Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng ở trường THPT bắc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.57 KB, 12 trang )

Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn

A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền núi – vùng đặc biệt khó khăn. Từ khi còn
học cấp 2, đã nhiều lần tôi chứng kiến bạn của mình bỏ học lấy chồng khi
mới học lớp 8, lớp 9, thậm chí là lớp 7. Tôi còn nhớ hồi học lớp 7. Hôm đó,
lớp tôi đang học tiết Thể Dục, tự nhiên một bạn trong lớp nói: “Các bạn ơi!
Hôm nay bạn Nga cưới chồng”. Khi đó vì còn nhỏ, chưa hiểu chuyện nên tôi
không để ý. Thời gian trôi qua, tôi tốt nghiệp đại học và trở về công tác ngay
trên chính quê hương của mình thì tôi đã hiểu. Đã 14 năm đứng trên bục
giảng và 10 năm làm công tác chủ nhiệm, không năm nào tôi không phải
chứng kiến cảnh học sinh nữ trong trường bỏ học dở chừng để lấy chồng.
Không lớp này thì lớp khác. Khi đó tôi đã rất trăn trở, xót xa.
Hiện nay ở nhiều vùng trên cả nước, đặc biệt là vùng núi, vùng đặc biệt
khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như quê tôi đã,
đang sảy ra tình trạng tảo hôn. Ở các trường THPT, thậm chí là cả THCS, học
sinh bỏ học rất nhiều. Trong đó có không ít học sinh nữ bỏ học lấy chồng. Ví
dụ như ở huyện miền núi Tương Dương, Con Cuông.. của tỉnh Nghệ An;
huyện Tây Trà của tỉnh Qảng Ngãi, huyện Đông Giang của tỉnh Quảng
Nam…Và tỉnh Thanh Hóa nói chung, trường THPT Bắc Sơn – Ngọc Lặc nói
riêng cũng không ngoại lệ. Hàng năm hiện tượng học sinh bỏ học vẫn cứ diễn
ra, trong số đó có một số không ít nữ sinh bỏ học lấy chồng. Thực trạng đó đã
làm cho số lượng học sinh trong trường giảm xuống đáng kể, công tác quản lí,
dạy và học gặp nhiều khó khăn… Nhà trường cũng như giáo viên chủ nhiệm
các lớp đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ tình trạng trên như: động viên,
tuyên truyền, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần (trao học bổng, miễn giảm
các khoản đóng góp…) Nhưng học sinh bỏ học, đặc biệt là nữ sinh bỏ học lấy
chồng vẫn chưa được hạn chế.
Vì vậy những sáng kiến kinh nghiệm nhằm hạn chế tình trạng học sinh


bỏ học, (đặc biệt là nữ sinh bỏ lấy chồng khi còn chưa đủ tuổi cho phép) thực
sự rất cần thiết trong các trường học hiện nay, đặc biệt là ở một trường ở vùng
đặc biệt khó khăn, vùng có chủ yếu người dân tộc thiểu số như trường THPT
Bắc Sơn. Và người làm được việc đó không phải ai khác mà chính là giáo
viên chủ nhiệm. Hay nói cách khác, giáo viên chủ nhiệm có vai trò vô cùng
quan trọng đối với công tác này. Ý thức được điều đó, trong năm học này tôi
mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp giáo
dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng nữ sinh bỏ học lấy
chồng ở trường THPT Bắc Sơn”.
II. Mục đích nghiên cứu
Từ những lí do đã nêu trên, bản thân tôi bắt tay vào nghiên cứu vấn đề
với mong muốn:

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

1


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
- Giúp các em học sinh cũng như các bậc phụ huynh nâng cao hiểu biết
về luật hôn nhân gia đinh, sức khỏe sinh sản vị thành niên, những hệ lụy của
việc lấy chồng khi còn nhỏ tuổi.
- Từ đó giúp các em có định hướng đúng đắn cho tương lai của bản
thân, cố gắng học tập hết bậc phổ thông, kiếm công việc làm phù hợp để nuôi
sống bản thân và giúp đỡ gia đình; giúp các bậc phụ huynh phát hiện và ngăn
chặn kịp thời, tránh tình trạng tặc lưỡi “việc đã rồi”.
- Đồng thời giáo viên chủ nhiệm, nhà trường cũng duy trì được sĩ sỗ

học sinh, ổn định công tác dạy và học.
III. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài sẽ nghiên cứu, tổng kết số nữ sinh bỏ học lấy chồng ở các lớp
thuộc khóa học 2013 – 2016 (trong 3 năm), chủ yếu là lớp 12A6- lớp tôi chủ
nhiệm.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập những văn bản về luật hôn nhân gia đình, các bài viết về giới
tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên trong các bộ luật, trên các tạp chí,
phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu tham khảo trên Internet.
- Phương pháp quan sát:
Quan sát những biểu hiện của HS.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế:
+ Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học sinh, cha mẹ, bạn
bè và hàng xóm của học sinh.
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
+ Thống kê số lượng học sinh bỏ học lấy chồng ở các lớp khóa 2013 –
2016, chủ yếu là lớp 12A6 – lớp chủ nhiệm.
+ Thống kê số vụ li hôn trẻ (hệ lụy của việc kết hôn khi chưa đủ tuổi)
- Phương pháp thử nghiệm:
Thử áp dụng các biện pháp giáo dục nhằm hạn chế tình trạng nữ sinh bỏ
học lấy chồng ở lớp 12A6 ( năm học 2015 - 2016).

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn


2


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Kết hôn là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi con người, đặc biệt
là người phụ nữ. Từ đây, mỗi người phụ nữ phải gánh thêm những trọng trách
mới: làm vợ, làm mẹ, làm dâu. Để làm tròn những trọng trách lớn lao đó, mỗi
người phụ nữ cần phải có đầy đủ những yếu tố: sức khỏe, hiểu biết, sự trưởng
thành cả về thể chất lẫn tâm sinh lí.
Theo quy định của pháp luật, tuổi trưởng thành của mỗi người là đủ 18
tuổi trở lên. Đó là tuổi mà mỗi người được hưởng những quyền công dân như:
được đi bỏ phiếu, được đăng kí kết hôn, được cấp gấy phép lái xe…; phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự và chịu trách nhiệm hình sự khi vi phạm pháp
luật…
Các cụ xưa có câu: “Nữ thập tam, nam thập lục”, nghĩa là con gái dậy
thì, phát triển sớm hơn con trai. Cùng lứa tuổi nhưng các bạn trai bao giờ
cũng lớn chậm hơn các bạn gái, các bạn gái bao giờ trông cũng già dặn hơn
các bạn trai.
Có lẽ vì thế mà Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về độ tuổi
kết hôn như sau: nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi. Từ ngày 01 tháng 01 năm
2015, khi Luật hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành, theo quy định
của Luật mới: nam giới phải đủ 20 tuổi và nữ giới phải đủ 18 tuổi trở lên.
Nghĩa là nam nữ phải đủ tuổi để được công nhận là “người lớn” chứ không
phải là vị thành niên. (Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định
nâng độ tuổi kết hôn nhằm thống nhất với những quy định của Bộ luật dân sự

2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2004: người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên). Còn đoàn thanh niên lại khuyên: độ tuổi kết hôn phù hợp với nữ là từ
20 tuổi và nam là 22 tuổi trở lên. Đó là những quy định phù hợp và lời khuyên
đúng đắn dựa trên những cơ sở khoa học. Vì ở độ tuổi đó con người mới hoàn
thiện về mọi mặt: thể chất, hiểu biết và nhất là tâm sinh lí; các bạn nữ mới có
thể làm tốt vai trò của người mẹ, người vợ, người con dâu trong gia đình.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng
Luật quy định là như vậy nhưng nhiều năm qua ở khắp các địa phương
trên cả nước, tình trạng tảo hôn, tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng vẫn cứ
diễn ra. Đặc biệt ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
Báo chí đã nhiều lần phản ánh tình trạng này ở miền núi cao phía Bắc, miền
Trung và Tây Nguyên. Sau đây là đoạn trích từ một bài trên báo Dân trí:
“ …ngay từ đầu năm học mới 2011 - 2012, số lượng học sinh ở các xã
thuộc huyện vùng cao Đông Giang, Tây Giang (Quảng Nam) bỏ học lên đến
hàng trăm học sinh. Khi giáo viên đi tìm hiểu mới hay, học sinh nữ bỏ học để

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

3


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
theo chồng và sinh con khi mới 14, 15 tuổi. Chỉ tính riêng tại trường THPT
Âu Cơ (Đông Giang) có gần chục học sinh nghỉ học lấy chồng”.
Còn theo thông tin từ Sở GD&ĐT Quảng Ngãi, vấn nạn tảo hôn khá phổ
biến ở cả 6 huyện miền núi của tỉnh. Ước tính trong vòng 3 năm học có hơn

500 trường hợp học sinh miền núi bỏ học lập gia đình. Hầu hết các gia đình
đều tổ chức “cưới chui” và chờ các em đủ tuổi để làm giấy đăng ký kết hôn.
Cô giáo Lê Thị Bình ở xã Đắk Som, huyện Đắk Glong (Kon Tum) cho biết:
….trên địa bàn chủ yếu là đồng bào Mông nên nhiều học sinh chỉ học đến lớp
5, lớp 6 đã tự ý bỏ học để lấy chồng…( Dẫn theo báo Dân trí)
Thanh Hóa là tỉnh có 11 huyện miền núi. Hàng năm ở các huyện vùng
núi trong tỉnh vẫn diễn ra tình trạng học sinh bỏ học vì nhiều lí do. Trong đó
có lí do bỏ học lấy chồng, đặc biệt là ở các huyện vùng cao, vùng khó khăn
như Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát.... Huyện Ngọc Lặc và Trường THPT
Bắc Sơn cũng ở trong tình trạng đó. Năm nào nhà trường cũng có học sinh
nữ bỏ học lấy chồng. Dưới đây là con số thống kê được ở các lớp thuộc khóa
học 2013 – 2016 như sau:
Năm học 2013 – 2014

Năm học 2014 - 2015

Năm học 2015 - 2016

Lớp

Số lượng

Lớp

Số lượng

Lớp

Số lượng


10A1

0

11A1

1

12A1

0

10A2

1

11A2

1

12A2

2

10A3

0

11A3


2

12A3

1

10A4

0

11A4

2

12A4

Chia lớp

10A5

0

11A5

2

12A5

1


10A6

2

11A6

2

12A6

0

2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Đối với các địa phương
như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum…phần lớn là do tập tục lạc hậu. Còn
riêng với trường THPT Bắc Sơn thì thuộc về một số nguyên nhân sau:
- Học sinh có học lực yếu, không theo kịp bạn bè
- Học sinh chán học, không có định hướng rõ ràng (không biết học để
làm gì?)

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

4


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
- Sự buông lỏng quản lí, chiều con thái quá của một số bậc phụ huynh:

mua cho con điện thoại di động động đắt tiền, cho con đi học bằng xe máy
(các em gửi ở ngoài trường). Giáo viên chủ nhiệm hỏi thì phụ huynh trả lời:
“muốn cho nó bằng bạn bằng bè, thương con đi học trời nắng, nó bảo đi xe
đạp mệt…”. Cha mẹ các em đâu có hiểu rằng chính họ đã góp phần làm cho
con cái hư hỏng. Các em dùng điện thoại thông minh để lên mạng kết bạn,
xem phim… rồi sẵn xe máy chở nhau đi chơi, thậm chí là vào cả nhà nghỉ…
Thực tế cho thấy, ở địa phương có nhiều phụ huynh đi làm ăn xa nên gửi con
cái cho ông bà. Ông bà thì đã già, cháu nói gì tin nấy. Khi học sinh nghỉ học
nhiều ngày, giáo viên đến nhà thì nhận được câu trả lời: “Tôi có biết gì đâu
cô, sáng nào cháu cũng đi học mà!”. Có nhiều phụ huynh để con cái ở nhà
một mình hoặc hai, ba chị em ở với nhau không có người lớn. Việc làm mạo
hiểm đó đã gây ra hậu quả khôn lường. Ví dụ như khóa học 2012 – 2015 có
em Phạm Thị Y là một nữ sinh đứng đầu khóa về thành tích học tập nhưng lại
bỏ dở khi đang học lớp 12 để lấy chồng vì có thai. Nguyên nhân là do bố mẹ
đi làm ăn xa, em ở nhà một mình…Khi giáo viên chủ nhiệm phát hiện và báo
tin phụ huynh mới té ngửa nhưng đành chấp nhận để con nghỉ học vì thai đã
lớn. Hay gần đây nhất là em Quách Vân A ở lớp 10A6 - lớp tôi dạy bộ môn.
Đây là một học sinh có vẻ ngoài ưa nhìn. Sau tết thấy em nghỉ học nhiều, tôi
hỏi các bạn trong lớp thì biết em đã có thai nên nghỉ học để lấy chồng…
- Sự thiếu hiểu biết của các bậc phụ huynh. Nhiều phụ huynh cũng lấy
chồng khi mới 16, 17 tuổi cho nên họ cho rằng con cái lấy chồng ở tuổi đó
cũng là chuyện bình thường. Có phụ huynh khi giáo viên chủ nhiệm gặp gỡ,
trao đổi về việc con em họ có quan hệ nam nữ, họ đã trả lời thản nhiên: “Tôi
cấm cũng chẳng được cô ạ!”
- Học sinh ăn chơi, đua đòi, yêu đương quá sớm, quan hệ tình dục không
an toàn dẫn tới có thai ngoài ý muốn. Nhiều em học sinh nữ thích mặc đẹp, sử
dụng điện thoại đắt tiền nhưng bố mẹ làm nông không có khả năng đáp ứng.
Đánh đúng tâm lí đó, các chàng trai, nhất là các anh lớn tuổi hơn chỉ cần đưa
các em đi chơi vài lần, mua cho vài bộ quần áo hợp thời trang, một chiếc điện
thoại đẹp là có thể đưa các em đến chỗ sa ngã, mắc sai lầm đáng tiếc (có bầu).

- Mặt trái của internet, phim ảnh, mạng xã hội facebook…Không phủ
nhận rằng internet, mạng xã hội facebook có nhiều lợi ích, giúp chúng ta tìm
kiếm thông tin, kết nối bạn bè. Nhưng nếu sử dụng không đúng cách nó sẽ
mạng lại những cái hại khôn lường. Học sinh là tuổi mới lớn, hay tò mò, thích
khám phá. Các em thường lên mạng không phải để học mà để tìm những tin
gây sốc, thậm chí là đọc truyện, xem phim người lớn; lên facebook kết bạn
với những người lạ…Báo chí đã nhiều lần đưa tin về việc kết bạn trên
facebook dẫn tới hậu quả đáng tiếc.
- Sự phát triển sớm về mặt thể chất (lớn trước tuổi) ở một số nữ sinh. Do
chế độ ăn uống, hoạt động,…mà nữ sinh ngày nay phát triển nhanh hơn trước

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

5


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
kia. Nhiều em mới chỉ 14, 15 tuổi mà đã phổng phao như thiếu nữ, ăn mặc lại
như người lớn khiến cho nhiều chàng trai theo đuổi, tán tỉnh. Các em chỉ lớn
người nhưng nhận thức lại chưa đủ lớn bởi vậy rất dễ bị dụ dỗ, mua chuộc.
- Sự buông lỏng quản lí của chính quyền địa phương. Nhiều thôn, xã có
nữ sinh lấy chồng khi chưa đủ tuôi, cán bộ biết nhưng họ làm lơ, không xử lí
vì nhiều lí do.
Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng nữ sinh bỏ học
lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn. Phần lớn các em khi cưới đều ở trong
hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, phụ huynh thì bị đặt vào tình thế “chuyện
đã rồi”.

3. Hậu quả
Việc nữ sinh bỏ học lấy chồng khi tuổi còn nhỏ sẽ dẫn tới một số hậu
quả như sau:
- Trước hết, việc kết hôn sớm ảnh hưởng đến thể chất của các em. Khi
chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể chưa phát triển hết, việc quan hệ tình dục
sớm, mang bầu, rồi nuôi con khiến sự phát triển đầy đủ của người phụ nữ bị
chậm lại, thoái hoá, nhiều trường hợp để lại di chứng nặng nề, thậm chí có
nhiều trường hợp tử vong. Nhiều lần đi chợ, gặp học sinh cũ, các em chào mà
tôi không nhận ra vì trông các em già thậm chí là tiều tụy, nhếch nhác quá.
- Bên cạnh đó, việc phải nuôi con thiếu hiểu biết cũng như ý thức trách
nhiệm chưa có, khiến đứa trẻ bị suy dinh dưỡng, còi cọc, dễ mắc bệnh, ảnh
hưởng đến thế hệ sau…
- Không những thế, sau các đám cưới tảo hôn nhiều khi cũng khiến bố
mẹ và các gia đình “trẻ con” phải còng lưng trả nợ. Để có tiền trả nợ và lo cho
cuộc sống, các cặp vợ chồng trẻ phải gửi con cho ông bà nuôi để đi làm ăn xa.
Vậy là có gia đình, ông bà phải nuôi cả cháu lẫn chắt.
- Hầu hết cuộc sống của những gia đình trẻ này lâm vào cảnh khó khăn
do chưa có kiến thức và hiểu biết để tự lo cho cuộc sống gia đình. Có cặp vợ
chồng sau vài năm chung sống đã phát hiện ra không có tình yêu. Nhiều
trường hợp mâu thuẫn, cãi vã, thậm chí đánh đập nhau rồi ai đi đường nấy, bỏ
lại con cái nheo nhóc cho ông bà. Theo thống kê của Tòa án nhân dân huyện
Ngọc Lặc, trong mấy năm trở lại đây, số vụ li hôn trẻ tăng đột biến. Chỉ tính
số vụ li hôn mà trong đó nữ có tuổi đời từ 20 đến 26 (sinh từ năm 1990 đến
1996) là:
Năm 2011: 02 vụ
Năm 2012: 05 vụ
Năm 2013: 07 vụ
Năm 2014: 13 vụ
Năm 2015: 16 vụ


GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

6


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
Khi được hỏi về lí do li hôn, các em trả lời rất hồn nhiên: “Không thích
nữa thì bỏ thôi ạ!”. Có em tâm sự: “Cháu lấy chồng không phải vì yêu mà chỉ
vì bồng bột, ngộ nhận, cảm tính. Giờ đây nhìn thấy bạn bè được đi học, được
đi đây đi đó còn mình thì suốt ngày phải hầu hạ lại còn bị đánh đập. Cháu
muốn làm lại cuộc đời…”
III. Biện pháp
Để khắc phục tình trạng trên không phải một sớm một chiều. Báo chí
đã đưa tin, các nhà trường đã tìm nhiều cách nhưng cũng đành bất lực vì vượt
quá quyền hạn của mình (chỉ khuyên bảo, giảng giải cho các em cái được, cái
mất chứ không thể can thiệp sâu). Tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng vẫn
cứ diễn ra. Nhận thức được điều đó, bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm đã
thực hiện một số biện pháp sau đây:
1. Tuyên truyền, giáo dục
- Lớp tôi chủ nhiệm có gần 80% là nữ, nhiều em không nỗ lực học tập,
thích chơi, yêu sớm; nhiều em bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải tự lập. Vì vậy
mà nguy cơ yêu sớm, có thai ngoài ý muốn và bỏ học lấy chồng là rất cao.
Bởi vậy mà công tác tuyên truyền, giáo dục luật hôn nhân gia đình, giáo dục
giới tính, sức khỏe sinh sản vị thanh niên cho học sinh, đặc biệt là học sinh nữ
là vô cùng cần thiết.
- Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành trong các tiết sinh hoạt
15 phút và sinh hoạt cuối tuần.

- Tôi cung cấp cho các em những kiến thức về giới tính, luật hôn nhân
và gia đình, sức khỏe sinh sản vị thành niên…; giúp các em nhận thức đúng
đắn về vấn đề này. Từ đó có thể tránh bị xâm hại, tránh việc có thai ngoài ý
muốn, có định hướng đúng đắn cho tương lai của mình.
- Tôi thường đưa ra một số tình huống giả định để các em xử lí, từ đó
rút ra bài học cho bản thân:
Ví dụ:
Tình huống 1: Bạn trai đến nhà chơi vào ban đêm nhưng do trời mưa không
thể về được. Trong khi đó em ở nhà một mình. Vậy em sẽ làm thế nào?
Tình huống 2: Bạn trai rủ đi chơi xa qua đêm. Em có đi không?
Tình huống 3: Bạn trai chở đi sinh nhật. Trên đường về qua khu rừng vắng,
bạn trai rủ vào rừng chơi em sẽ xử lí ra sao?
Tình huống 4: Nếu lỡ có quan hệ tình dục với bạn trai, em sẽ làm gì để tránh
mang thai ngoài ý muốn?
Tình huốn: Nếu lỡ có thai, em sẽ làm gì?
- Học sinh tự do đưa ra ý kiến của mình, từ đó tôi đưa ra một số lời
khuyên với các em như sau:

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

7


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
+ Không tiếp bạn trai khi không có người lớn ở nhà, đặc biệt không cho
ở lại nhà mình qua đêm
+ Tuyệt đối không đi chơi xa qua đêm khi chỉ có hai người

+ Không đến những nơi vắng người, chỗ tối cùng bạn khác giới
+ Phải đặt việc học lên trên hết, không để chuyện tình cảm nam nữ làm
ảnh hưởng đến việc học tập
+ Chỉ giữ mối quan hệ bạn bè đúng mực, không yêu sớm
+ Phải có những kiến thức về các biện pháp tránh thai và quan hệ tình
dục an toàn
+ Nếu có chuyện sảy ra phải nói cho người lớn biết, không tự ý đi phá
thai chui vì như vậy sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng
- Ban đầu học sinh cò rụt rè, e ngại không dám nói nhưng sau đó các
em đã mạnh dạn bộc lộ quan điểm của mình, những tiết sinh hoạt như vậy
thường rất sôi nổi và bước đầu có những hiệu quả nhất định. Cụ thể là các em
có được những kiến thức cơ bản về hôn nhân, sức khỏe sinh sản vị thành niên;
biết được cách phòng tránh bị xâm hại, tác hại của quan hệ tình dục, mang
thai khi chưa đến tuổi trưởng thành, biết cách phòng tránh mang thai ngoài ý
muốn…
2. Khảo sát và phân loại
- Học sinh sẽ được phân loại theo từng nhóm (nhóm có nguy cơ cao và
nhóm có nguy cơ thấp)
- Sự phân loại này dựa trên sự quan sát, theo dõi của bản thân tôi và
phản ánh của giáo viên bộ môn, ban cán sự và các thành viên trong lớp.
- Nhóm có nguy cơ cao sẽ được theo dõi sát sao hơn về: số ngày nghỉ,
số buổi đi học chậm, số buổi bỏ tiết, điểm các bài kiểm tra... Khi phát hiện các
em nghỉ học, nói dối bố mẹ đi học để đi chơi, tôi phải điều tra, tìm hiểu ngay
qua các kênh thông tin mà mình có được để có biện pháp kịp thời.
3. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh:
- Tôi thường tranh thủ thăm gia đình học sinh vào những ngày cuối
tuần để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh bởi nền tảng gia đình là
vô cùng quan trọng, đặc biệt là những học sinh có dấu hiệu xao nhãng việc
học, yêu đương, đua đòi.
- Như đã nói, nhiều bậc phụ huynh thường không để ý đến hành động,

thái độ và sự thay đổi của con em mình. Việc các em có bạn trai và thường
xuyên nghỉ học phụ huynh cũng không hề hay biết. Có phụ huynh biết nhưng
cũng không can ngăn, thậm chí còn cho rằng đó là chuyện bình thường. Ban
đầu tôi cũng nản lòng nhưng sau đó lương tâm đã bắt tôi phải kiên trì, nhẫn
nại. Có những phụ huynh đi làm ăn xa, tôi phải xin số điện thoại để liên lạc
thường xuyên, thông báo cho phụ huynh biết những thay đổi của con em họ
để tìm cách uốn nắn kịp thời.

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn

8


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
- Kết quả là nhiều phụ huynh đã nhận ra vấn đề và phối hợp tốt hơn với
tôi trong việc theo dõi và giáo dục con em mình.
4. Phối hợp với các tổ chức và cá nhân
- Tôi thường xuyên trao đổi, nắm thông tin từ phía giáo viên bộ môn,
cán bộ lớp và các thành viên khác trong lớp để phát hiện sớm những dấu hiệu,
ngăn chặn việc đáng tiếc sảy ra.
- Tôi chỉ lên lớp trong thời gian 15 phút, sinh hoạt cuối tuần và tiết dạy
của mình vì vậy mà không thể theo dõi sát được mọi hoạt động của học sinh.
Giáo viên bộ môn sẽ là những cộng sự tốt nhất để tôi nắm bắt kịp thời về học
sinh lớp mình chủ nhiệm. Ban cán sự lớp cũng có vai trò quan trọng trong
việc cung cấp thông tin cho tôi trong các hoạt động của lớp. Đặc biệt là những
hành động, việc làm của một số học sinh có nguy cơ cao (đã phân loại).
- Ban đầu các em còn che giấu hoặc ngại vì sợ bạn ghét nhưng sau đó

các em đã hiểu được làm như vậy không có nghĩa là nói xấu bạn mà là đang
giúp bạn nên các em đã hỗ trợ rất nhiều cho tôi trong công việc.
5. Gặp gỡ, tâm sự
- Tôi thường gặp gỡ và tâm sự riêng với những học sinh có biểu hiện
yêu sớm, sa đà trong quan hệ nam nữ, có ý định bỏ học lấy chồng.
- Tôi tuyệt đối không mắng chửi, xỉ nhục, miệt thị học sinh mà tìm cách
khuyên bảo để các em nhận ra cái đúng - cái sai, cái nên - không nên…
- Hơn ai hết tôi hiểu rằng nếu nói trước lớp các em sẽ cảm thấy xấu hổ
với bạn bè nên tôi thường chủ động gặp riêng các em vào giờ ra chơi, cuối
buổi học.
- Ban đầu học sinh luôn lảng tránh, phủ nhận hoặc im lặng không nói.
Có học sinh còn tỏ thái độ phản kháng, bất cần, cho rằng việc làm của mình là
đúng, yêu đương là chuyện riêng tư cô không có quyền can thiệp nhưng sau
đó các em cũng đã nhận ra và chủ động gặp tôi hoặc nhắn tin vào điện thoại
để tâm sự, xin lỗi và xin lời khuyên. Tôi đã không giận mà luôn cởi mở, tâm
sự, khuyên nhủ các em như một người mẹ, người chị.
IV. Kết quả
Việc áp dụng những biện pháp trên đã mang lại những kết quả sau:
- Đối với lớp: năm học 2015 - 2016, lớp tôi chủ nhiệm đã không còn
học sinh nữ bỏ học lấy chồng, sĩ số lớp được duy trì, ổn định về nề nếp và
học tập (xếp loại cuối tuần liên tiếp đứng ở vị trí cao), cuối năm 100% học
sinh đủ điều kiện dự thi THPT quốc gia. Đáng mừng là trong lớp có hai em có
tình cảm đặc biệt với nhau nhưng cùng nhau cố gắng học tập chăm chỉ (cả hai
em đều đạt học sinh tiên tiến) và hứa với cô sẽ tiếp tục đi học đại học hoặc
cao đẳng.

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn


9


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
- Đối với phụ huynh: nhiều phụ huynh từ chỗ chưa một lần biết mặt
giáo viên nay cũng đã chủ động gặp hoặc gọi điện thoại cho tôi để hỏi thăm
về tình hình của con em mình.
- Đối với bản thân: tôi cũng có thêm những kinh nghiệm giáo dục học
sinh để vận dụng vào những lớp chủ nhiệm tiếp theo.
- Đối với nhà trường: góp phần nhỏ bé vào việc duy trì sĩ số học sinh
trong toàn trường và làm phong phú thêm kho kinh nghiệm chủ nhiệm của
giáo viên.
- Đối với học sinh: tạo được niềm tin nơi các em, là chỗ dựa vững chắc
về tinh thần cho các em, đặc biệt là khi các em gặp phải những khó khăn,
vướng mắc.
Đó là những kết quả bước đầu sau một thời gian nỗ lực áp dụng các
biện pháp giáo dục kể trên. Một số giáo viên chủ nhiệm khác cũng đã áp dụng
ở lớp mình và thấy hiệu quả. Ví dụ lớp 12A1

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn 10


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận

Để hạn chế được tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng khi chưa đủ tuổi
không phải là việc làm dễ dàng. Đó là khó khăn chung ở các địa phương và
các nhà trường cũng như giáo viên chủ nhiệm. Để khắc phục tình trạng này,
vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng. Vì thầy cô chủ nhiệm được ví
như người cha, người mẹ thứ hai của các em. Đặc biệt là các cô, nếu tạo được
lòng tin và sự yêu quý của các em có thể các em sẽ tâm sự với cô những điều
không dám nói với mẹ. Để làm được điều đó, đòi hỏi người giáo viên chủ
nhiệm phải bỏ nhiều công sức, thời gian và phải thực sự tâm huyết – yêu
thương học sinh như con em của mình. Đồng thời phải biết phối hợp chặt chẽ
giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội.
Theo tôi, để làm tốt công tác giáo dục nói chung và giáo dục nhằm hạn
chế tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng nói riêng, mỗi giáo viên chủ nhiệm
cần phải có đầy đủ các yếu tố sau:
- Có kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm
- Có những hiểu biết nhất định về luật hôn nhân và gia đình, giới tính,
sức khỏe sinh sản vị thành niên....
- Có kỉ cương, tình thương và trách nhiệm
- Luôn bám trường, bám lớp, gần gũi, quan tâm, trò chuyện để nắm
bắt tâm lí của từng học sinh
- Linh hoạt, sáng tạo trong xử lí các tình huống sảy ra
- Tuyệt đối không nên nóng vội, áp đặt, mà cần có lòng kiên nhẫn, có
nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn đặt mục tiêu “dạy người” lên trên hết.
Thành quả thu được của nghề giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm
không thể nhìn thấy được sau mỗi ngày mà phải cả một quá trình, một thời
gian dài: một năm, hai năm và lâu hơn thế nữa..
Có được kết quả này là nhờ sự chỉ đạo, giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban
giám hiệu nhà trường, mối quan tâm đồng lòng hiệp sức của các giáo viên bộ
môn, Đoàn thanh niên và cả sự nỗ lực tiến bộ của HS, sự quan tâm, phối hợp
của cha mẹ học sinh.
Trong thời gian làm chủ nhiệm các lớp ở các khóa , tôi có những nỗi lo

lắng, trăn trở, nhiều lúc cũng khó khăn, bế tắc. Nhưng đổi lại tôi nhận được
rất nhiều tình cảm từ phía học sinh, sự tin yêu của phụ huynh. Cho tới giờ có
rất học sinh lớp tôi chủ nhiệm đã học xong 12, các em đã ra trường, lập gia
đình, đi học cao đẳng, đại học, hay trung cấp thường điện thoại thăm hỏi tôi.

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn 11


Một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn chế tình trạng
nữ sinh bỏ học lấy chồng ở Trường THPT Bắc Sơn
Mỗi lần khi về quê, hay trong dịp tết các em đến thăm tôi với bao niềm vui,
tràn đầy sự yêu mến. Trò chuyện với tôi có em thường gọi tôi bằng mẹ trẻ.
Như vậy các em đã coi tôi như người mẹ thứ 2 của mình. Tôi thật sự xúc
động và tự hào khi các em đã thật sự trưởng thành và vững bước trên con
đường các em đã và đang đi tới. Với tôi, niềm vui của nghề giáo chỉ đơn giản
vậy thôi.
Tôi nghĩ rằng mình cần phải tu dưỡng, rèn luyện nhiều hơn nữa, là tấm
gương sáng để các em noi theo, là nơi các em tìm về bất cứ khi nào.
II. Kiến nghị
Để phát huy hơn nữa hiệu quả của các biện pháp giáo dục nhằm hạn
chế tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng, các giáo viên chủ nhiệm cần phải gần
gũi, sát sao hơn nữa đối với học sinh lớp mình chủ nhiệm và cả lớp giảng dạy
bộ môn (Trên thực tế, nhiều giáo viên né tránh do tâm lí: ngại vì đó là chuyện
tế nhị, không phải lớp mình chủ nhiệm); nhà trường có thể phối hợp với địa
phương để tìm hướng khắc phục; đoàn thanh niên nên tổ chức các buổi sinh
hoạt, ngoại khóa để giáo dục rộng rãi đến học sinh trong toàn trường…
Trên đây là một số biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm nhằm hạn
chế tình trạng nữ sinh bỏ học lấy chồng mà tôi đã vận dụng ở lớp chủ nhiệm

và thấy có hiệu quả. Tôi mạnh dạn viết thành sáng kiến kinh nghiệm và đưa ra
để đồng nghiệp cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp của Ban giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp, để tôi tiếp tục bổ
sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay cho bản thân, để
làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm trong những năm tiếp theo.
Tôi chân thành cảm ơn!

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN.

Dương Thị Phương

GV: Dương Thị Phương

Đơn vị: Trường THPT Bắc Sơn 12



×