Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số giải pháp năng cao chất lượng môn giáo dục quốc phòng an ninh cho học sinh trường PT nguyễn mộng tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.12 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG PT NGUYỄN MỘNG TUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH CHO HỌC SINH
TRƯỜNG PT NGUYỄN MỘNG TUÂN

Người thực hiện: Trịnh Văn Dũng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn):Giáo dục quốc phòng

THANH HOÁ NĂM 2016


1. Mở đầu
- Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả
năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định
số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo
cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của
từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. GDQP-AN là một


môn học bao gồm nhiều kiến thức về khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự
nhiên lẫn khoa học kĩ thuật quân sự. Là một môn học không chỉ trang bị những
vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng, tư duy về QPAN và kiến thức
quân sự cần thiết mà còn rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách sống con người
CNXH. Tuy nhiên, đây là một môn học nằm trong nhóm môn học có tỉ lệ lí
thuyết chiếm trên 60% chương trình môn học. Chính vì lí do đó, cùng với
những nhận thức non nớt của học sinh, các em thường dành nhiều thời gian cho
các môn học mà các em cho là quan trọng hơn, có thể thi Đại học, cao đẳng…
( Vd: Toán, lí, hóa, anh văn….) mà xem nhẹ môn học này, các em thường
không học bài củ trước khi đến lớp hoặc ít khi đọc trước bài mới, dẫn đến kết
quả học tập chưa cao và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của môn học. Đối
với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh, công việc giảng dạy phải gắn
liền với nghiên cứu. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến
thức, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những giải
pháp, biện pháp thích hợp để truyền đạt tri thức tới người học.
Trãi qua gần 5 năm công tác và giảng dạy môn học này, bản thân tôi cũng như
các đồng nghiệp đã có nhiều cố gắng luôn tìm cách đổi mới về phương pháp
giảng dạy để cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và kết quả học tập cho học sinh
như: ứng dụng Công nghệ thông tin đưa phim ảnh vào giảng dạy, sử dụng giáo
án điện tử, viết bài thu hoạch cá nhân, thảo luận nhóm….
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn
Giáo dục quốc phòng – An ninh cho học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân”.
- Mục đích Nghiên cứu:
Tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các
em học sinh những tri thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những
hiểu biết về tổ chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND
1


Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên

giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông
trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn được làm quen với tác phong quân đội
qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản trong chiến
đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu
đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ...Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an
ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần
cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù.
Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương trình
hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối chương
trình.Vì vậy phải tìm ra các giải pháp để học sinh tham gia học đầy đủ tích cực sôi
nổi và hào hứng không cứng nhắc nhằm mang lại kết quả cao trong học tập, làm cơ
sở cho các cấp học tiếp theo.
- Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu:
Học sinh khối 10, 11, 12 trường PT Nguyễn Mộng Tuân
Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn Giáo dục quốc phòng – An ninh cho
học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân
- Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp điều tra đánh giá.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Phương pháp đối chiếu kết quả so sánh.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khi nói về giáo dục, Đảng ta khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Trong phần kinh phí chi
chung thì giáo dục được ưu tiên hàng đầu. Các trường THPT là cái nôi trực tiếp

đào tạo thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đào tạo cả Đức - Trí - Thể - Mỹ.
Trang bị cho học sinh đầy đủ hành trang trí tuệ để học sinh bước vào đời, trở
thành công dân có ích cho quê hương, đất nước.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người
mới XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm
vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho
thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta
2


và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học
sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới
XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu
nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức
quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp phần hình
thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến
thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước.
Giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng - An ninh là quá trình dạy học mang
tính đặc thù nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản về đường lối quân sự,
công tác quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước; những kỹ năng quân sự, an
ninh cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân
dân, sẵn sàng tham gia lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và làm nghĩa vụ
quân sự, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời giáo dục ý thức trách nhiệm cho thế hệ trẻ về các quan điểm
của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân nhân, an ninh
nhân dân; đấu tranh, phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ

của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Qua môn học giúp cho học sinh hiểu biết và vận dụng thành thục thao tác các
kỹ năng quân sự cần thiết, biết sử dụng một số loại vũ khí bộ binh, thành thạo trong
sử dụng súng tiểu liên AK (CKC). Rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững
vàng, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; xây dựng tác phong nhanh nhẹn; hình thành
nếp sống có kỷ luật trong sinh hoạt tập thể, ý thức cộng đồng ở trường, lớp và khi
ra công tác. Đối với môn GDQP-AN cũng như các môn học khác tất cả đều nhằm
mục đích tích cực hóa hoạt động của học sinh, kích thích tư duy sáng tạo, đem lại
hiệu quả tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
*Thuận lợi:
+ Đối với giáo viên
- Được sự quan tâm của lãnh đạo Sở Giáo dục, hàng năm, đều tổ chức các
khóa học bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Được phân công giảng dạy môn Giaos dục quốc phòng – An ninh cả ba khối,
đó là mọt thuận lợi rất lớn đối với tôi từ đó để có những cái so sánh đánh giá chính
xác nhất.
- Các giáo viên đều đã có những nhận thức tích cực, luôn muốn tìm tòi học hỏi
để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, trong thời gian
vừa qua các giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên giảng dạy bô môn
GDQPAN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng dạy để
3


nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng dụng Công
nghệ thông tin vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử, phương
pháp trình chiếu phim ảnh sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử dụng hiệu
quả các thiết bị vào giảng day, kết hợp phương pháp truyền thống với ứng
dụng CNTT, hướng dẫn cho học sinh “thảo luận nhóm” một cách tích cực mang
đã lại kết quả khả quan.

+Đối với học sinh:
- Đa số học sinh đều có thái độ tích cực, tham gia thảo luận nhóm đã mang
lại hiệu quả cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Những học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng
tâm cơ bản thông qua hoạt động thảo luận nhóm, các em đã mạnh dạn hơn khi
tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, hòa đồng và đoàn kết hơn với các bạn
trong, phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm
việc của cá nhân….
* Khó khăn:
+ Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh khi bắt đầu tiết học mới,
chưa có phần dẫn dắt vào bài hoặc chưa gây được sự tập trung chú ýbài học của
học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
- Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời
câu hỏi như thế nào.
- Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá giỏi dơ tay
trả lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu
kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các
em càng thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
+ Đối với học sinh:
- Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu cầu
về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ phía không ít
phụ huynh phân luồng theo khối A, B. Nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và
việc xác định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Đối với một phận nhỏ học
sinh còn ngộ nhận và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo
dục quốc phòng – an ninh chưa cao. Dẫn đến tình trạng học sinh chưa trang bị
đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo dục quốc phòng – an ninh, còn mang tính
đối phó nên làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị hạn chế nhất
định.
- Học sinh còn lười và chưa có sự say mê đối với môn học, một số bộ phận học

sinh không học bài củ và đọc bài mới trước khi đến lớp, trên lớp học thì thiếu
tập trung không chú ý, không có tinh thần phát biểu xây dựng bài.
- Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và
đọc trong sách giáo khoa chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu
4


hỏi mang tính suy luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung chung
chưa sát với nội dung yêu cầu của câu hỏi.
2.3 Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
* Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng - An
Ninh:
+ Kết hợp với Ban Giám Hiệu Nhà trường, đoàn trường tổ chức học tập
pháp luật, mít tinh…:
Giải pháp:
Để đổi mới hình thức, phương pháp GDQP-AN cho học sinh, nhân các
ngày lễ lớn của đất nước, địa phương, Tổ trưởng chuyên môn đề nghị Ban giám
hiệu nhà trường để phối kết hợp với Đoàn trường tổ chức Giáo dục pháp luật,
cho học sinh tham gia mít tin, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; thi
tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; ngày thành lập Công An
nhân dân, ngày thành lập Tỉnh, thi về phòng chống ma túy, HIV… Qua đó đã
nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, truyền thống của quê hương, đất nước, nâng cao nhận thức
về quốc phòng, an ninh cho học sinh.
+ Học theo phương pháp thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức
học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với
nhau và có được những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
Giải pháp:
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày
quan điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của

việc học nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên
phải khơi gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương
ứng với trình độ của học sinh, hoặc đặt câu hỏi và đưa ra vấn đề dẫn dắt học
sinh đạt đến mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng
phải được sắp xếp hợp lý về kế hoạch, nội dung và chương trình để đảm bảo
tất cả các thành viên trong nhóm, chuẩn bị lượng kiến thức nhất định tham gia
một cách tích cực, có hiệu quả
Chia lớp thành 4 nhóm, 10-11 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như
sau: Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu
tiên. Chia các nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá.
Chia nhóm đồng đều theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương
đương với tỷ lệ nam nữ của lớp 50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách
chia nhóm như thế này, các nhóm đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý,
đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát triển nhóm. Tuy
vậy, theo đánh giá khách quan của các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc nhóm
của học sinh hầu như là không có. Tuy có được thầy cô giáo phổ biến nhưng
không rõ ràng và đầy đủ vì còn hạn chế nhiều về thời gian và trình độ. Đây là
5


một "khâu” quan trọng nếu muốn làm tốt sự thay đổi trong dạy và học. Nó
cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là
những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây dựng nên thành công của thảo luận
nhóm. Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận
một đề tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công
việc. Hầu hết là nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết
bài?- Ai phản biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản
biện nhóm khác- Ai thư ký? Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng
cho những học sinh tham gia sôi nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thông
thường, câu hỏi được đưa lên cho nhóm trình bày và được chuyển cho giáo

viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay, chuyển cho nhóm thảo luận trả lời.
Người hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu trả lời, người
đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả lời
hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh
thần đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút
được học sinh.
Đối với những học sinh ôn luyện tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh, việc áp
dụng phương pháp học nhóm là vấn đề rất quan trọng. Học nhóm để các em có
điều kiện trao đổi kiến thức và cũng cố lại trí nhớ ( thành lập kỹ năng bền vững ).
+ Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống
chuyển sang dạy bằng giáo án điện tử là cả một quá trình đổi mới tư duy:
Giải pháp:
- Cần phải thống nhất về nhận thức và tư duy của đội ngũ giáo viên. Đây là vấn
đề tưởng chừng đơn giản nhưng khi thực hiện thì có một số ý kiến cho rằng, soạn
giáo án điện tử chỉ là chuyển giáo trình văn bản được sao từ file word sang các
slide rồi đem chiếu lên cho học sinh xem. Đây là một quan niệm nhầm lẫn mà
chúng ta cần loại bỏ. Vì để soạn được một giáo án điện tử đem lại hiệu quả cao
cho người học thì người thầy phải bỏ ra rất nhiều công sức và tâm huyết. Tôi muốn
nhấn mạnh là vất vả hơn nhiều khi dạy bằng phương pháp truyền thống.
Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo
án điện tử tôi mới bắt đầu thực hiện từ khi áp dụng chương trình cải cách giáo
dục ban đầu giáo viên gần như tự mày mò, tìm hiểu, học hỏi đồng nghiệp, học
lớp tin học do Sở Giáo dục, nhà trường tổ chức và cấp chứng chỉ. Từ thiết kế
giáo án cho đến cách trình bày… chưa có một chuẩn thống nhất, vì vậy còn
những khiếm khuyết và dẫn đến có những ý kiến, thậm chí cả phản đối dạy bằng
giáo án điện tử. Tôi nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng vậy thôi, bước đầu sẽ
có những khó khăn, nhưng chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần dần và cộng
với lòng đam mê nghề nghiệp thì chúng ta sẽ gặt hái được những thành công.
+ Kinh nghiệm về chuẩn bị và giảng dạy bằng giáo án điện tử:
Giải pháp:

6


Việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính bằng những đoạn phim
minh họa với hình ảnh, âm thanh sống động, bài giảng của giáo viên có thể thu hút
sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Trong quá trình thực hiện, việc đánh giá và
đưa ra mô hình ứng dụng và nguyên tắc khai thác tư liệu để đạt hiệu quả trong
giảng dạy môn Giáo dục Quốc phòng – An Ninh Giáo viên có nhiều thuận lợi hơn
trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh so với phương pháp giảng
dạy truyền thống. Tuy nhiên, để có được một tiết học với 45 phút như vậy, người
giáo viên phải tâm huyết, say mê sáng tạo tìm tòi, có những ý tưởng độc đáo nhằm
thiết kế một bài giảng đạt mức chuẩn, sinh động, kích thích được học sinh vào hoạt
động nhận thức một cách chủ động thì giáo viên thường phải bắt đầu từ ý tưởng bài
giảng, phải thiết kế hình ảnh, các đoạn clip, các hiệu ứng âm thanh, hình ảnh phù
hợp trong bài giảng, phải đảm bảo qui trình soạn giảng và sử dụng thủ pháp truyền
thông đa phương tiện theo mô hình của bài giảng dưới đây.
Ví dụ: Soạn bài : “ Kỹ thuật sử dụng lựu đạn” ta cần làm các bước sau
* Bước 1: Xác định mục tiêu bài học:
- Kiến Thức: Nhận biết được lựu đạn Phi1 và lựu đạn cần 97 việt nam, biết
được tính năng cấu tạo và nguyên lý chuyển động của lựu đạn, so sánh được hai
loại lựu đạn. cách sử dụng và bảo quản
- Kỹ Năng: Biết thực hiện động tác ném lựu đạn đúng hướng và trúng đích
- Thái độ: Rèn luyện tính kiên nhẫn, nâng cao trình độ ném lựu đạn chúng
đích.
* Bước 2: Xác định trọng tâm và kiến thức cơ bản
Cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn, cũng như
phải đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở rộng hiểu biết về vấn đề cần
giảng dạy và tạo khả năng chọn đúng kiến thức cơ bản.
Việc chọn lọc kiến thức cơ bản của bài dạy học có thể gắn với việc sắp xếp
lại cấu trúc của bài để làm nổi bật các mối liên hệ giữa các phần kiến thức của bài,

từ đó làm rõ thêm các trọng tâm, trọng điểm của bài.
Xác định trọng tâm kiến thức bài học: Nhận biết lựu đạn , các bộ phận của
lựu đạn, cấu tạo tính năng lựu đạn, nguyên lý chuyển động khi nổcủa lựu đạn. Biết
bảo quản giữ gìn vũ khí trang bị
Các loại tranh, ảnh, hình vẽ về lựu đạn, các bộ phận lựu đạn. Các đoạn clip
về chuyển động của lựu đạn khi.
* Bước 3: Xây dựng kịch bản dạy học.
Xác định cấu trúc của kịch bản.
Chi tiết hóa cấu trúc của kịch bản:
+ Xác định các bước của quá trình dạy học
+ Xác định quá trình tương tác giữa thầy, trò và các đối tượng khác
(phim, ảnh, text) – hoạt động của thầy, trò và công cụ hỗ trợ.
+ Xác định các câu hỏi, phản hồi trong các hoạt động
7


+ Hình dung (lắp ghép) thành tiến trình dạy học.
Chuẩn bị kho tư liệu cần thiết cho giáo án: Giáo viên cần chuẩn bị hệ thống
câu hỏi và nội dung cần thiết cho các hoạt động. Phần kiến thức cốt lõi sẽ được
trình bày một cách ngắn gọn và cô đọng. Khi soạn giáo án điện tử đó là nên hết sức
thận trọng trong việc chọn lựa Font chữ, màu chữ, cỡ chữ, màu nền của Slide Hình
ảnh (tĩnh và động), âm thanh, đoạn phim, sơ đồ, bảng biểu, các file flash … sử
dụng để minh họa hay theo hướng nguồn tri thức để giúp học sinh thực hiện hoạt
động học tập. Bước này xem như là bước lập dàn ý, giáo viên dễ dàng biến nó
thành bài soạn, các ý tưởng của bài dạy được trình bày dưới dạng các trang (slide)
Việc xây dựng dàn ý bài dạy dưới dạng các slide, điều quan trọng là luôn luôn vạch
ra được mối liên hệ hữu cơ về nội dung giữa các slide. Nếu không chú ý điều này,
giáo án điện tử dễ trở thành một tập các ảnh và chữ hơn là một bài soạn. Các tư liệu
có thể được tìm ở nhiều nguồn khác nhau, chúng ta có thể khai thác các đoạn phim
này trên các trang web (gdqp.edu.vn; thư viện điện tử; …)

trên các trang web chúng ta có thể dễ dàng khai thác các thông tin và hỉnh ảnh, clip
phục vụ cho việc thiết kế bài giảng. Trong quá trình sưu tập tư liệu hình ảnh, âm
thanh cần xác định mục đích sử dụng của từng hình ảnh hoặc ngữ liệu văn bản mà
chúng ta định đưa vào các slide. Một điều lưu ý là hình ảnh và âm thanh đưa vào
bài giảng nhất thiết phù hợp với mục tiêu học tập mà học sinh cần đạt, hướng đến
trọng tâm kiến thức của bài. Việc lạm dụng hoặc sự thiếu chọn lọc hình ảnh, âm
thanh trong khi biên soạn sẽ gây nhiễu cho quá trình lĩnh hội kiến thức của học
sinh. Khi cần sử dụng vào bài dạy giáo viên chỉ cần một đoạn phim ngắn khoảng
một vài phút. Vậy giáo viên cần xử lí bằng cách nào? Lúc này ta phải dùng phần
mềm trên máy vi tính để cắt đoạn phim ấy. Giáo viên có thể dùng một trong các
phần mềm sau để cắt đoạn phim. Đối với hình ảnh sử dụng vào bài dạy cần phải
đẹp mắt, rõ nét, tránh các hình ảnh bị nhòe khó quan sát và giảm sự hấp dẫn, lôi
cuốn của hình ảnh. Để có hình ảnh rõ nét, ảnh đẹp giáo viên cần ứng dụng các phần
mềm Photoshop hoặc phần mềm Paint để cắt dán hình ảnh.
Bước 4: Xác định tư liệu cho các hoạt động
- Phim (video),chuyển động khi nổ của lựu đạn
- ảnh (image), các hình ảnh về các loại lựu đạn cũng như bản plat về chuyển
động khi nổ của lựu đạn phi1. Nên sử dụng cả ảnh tĩnh và ảnh động.

8


- Tìm kiếm tư liệu
- Xử lý tư liệu
- Phân phối tư liệu cho mỗi hoạt động
* Bước 5: Lựa chọn phần mềm công cụ và số hóa kịch bản dạy học
+ Lựa chọn phần mềm công cụ thích hợp
+ Cài đặt (số hóa) nội dung
Tạo hiệu ứng trong các tương tác Tạo hiệu ứng, liên kết các trang (slide)
Liên kết nội dung, các trang trong giáo án: Việc liên kết khá đơn giản nhưng có ý

nghĩa rất quan trọng vì liên kết giúp giáo viên tích hợp các nội dung giúp tiết kiệm
diện tích trang khi soạn cũng như khi trình chiếu. Liên kết các trang của giáo án
giúp bài giảng chặt hơn, bài giảng có tính liên tục. Ngoài ra, liên kết giúp giáo viên
khỏi phải quay lại trang trước khi đang dạy. Liên kết giúp giáo viên chủ động về
nội dung, giảm tải bài giảng, chủ động được thời gian trình chiếu. Khi cần thiết thể
hiện nội dung khác có liên quan đến phần đang giảng.
* Bước 6: Chạy thử, chỉnh sửa và hoàn thiện
+ Trình diễn thử
+ Soát lỗi
+ Kiểm tra tính logic, hợp lý của các thành phần
+ Chỉnh sửa
+ Hoàn thiện
Trên cơ sở xác định mục tiêu, nội dung thiết kế bài giảng hoàn thiện giáo án
điện tử theo một trình tự các bước lên lớp. Giáo viên cần thực hiện chạy lại các
slide để kiểm tra các lỗi chính tả, các hình ảnh, âm thanh cũng như hiệu ứng, cách
sắp xếp hình ảnh, VIDEO... xem đã hợp lý hay không, để đảm bảo việc thiết kế đã
tối ưu hóa các phương pháp dạy học phát huy được khả năng vận dụng bài giảng
tương tác giữa thầy và trò theo ý tưởng của người dạy.
Khi giảng dạy cần lưu ý: Nguyên tắc của việc sử dụng trực quan: nêu vấn đề
trước khi cho học sinh quan sát hình ảnh, các đoạn clip hay sơ đồ, bản đồ…trên cơ
sở đó giúp học sinh khai thác và rút ra kết luận. Nếu làm ngược lại thì những tư liệu
mà chúng ta đưa ra chỉ mang tính chất minh hoạ, không đem lại hiệu quả cho bài
học. Để tạo nên hiệu quả, khi sử dụng các hình ảnh trực quan (không có âm thanh),
9


sơ đồ, bản đồ… lời nói của giáo viên phải đi liền với các hiệu ứng để cho kênh âm
thanh và kênh hình ảnh luôn kết hợp nhuần nhuyễn với nhau.
Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực
quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các

đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm
mỹ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu
sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang,
chạy chữ…) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và
mất thời gian vô ích.
+ Vai trò của đội ngũ cán sự môn học:
Giải pháp:
Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự
lớp. Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành
tổ chức tập lớp đòi hỏi người giáo viên cần phải có mộ số kỹ năng cần thiết.
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan
sát từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả năng
điều hành lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh
kiểm biết diễn đạt mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng
lớp
- Thiết kế công việc: Người giáo viên phải biết những công việc cần thiết
trong kế hoạch năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp
tham gia mà trong đó đội ngũ Cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát
chặt chẽ của GV
- Bồi dưỡng: Thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng
nhiệm vụ mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự
trợ giúp; cũng không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và giáo viên
sẽ tư vấn cho các em, giúp các em giải quyết các tình huống khó khăn.
- Kiểm tra, đánh giá: Giáo viên phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong
công tác, thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ Cán sự lớp. Tuyên dương
các em làm tốt, uốn nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em
mất uy tín trong tập thể lớp
- Xây dựng đôi ngũ Cán sự lớp là việc làm không dễ nhưng chúng ta phải
làm vì GV ở các trường Trung học phổ thông không có thời gian để xử lí tất cả
mọi việc ở lớp hơn nữa sẽ không có thông tin và cũng không giải quyết kịp thời

được nếu đội ngũ Cán sự lớp không được rèn luyện một cách chu đáo và có kế
hoạch cụ thể.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ
học, ý thức kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các
em phát triển trí tuệ và thể chất một cách toàn diện.
10


Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng
– An Ninh chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ
cán sự môn học một cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng
cách phải đưa ra tiêu chí phấn đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào
trong nội dung chương trình học tập. Như vậy thì thời lượng của nội dung bài
dạy chỉ chiếm khoảng 1/3 thời lượng toàn bộ nội dung buổi học. Mặt khác
giáo viên có đủ thời gian để hướng dẫn sửa chữa động tác sai cho các học sinh
yếu, kém. Tuy nhiên việc chọn lựa cán sự phải tìm hiểu kỷ tham khảo ý kiến tập
thể có tính nhiệm không, khả năng nắm bắt động tác, vai trò quản lý...
+ Dụng cụ sân bãi:
Giải pháp:
Về sân bãi thì hàng năm Tổ bộ môn làm tờ trình xin nhà trường có kế
hoạch tu bổ, đổ bồi thêm đất cát vào, không để động vũn khi mưa to, đảm bảo
sân bãi đúng qui cách.Trang bị thêm dụng cụ tập, sách giáo khoa, tranh ảnh.
Cụ thể:
Giáo viên tham gia trực tiếp huấn luyện ngoài việc sử dụng cụ, thiết bị vốn
có được ngành cấp, bổ sung mua các thiết bị phục vụ cho môn học, khuyết khích
học sinh tự làm . Ví dụ: Băng, gạc cá nhân dùng để thực hành băng; nẹp gỗ, băng,
cáng học cấp cứu và chuyển thương, bia số 4 học ngắm bắn …….
* Một vài biện pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
+Biện pháp 1

Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực
tiếp giáo dục, quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến
trong nhận thức về công tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới
nhận thức của học sinh. Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối,
quan điểm của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác
GDQP-AN trong giai đoạn mới hiện nay, như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày
3/5/2007 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Nghị định số
116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN, các văn bản
quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQP-AN… và những yêu
cầu mà học sinh cần đạt được khi học tập tại nhà trường.
+ Biện pháp 2:
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất
lượng cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng
cao chất lượng môn học GDQP-AN.
+ Biện pháp 3:
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp
với từng đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh
11


thông qua bảo tàng cách mạng của Trung ương, địa phương; thường xuyên cập
nhật thông tin để truyền đạt cho học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
+ Biện pháp 4:
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội
đồng GDQP- AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để
tạo sự thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật
chất, sách giáo khoa, tranh ảnh, mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường
xuyên làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm
tổ chức hội thi, hội thao, thực hiện tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp

thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong giảng
dạy, học tập môn học GDQP-AN.
+ Biện pháp 5:
Thường xuyên quan tâm đầu tư ngân sách, đổi mới chế độ chính sách cho
giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học GDQP-AN theo chế độ hiện hành, nhằm
động viên kịp thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho giáo viên trong thực hiện
nhiệm vụ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với
sự cố gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân
tôi đã đúc kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng
giảng dạy cho các học sinh ba khối lớp 10, 11, 12 của trường PT Nguyễn Mộng
Tuân. So sánh với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và
các giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như
sau :
- Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của môn giáo dục quốc phòng – an ninh
của từng năm học được nâng dần lên:

12


XẾP LOẠI TỔNG
SỐ
NĂM HỌC

GIỎI


KHÁ

TRUNG
BÌNH

YẾU

KÉM

2013-2014

850

07

501

312

24

01

2014-2015

772

37


433

264

37

01

2015- 2016

757

80

566

93

3

0

13


3. Kết luận, kiến nghị
Như chúng ta đã biết: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học sinh
tự tìm tòi sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu
quả. Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh
thấy rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.

Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm
vốn có, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học
sinh thấy yêu thích học môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động
và hấp dẫn. Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như
đã trình bày ở trên, với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế,
rất mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng
nghiệp cũng như sự chỉ đạo về chuyên môn của trường để bản thân được học hỏi
thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn giờ dạy GDQP-AN ở trường Trung Học Phổ
Thông.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục
trong dạy học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới
phương pháp giáo dục nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao.
Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn .
Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tôi đang trình bày giúp giáo viên gây
được hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài
học. Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ
cho kết quả cao hơn. Biện pháp tuy có thể nói không mới gì lắm, nhưng với sự
chủ động hướng dẫn của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một
kết quả khả quan hơn trong quá trình học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo
viên phải biết linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho
học sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên
phải có nghệ thuật sư phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Ngoài ra, để
tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn GDQP-AN giáo viên cần phải
có nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho
việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự
vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm lôi cuốn học
sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để
tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.

- Kiến nghị, đề xuất:
Đối với tổ
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để
học sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp
14


dạy tốt hơn bộ môn GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có
những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học
phù hợp với đối tượng học sinh của mình
Đối với trường:
Cần tạo điều kiện về phòng học bộ môn, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy.
Tăng cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cung cấp thêm máy chiếu, phòng đa năng riêng biệt cho bộ môn GDQP-AN.
Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp
để nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn.
Tăng số lượng học sinh dự thi môn GDQP- AN, mỗi năm học nên tổ chức hội
thao GDQP – AN nhằm phát huy tính tự giác, tích cực phấn đấu của học sinh.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hoá, ngày 15 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT

Trịnh Văn Dũng


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa giáo dục Quốc phòng, An ninh lớp 10,11,12
2. Sách hướng dẫn thực hiện chương trìnhlớp 10, 11, 12
3. Sách giáo viên giáo dục Quốc phong, An ninh lớp 10,11,12
4. Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ
về Giáo dục Quốc phòng - An ninh,….
5. Cổng thông tin Giáo Dục Quốc Phòng (www.giaoducquocphong.org)
6. Thông tin trên mạng Internet.
7. Tài liệu Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh của cơ quan thường trực hội đồng GDQP-AN trung ương.
8. Thông tin tư liệu.

16


MỤC LỤC
Tên mục
1.Đặt vấn đề
- Lý do chọn đề tài.
- Mục đích Nghiên cứu:
- Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu
2. Quá trình nghiên cứu
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3 Giải pháp thực hiện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận
- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
5
12
14
14
14

17



×