình trạng “học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ
quan niệm “giáo viên là trung tâm” sang quan niệm “lấy học sinh làm trung tâm”.
Giúp các em hình thành và phát huy tư duy tự học, tự tìm hiểu và giải quyết
các vấn đề liên quan đến lịch sử, nhất là những vấn đề mà giáo viên cũng như học
sinh thường sa vào phân tích chính trị, nặng về giáo điều lý luận.
2


Đề tài đi sâu nghiên cứu một nội dung mới, người giáo viên chỉ đóng vai trò
hướng dẫn và kết luận. Sơ đồ để dạy học cũng có thể xem là những phiếu học tập.
Khi tiến hành dạy bài mới giáo viên phát cho học sinh những sơ đồ “câm”, giáo
viên giảng bài và hướng dẫn học sinh trả lời các thông tin trên sơ đồ. Giáo viên có
thể vẽ sơ đồ bài học lên bảng và gọi đại diện các nhóm hoặc các tiểu nhóm lên
trình bày. Sau đó giáo viên nhận xét và kết luận.
III. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với phương pháp
“Hướng dẫn học sinh lớp 12A2 và 12A5 chủ động trong giờ học Lịch sử bằng
việc sử dụng các sơ đồ để dạy học".
IV. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu hỗ trợ.
- Phương pháp phát vấn, nêu vấn đề.
- Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung.
- Ngoài việc soạn giáo án, giáo viên phải thiết kế sơ đồ để vận dụng. Vì vậy đòi hỏi
giáo viên phải đầu tư một khối lượng thời gian tương đối lớn.
- Muốn thiết kế sơ đồ yêu cầu người giáo viên phải cơ bản biết sử dụng máy vi
tính, phải có sự kiên trì, phải bỏ ra một số kinh phí nhất định để in và photo sơ đồ
cho các nhóm học sinh, cho các lớp mình dạy học.

3


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường đều
nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất
đạo đức chính trị cho học sinh.
Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ. Học quá khứ để nhận
thức hiện tại và phán đoán tương lai, đó là đặc thù của môn Lịch sử. Muốn học tốt
lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người. Đặc trưng
nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ môn chính trị, nhưng lịch sử gần
với chính trị.
Hướng dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng
của phương pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương
pháp riêng, tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một
cách thoải mái, tự giác, tích cực. Trong chương trình lịch sử lớp 12 rất nhiều bài

học giáo viên có thể vận dụng sơ đồ để dạy học theo phương pháp nhóm.
Trong những năm qua khi thực hiện chương trình dạy học tích cực lấy học
sinh làm trung tâm, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được nhiều người quan
tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong
việc nâng cao chất lượng dạy học… Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những
kiến thức cơ sở của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn
phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn
học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo. Đã
có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa,
ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não,
không có bài tập thực hành,… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm
chất lượng môn học.
Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là thầy
dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí tuệ của
học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của các em. Hiện nay, trong quá
trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện.
Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài… nhưng về căn bản đã được
hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ
và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng,
sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là
nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì
vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ
4


giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi
mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.
II. Thực trạng của vấn đề
Năm học vừa qua Bộ GD và ĐT chủ trương đổi mới trong thi cử, học sinh
được chọn môn thi tốt nghiệp và kết quả là có rất nhiều trường không có học sinh

nào đăng ký thi tốt nghiệp môn Lịch sử. Có những hội đồng thi chỉ có duy nhất
một thí sinh thi môn Lịch sử. Điều này nói lên thực trạng rất báo động của bộ môn
Lịch sử trong hệ thống giáo dục của nước ta hiện nay.
Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng đổi
mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả không có mấy
chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch sử Việt
Nam học sinh trở nên “mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử Trung Quốc
thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho thầy cô. Thật là
một thực trạng đáng báo động.
Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lòng,
ghi nhớ một cách máy móc, đối phó với thi cử, thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích,
tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử. Trong các cuộc thi như “Đường lên đỉnh
Olympia”, các chương trình vui chơi giải trí trên truyền hình như: “Đấu trường
100”, “Ai là triệu phú” và kể cả sân chơi ở trường tổ chức như “Rung chuông
vàng”… các thí sinh và những người chơi đa số mất điểm hoặc bị loại ở câu hỏi
liên quan đến lịch sử.
Có rất nhiều cuộc họp, rất nhiều Hội thảo bàn về cách dạy và học Lịch sử đã
diễn ra trong mấy năm lại đây để tìm ra nguyên nhân, tìm biện pháp khắc phục. Và
rất nhiều nguyên nhân được đề cập. Theo tôi thì do những nguyên nhân sau đây:
Một là, hiện nay nhu cầu xã hội giành cho học sinh theo học các môn khoa
học xã hội rất ít. Các trường đại học, cao đẳng mọc lên ngày càng nhiều nhưng chủ
yếu là giành cho các học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên. Vì vậy, số học
sinh có nhu cầu theo học các môn khoa học xã hội tại các trường THPT là rất ít. Để
chọn được hai, ba em bồi dưỡng vào đội tuyển là rất khó khăn, thậm chí có nhiều
trường không duy trì được lớp khối C.
Hai là, học sinh theo học các ngành xã hội tại các trường Đại học, Cao đẳng
sau khi ra trường mặc dù có bằng tốt nghiệp khá và giỏi nhưng vẫn không xin được
việc làm, nhất là ngành lịch sử. Thực tế là những ngành khoa học xã hội đa số
thuộc biên chế của nhà nước, cho nên nhu cầu sử dụng lao động rất ít. Nếu có việc
làm thì lương cũng rất thấp. Đúng là “cơm áo gạo tiền ghì sát đất”. Vì vậy, đa số

phụ huynh và học sinh quay lưng với môn học này.

5


Ba là, môn Lịch sử trong các trường THPT, THCS vẫn được xem là môn phụ,
thường bị coi nhẹ, xã hội nhìn nhận bằng ánh mắt thiếu thiện cảm (vì những giáo
viên dạy Toán, Lí... có giá hơn!). Còn học sinh và phụ huynh thì có suy nghĩ đơn
giản rằng học Lịch sử chẳng có ích gì, vì nó không phục vụ cho việc thi cử và kiếm
tiền sau này. Chỉ khi nào Bộ GD và ĐT công bố các môn thi tốt nghiệp trong đó có
môn Lịch sử thì học sinh mới có ý thức học tập, nhưng cũng chỉ là đối phó. Trong
kỳ thi tốt nghiệp THPTQG vừa qua, môn Lịch sử ít được học sinh lựa chọn vậy mà
đến khoảng tháng 10, 11 năm 2015 vừa qua Bộ GD và ĐT còn có chủ trương tích
hợp môn Lịch sử với môn Giáo dục công dân và môn Giáo dục quốc phòng. Làm
như vậy chẳng khác nào “khai tử” cho môn Lịch sử một lần nữa.
Bốn là, còn nhiều vấn đề về chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên
và phương pháp giảng dạy. Nội dung sống động nhất của lịch sử là phải gắn với
cuộc sống, cuộc sống qua các thời kỳ lịch sử và cuộc sống hôm nay, lại chưa được
quan tâm và phát huy. Tóm lại là cách trình bày lịch sử khô khan, đánh giá lịch sử
còn áp đặt chủ quan, nặng về lý luận, ít có các câu chuyện sinh động về một sự
kiện lịch sử, về một nhân vật lịch sử và như vậy, học sinh không thích học là hệ
quả tất yếu.
Và cuối cùng, phương pháp dạy học còn nhiều vấn đề. Đây là nguyên nhân dễ
nhận thấy nhất và cũng được nói đến nhiều nhất nhưng mặt khác đó cũng lại là
nguyên nhân khó khắc phục nhất. Khi nhắc đến nguyên nhân này, người ta chỉ làm
một việc đơn giản duy nhất là đổ lỗi cho giáo viên. Nhưng suy cho cùng thì giáo
viên cũng chỉ là người chịu hậu quả của một nền giáo dục lạc hậu đã kéo dài mà
thôi. “Thay đổi một quan niệm khó hơn phá vỡ một quả bom nguyên tử”. Tất cả
giáo viên đều biết rất rõ về điều này nhưng với hoàn cảnh hiện nay họ gần như
không có lựa chọn khác.

Trước nhiều nguyên nhân trên, Nhà nước, Bộ GD và ĐT đang có rất nhiều
giải pháp về cơ chế, chính sách để khắc phục. Còn những người trực tiếp dạy lịch
sử như chúng tôi cũng đang cố gắng vượt qua khó khăn để cố gắng tìm ra phương
pháp dạy học đưa lại hiệu quả tốt nhất, làm cho học sinh phát huy được tính chủ
động, sự hứng thú, nhất là đối với lịch sử dân tộc ta. Cho nên, tôi quyết định chọn
đề tài “Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử ”. Có thể phương pháp sử dụng sơ đồ
trong dạy học Lịch sử đã có nhiều giáo viên áp dụng trong giảng dạy nhưng trong
đề tài này tôi áp dụng đối với học sinh lớp 12A2 và 12A5 trường THPT Quan Sơn.
III. Các biện pháp sử dụng sơ đồ để dạy học trong một số bài phần Lịch sử
Việt Nam lớp 12
Trong chương trình Lịch sử lớp 12 có hai phần. Phần một là Lịch sử thế giới
hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000. Phần hai là Lịch sử Việt Nam từ năm 1919
6


đến năm 2000. Do chương trình khá dài nên tôi chỉ tập trung vào phần Lịch sử Việt
Nam.
Trong dạy học lịch sử, do không trực tiếp quan sát các sự kiện nên phương
pháp trực quan góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể
hóa các sự kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đồ dùng trực quan có nhiều
loại trong đó sơ đồ thuộc loại đồ dùng quy ước. Nhiều bài dạy lịch sử có rất nhiều
thông tin và sự kiện học sinh không thể nhớ hết, nhưng giáo viên hệ thống bằng sơ
đồ thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu. Qua thực tế giảng dạy bản thân xin
đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc sử dụng các sơ đồ để dạy học bộ môn
Lịch sử. Trong đề tài này tôi xin chủ yếu đưa ra những sơ đồ không có sẵn trong
sách giáo khoa mà giáo viên tự làm để giúp học sinh nhanh chóng cụ thể hóa kiến
thức, củng cố bài học và GV kiểm tra bài cũ của HS. Quá trình thực hiện như sau:
1. Sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến thức lịch sử cho học sinh trong giờ học
Ví dụ 1: Sử dụng phụ lục 1 để dạy mục 3: Những chuyển biến về kinh tế
và giai cấp xã hội ở Việt Nam (Bài 12, Mục I, trang 77,78)

Bước 1: Trước khi khai thác nội dung của mục này, giáo viên phát cho mỗi
bàn một sơ đồ để trống.
Bước 2: GV cho học sinh tìm hiểu các nội dung trong SGK trong khoảng 3
phút.
Bước 3: GV hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ: Các ô còn để
trống và được mã hóa bằng số (1), (2)... thể hiện thái độ chính trị và khả năng cách
mạng của các giai cấp. Ô có đường kẻ đậm là ô có nội dung quan trọng nhất.
Bước 4: Cuối cùng, giáo viên gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét.
Có thể, giáo viên vẽ sơ đồ lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các
thông tin. Giáo viên bổ sung và nhận xét.
Sau khi HS đã điền được hết thông tin vào sơ đồ, GV hướng dẫn, gợi mở để
HS rút ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: Sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất, trong xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn dân tộc (toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giai
cấp địa chủ phong kiến với nông dân). Trong đó mâu thuẫn dân tộc là cơ bản nhất.
Ví dụ 2: GV sử dụng phụ lục 2 để dạy Mục II: Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, (Bài 13, trang 86, 87,88)
Bước 1: GV cũng thực hiện theo tuần tự như ở ví dụ 1, GV nhấn mạnh: Dưới
tác động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thực tế này đòi hỏi, Hội VNCMTN phải “lột xác”,
tức là phải thành lập một đảng vô sản để lãnh đạo quần chúng. Nhưng chỉ có một
7


số hội viên của Hội VNCMTN nhận thức được yêu cầu này. Từ đó làm cho Hội
VCMTN bị phân hóa thành hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng và
An Nam Cộng sản đảng. Ảnh hưởng ngày càng lớn của Hội VNCMTN cũng làm
cho đảng Tân Việt bị phân hóa. Một bộ phận đảng viên tiên tiến của đảng Tân Việt
cũng đã thành lập ra tổ chức Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Với sơ đồ này HS sẽ dễ dàng nắm được sự ra đời của ba tổ chức cộng sản như

thế nào, và HS cũng thấy được việc trong một nước có ba tổ chức cộng sản cùng
hoạt động như vậy thì đặt ra yêu cầu gì cho cách mạng Việt Nam.
Bước 2: GV hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ để thể hiện nội dung của mục
1 và mục 2. Từ đó học sinh sẽ dễ nắm kiến thức về quá trình thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, cũng như nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Sau khi HS điền được thông tin vào sơ đồ, GV cho HS rút ra nhận xét và ý
nghĩa của Cương lĩnh.
Ví dụ 3: Sử dụng phụ lục 3 để dạy Mục: Hội nghị BCHTW Đảng CS
Đông Dương tháng 11 năm 1939, ( Bài 16, mục II, trang 104)
Giáo viên hướng dẫn học sinh thể hiện những kiến thức cơ bản trên khung sơ
đồ. Giáo viên đặt câu hỏi: Điểm khác cơ bản của Hội nghị này với Hội nghị
BCHTW Đảng tháng 7 năm 1936?.
GV giải thích: Hội nghị tháng 7/1936, đề ra mục tiêu đấu tranh trước mắt là
đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình (tạm gác độc lập dân tộc). Còn đến Hội
nghị này, mục tiêu đấu tranh là đòi độc lập dân tộc (tạm gác nhiệm vụ dân chủ)
GV hướng dẫn HS rút ra ý nghĩa của hội nghị.
Ví dụ 4: Sử dụng phụ lục 4 để dạy Mục 3: Hội nghị BCHTW Đảng CS
Đông Dương tháng 5 năm 1941, (Bài 16, mục II, trang 108, 109)
GV sử dụng sơ đồ này để cụ thể hóa nội dung của Hội nghị, HS sẽ thấy dễ
hiểu và nhanh chóng nắm được hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của Hội nghị.
Qua hội nghị này, giáo viên giúp học sinh nhận biết được tầm quan trọng của
Hội nghị: Đây là hội nghị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, những tư tưởng của
Người đã bắt đầu được thể hiện. Đó là: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và vấn đề dân
tộc. Hội nghị khẳng đinh: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Vấn đề dân tộc được thể hiện: Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng
minh (Việt Minh) thay cho Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.


8


Ví dụ 5: Sử dụng phụ lục 5, 6, 7 để dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”
Đây là bài có nhiều nội dung, vì vậy việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết. Giáo
viên hướng dẫn học sinh tập trung vào các phần trọng tâm để phân tích. Đây là
khoảng thời gian nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ gặp vô vàn khó khăn
và thử thách. Nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ mất còn. Đây
cũng là giai đoạn thể hiện bản lĩnh chính trị, tài ngoại giao của Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để giúp HS nắm được tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám với những
thuận lợi và khó khăn với rất nhiều kiến thức thì việc sử dụng sơ đồ sẽ giúp HS hệ
thống được một cách nhanh nhất những nội dung cần nắm. Trên cơ sở những khó
khăn của nước ta sau cách mạng, HS sẽ rút ra được nước VNDCCH non trẻ bị đặt
trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trước những khó khăn của nước VNDCCH non trẻ, Đảng và chính phủ đã
đưa ra những biện pháp kịp thời, hiệu quả để oối phó với những khó khăn về mặt
đối nội, đối ngoại.
GV sử dụng phụ lục 7 để giúp HS nắm được hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa
của Hiệp định sơ bộ (6/3/1946). Trong đó phần nội dung được đánh số ô 1, 2, 3 và
ô có đường kẻ đậm (ô số 1) thể hiện nội dung quan trọng nhất: Mặc dù ta không
yêu cầu được Pháp phải công nhận nền độc lập của Việt Nam, nhưng chúng ta đã
buộc chúng phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do.
2. Sử dụng sơ đồ để củng cố kiến thức bài học
Sử dụng sơ đồ để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất cần thiết và có hiệu
quả đối với mỗi bài học. Giáo viên sử dụng sơ để thể hiện lại những nội dung cơ
bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. Học sinh sử
dụng sơ đồ để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học,
đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận

thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách
truyền đạt của mình cho phù hợp.
Sử dụng sơ đồ để phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho học sinh sau
mỗi bài học thì dạng bài tập thích hợp là điền thông tin còn thiếu vào sơ đồ. Các
thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc
sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 14, Phong trào cách mạng 1930-1935. Bài này theo
phân phối chương trình sẽ học trong hai tiết nên khi học xong tiết hai, GV có thể
củng cố bài học bằng một sơ đồ như sau:
9


PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1935

Việt Nam trongnhững
năm 1929-1933

Kinh
tế

Phong trào cách mạng 1930-1931 với
đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh

Phong trào
cách mạng
1930-1931


hội


Xô viết Nghệ
Tĩnh

Ý nghĩa lịch sử và bài học
kinh nghiệm
Với sơ đồ này GV đã nhanh chóng hệ thống lại kiến thức trọng tâm của bài
học mà HS sẽ rất dễ ghi nhớ. Đặc biệt phần “Phong trào cách mạng 1930-1931 với
đỉnh cao là Xô viết Nghệ tĩnh, GV vẽ đường viền đậm để chú ý với HS đây là
trọng tâm bài học cần nắm vững. Vì vậy HS sẽ rất dễ hiểu và có thể nắm được bài
học ngay trên lớp.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 21, Phần IV, Mục 1: Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng (9-1960).
Đây là một bài học khá dài với nhiều nội dung sự kiện khó nhớ, giáo viên có
thể kết thúc bài học bằng cách hệ thống hóa bài học bằng sơ đồ sau :
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC CỦA
ĐẢNG LẦN THỨ BA (9/1960)

NHIỆM VỤ CỦA MIỀN BẮC
Tiến hành Cách mạng XHCN

THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM
LẦN THỨ NHẤT

NHIỆM VỤ CỦA MIỀN NAM
Hoàn thành CMDTDCND

CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN
TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC



10


Khi sử dụng sơ đồ này để củng cố bài học, học sinh sẽ nắm được toàn bộ nội
dung bài học dễ dàng. Nội dung cơ bản của bài là Miền Bắc và Miền Nam đều thực
hiện những nhiệm vụ riêng của mình do Đại hội Đảng toàn quốc đề ra.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 23, Phần III, mục 2: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975.
Giáo viên có thể củng cố kết thúc bài học bằng sơ đồ sau :
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN
( 10/3->24/3/75)

CHIẾN DỊCH HUẾ-ĐÀ NẴNG
(21/3->29/3/75)

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
( 26/4->30/4/75)

Khi sử dụng sơ đồ này để kết thúc bài học giáo viên có thể giúp học sinh nhớ
và hiểu toàn bộ kiến thức cơ bản của bài học là Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975 gồm có 3 chiến dịch lớn và thời gian diễn ra của mỗi chiến dịch. Sơ đồ
này là một hình ảnh trực quan giúp học sinh hiểu và nhớ bài lâu hơn.
3. Sử dụng sơ đồ để kiểm tra kiến thức cũ
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút
nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân
tích, so sánh…để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại
một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo
viên sẽ chấm điểm tuỳ vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để

nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó,
cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu
cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách
làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời
nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng sơ đồ vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần
nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa
ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra
nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm
11


Ví dụ: Trước khi học bài 22 (Nhân đân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế
quốc Mĩ xâm lược...), GV yêu cầu 1 học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu
để hoàn thiện sơ đồ Những chiến thắng của nhân dân miền Nam trong chiến đấu
chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
Chiến thắng của nhân dân miền Nam
trong chiến đấu chống chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.

(1)

(3)
(2)

Việc hoàn thiện thông tin ở các nhánh còn thiếu là một yêu cầu đơn giản,
không mất thời gian nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không điền được
thông tin hoặc điền không chính xác.
Sau khi đã hoàn thiện sơ đồ, học sinh cần rút ra nhận xét về những chiến
thắng của nhân dân miền Nam hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa
các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh

mà giáo viên nên căn cứ vào đó để đánh giá và nhận xét.
IV. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
Mục đích của đề tài là phát huy tinh thần tự chủ động sang tạo của học sinh
khi học lịch sử. Đề tài nhằm khắc phục tình trạng “thầy giảng, trò nghe”, “thầy
đọc, trò chép”. Kiến thức đã có trong sách giáo khoa, điều quan trọng đề tài khai
thác một khía cạnh mới, một con đường để đưa các em tiếp cận một cách có hiệu
quả, khắc phục tình trạng chán học, ngại học lịch sử như hiện nay.
Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã
khắc phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Lịch sử đối với học sinh và
ngay cả bản thân giáo viên.
Khi vận dụng sơ đồ trong một số giờ dạy, bản thân cảm thấy giờ dạy trôi đi rất
thoải mái, rất nhẹ nhàng và thực hiện giờ dạy bảo đảm sư tương tác giữa cô và trò.
12


Phát huy được tính tự chủ trong cách tiệp nhận và khai thác bài học, tạo sự lôi cuốn
trong học sinh, các em rất hào hứng, tập trung, tinh thần xây dựng bài cao.
Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, ghi nhớ sự kiện một
cách nhanh chóng và logic. Qua kiến thức được trình bày, giúp học sinh hình thành
và phát triển tư duy, so sánh, tổng hợp, đánh giá vấn đề.
Học sinh đã tránh được thói ỷ lại và phần nào đã khẳng định được cái tôi
trong quá trình học tập.
Kết quả thực tế sau khi áp dụng đề tài vào giảng dạy
Tỷ lệ

Lớp

Sỹ số

Giỏi


12A2

37

4

10,8

25

12A5

36

2

5.5

23

%

Khá

Tỷ lệ
%
67,5
63.9


TB
8
11

Tỷ lệ
%
21.7
30.6

Yếu

Tỷ lệ
%

0

0

0

0

13


C. KẾT LUẬN
Theo kinh nghiệm của bản thân và đánh giá của các động nghiệp, nhất là
những giáo viên tham gia dạy khối C thì đây là một đề tài có ý nghĩa thiết thực. Nó
giúp giáo viên chủ động trong giờ dạy và giúp học sinh chủ động trọng giờ học.
Đề tài này có ý nghĩa góp phần tìm cách đổi mới phương pháp dạy học theo

hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Để phát triển tư duy độc lập
sáng tạo cho học sinh.
Thông qua các sơ đồ kết hợp các câu hỏi tình huống có vấn đề, bản thân đã
phát hiện được nhiều học sinh có năng lực tư duy thực sự về môn Lịch sử.
Truyền thụ kiến thức một chiều sẽ làm cho bài học thụ động và khô khan. Đề
tài này đã góp phần khắc phục được hiện tượng trên. Nó thực sự đưa lại làm cho
học sinh trí tò mò và ý thức tự chủ khám phá kiến thức trong sách giáo khoa.
Trong quá trình vận dụng đề tài vào giảng dạy, bản thân đã thu được những kết quả
khả quan và được đông đảo học sinh hứng thú.
Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn cũng rất dễ dàng. Bản thân tôi đã áp dụng
rất thành công ở trường THPT Quan Sơn. Tôi mong muốn được chia sẻ kinh
nghiệm nhỏ này tới các đồng nghiệp, bởi sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử có
thể áp dụng vào tất cả các bài học lịch sử ở trường phổ thông, kể cả các bài khai
thác lược đồ. ngoài ra có thể thực hiện ở các tiết ôn tập, dạy và học thêm. Đề tài
không chỉ vận dụng trong chương trình lớp 12 mà còn cả lịch sử lớp 11, lớp 10.
Sau khi áp dụng đề tài vào thực tiễn tôi nhận thấy yếu tố đưa lại thành công là
giáo viên phải thực sự tâm huyết với bộ môn. Sự nhiệt huyết của giáo viên sẽ làm
chuyển biến nhận thực của học sinh về bộ môn Lịch sử. Nhất là trong thực trạng
hiện nay đối với môn Lịch sử ở các trường THPT.
Giáo viên phải biết sử dụng và khai thác công nghệ thông tin phục vụ cho bài
giảng. Bởi vì đề tài cũng có thể vận dụng khi dạy các chiến dịch quân sự có lược
đồ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm dạy học lịch sử
tại trường THPT Quan Sơn. Đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế
thiếu sót, tôi mong được Hội đồng khoa học, các đồng nghiệp đánh giá và góp ý để
đề tài này có tác dụng thiết thực, góp phần lấy lại vị thế của môn Lịch sử trong bối
cảnh hiện nay.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2016
14


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.

15


PHỤ LỤC

16


PHỤ LỤC 1

Sự phân hóa xã hội Việt Nam sau
chiến tranh thế giới thứ nhất

Các giai cấp cũ

Địa chủ
phong kiến
Đại địa
chủ

Địa chủ
vừa và nhỏ


(1)

(2)
.

Các giai cấp mới

Nông dân

Công nhân

(3)

(4)

Tư sản

Mại bản
(5)

Tiểu tư sản

Dân tộc

(7)
.

(6)
.


Rút ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ:

17


PHỤ LỤC 2

SỰ XUẤT HIỆN 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 VÀ ĐẢNG CS VIỆT NAM RA ĐỜI
Một bộ phận gia nhập
TÂN VIỆT CM ĐẢNG
Hội VNCMTN
(1925)
(6/ 1925)
Phân liệt

Đông Dương CS
đảng (6/1929)

An Nam CS đảng
(8/1929)

Đông Dương CS liên
đoàn (9/1929)

3/2/1930
3/2/1930

24/2/1930

Đảng Cộng sản Việt Nam

(3/2/1930)
Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930

Đường lối chiến
lược CMVN

Nhiệm vụ chiến
lược CMVN

Lực lượng chiến
lược CMVN

Vai trò lãnh đạo

Vị trí CMVN
.

Ý nghĩa của Cương lĩnh:
18


PHỤ LỤC 3
Người chủ trì: TBT
Nguyễn Văn Cừ

HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939

Địa điểm: Bà
Điểm-Hóc Môn-


Gia Định

Nội dung

Nhiệm vụ

Khẩu hiệu đấu
tranh

Phương pháp
đấu tranh

Mục tiêu đấu
tranh

.

.

Hình thức mặt
trận

.

* Ý nghĩa của Hội nghị:

19



PHỤ LỤC 4
Chủ trì: Nguyễn Ái
Quốc

HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 5/1941

Địa điểm: Pắc Bó –
Cao Bằng

Nội dung
Nhiệm vụ

Khẩu hiệu đấu
tranh

Hình thức mặt
trận

Hình thái của cuộc
khởi nghĩa

.

* Ý nghĩa của Hội nghị:

20


PHỤ LỤC 5


Thuận lợi

NƯỚC VIỆT NAM DCCH

Quân sự

Khó khăn

Chính trị

Kinh tế

Tài chính

Văn hóa

.

Nhà nước VNDCCH non trẻ bị đặt trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.

21


PHỤ LỤC 6
NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG
VÀ CHÍNH PHỦ

Đối nội


Củng cố
CQ

Diệt giặc
đói

Đối ngoại

Diệt giặc
dốt

.

Tài chính

Đối với quân
THDQ và tay sai

Kinh tế

Chính
trị

Đối với quân
Pháp

Trước
6/3

Sau 6/3


22


PHỤ LỤC 7
Hoàn cảnh lịch sử
dẫn đến việc ký Hiệp
định sơ bộ

Hiệp ước Hoa – Pháp
(28/2/1946)

Việt Nam đứng trước 2 sự lựa chọn
(GV phân tích tình huống)

Hòa

Đánh
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6.3.1946

Nội dung
(1)
.

(2)

(3)

* Tác dụng của việc ký Hiệp định sơ bộ:


23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử, NXB Giáo dục
2. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT, NXB Giáo dục 7/2007.
3. Lịch sử Việt Nam đại cương, tập III, NXB Giáo dục năm 1998.
4. Sách giáo khoa lịch sử lớp 12- NXB Giáo dục
5. Sách giáo viên-Lịch sử lớp 12- NXB Giáo dục
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Lịch sử (lớp 10,11,12), NXB Giáo dục.

24


Mục Lục
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
I. Lí do chọn đề tài...............................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................3

B. NỘI DUNG...................................................................................................4
I. Cơ sở lí luận......................................................................................................................4
II. Thực trạng của vấn đề.....................................................................................................5
III. Các biện pháp sử dụng sơ đồ để dạy học trong một số bài phần Lịch sử Việt Nam lớp
12.........................................................................................................................................6
1. Sử dụng sơ đồ để cụ thể hóa kiến thức lịch sử cho học sinh trong giờ học.................7
2. Sử dụng sơ đồ để củng cố kiến thức bài học................................................................9
3. Sử dụng sơ đồ để kiểm tra kiến thức cũ.....................................................................11
IV. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................12


C. KẾT LUẬN.................................................................................................14

25


×