Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Nh ng xu h ng v n ng c a n n kinh t th gi i trong nh ng n m g n y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 32 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn,
đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu
cho tất cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có
sự đóng góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng
góp tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................3
CHƯƠNG I...................................................................................................4
CƠ CẤU NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY....................4
I.1. Chủ thể nền kinh tế thế giới :.............................................................4
I.2. Quan hệ kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thế giới:...........................8
CHƯƠNG II................................................................................................10
NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY..................................................................10
II.1.Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ...........10
bão tác động vào mọi mặt nền kinh tế thế giới - Thúc đẩy sự thống.....10
nhất của nền kinh tế toàn cầu...............................................................10
II.2. Quá trình quốc tế hoá (quy mô, tốc độ, mọi lĩnh vực đời sống........11
kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá).......................................11
II.3. Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt........13
lập sang hợp tác.....................................................................................13
II.4. Châu Á - Thái Bình Dương sự ra đời của một trật tự thế giới mới:...15
CHƯƠNG III...............................................................................................17
NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI ẢNH HƯỞNG
TỚI VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ


CỦA VIỆT NAM...........................................................................................17
III.1/ Tác động tới chính sách thương mại quốc tế..................................17
III.3/ Một số gợi ý trong việc hoạch định chính sách thương mại và.......24
đầu tư quốc tế trong tình hình mới hiện nay..........................................24
III.3.1/ Thuận lợi và khó khăn - cơ hội và thách thức:.............................24
III.3.2/ Một số gợi ý và giải pháp cho Việt Nam trong việc hoạch định...25
chính sách thương mại và đầu tư quốc tế trong tình hình hiện nay:......25
KẾT LUẬN......................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................30

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI NÓI ĐẦU
Trái đất mà loài người chúng ta đang sinh sống ngày càng trở nên nhỏ hẹp. Hoạt động
kinh tế ngày càng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hình thành cục diện sản xuất, kinh
doanh quốc tế. Sự phát triển của kỹ thuật tin học và giao thông hiện đại đã tạo điều kiện
thuận lợi để tổ chức, phối hợp các hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Xu thế toàn
cầu hoá, khu vực hoá diễn ra ngày càng rộng lớn và phát triển một cách nhanh chóngvà
sâu sắc.Để thích ứng với xu thế toàn cầu, các chính phủ đang tích cực vạch ra chiến lược toàn
cầu của mình để tận dụng các điều kiện có lợi như vốn, tài nguyên của kinh tế toàn cầu và
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước mình.
Toàn cầu hoá đòi hỏi phải mở cửa với bên ngoài. Tuy nhiên, chỉ mở cửa thì chưa đủ bởi
kinh tế toàn cầu đòi hỏi một thể chế được nhất thể hoá. Nó vừa cần có một cơ chế, qui
tắc, trình tự, tập quán gần gũi với nhau và thông suốt để thực hiện lưu thông và trao đổi
thuận lợi cả về năng lượng, tài nguyên, sản phẩm và dịch vụ. Kinh tế thị trường hiện đại
đang được thừa nhận là cơ chế tương đối có lợi cho việc phân phối tài nguyên, tăng
thêm sức sống cho nền kinh tế và đã phổ biến trên toàn thế giới. Bởi vậy, việc nối tiếp quĩ
đạo hoặc nhập quĩ đạo thể chế kinh tế diễn ra song song với sự phát triển kinh tế toàn cầu hoá
đã trở thành một xu thế quan trọng trên thế giới ngày nay.
Việt Nam đang trên con đường mở cửa nền kinh tế với thế giới bên ngoài, một nền kinh

tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy
cơ hội đến với chúng ta có nhiều song thách thức cũng lắm và cần được giải quyết. Tác
động của nền kinh tế thế giới tới Việt Nam ngày càng lớn và vai trò cuả Việt Nam trên
trường quốc tế ngày một cao. Điều này đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải có chính sách
thương mại và đầu tư nước quốc tế hợp lý để đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới.
Đề án này đi sâu đề cập tới hai xu thế: quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới và sự phát
triển của vòng cung Châu á - Thái Bình Dương với những tác động của chúng tới việc hoạch
định chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Đề án ngoài lời nói đầu và kết luận còn gồm ba chương:
- Chương I: Cơ cấu nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay.
- Chương II: Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần
đây.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Chương III: Những xu hướng vận động của nền KTTG ảnh hưởng tới việc hoạch
định chính sách thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam
CHƯƠNG I
CƠ CẤU NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nền kinh tế thế giới là một tổng thể các nền kinh tế quốc gia trên trái đất có mối liên hệ
hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau, không ngừng hoạt động thông qua sự phân công lao
động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Nền kinh tế thế giới được
chia làm hai bộ phận đó là chủ thể nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế.
I.1. Chủ thể nền kinh tế thế giới :
Nền kinh tế thế giới vào cuối thế kỷ 20 là sự phân chia thành 4 khu vực: Bắc Mỹ, Châu
Âu, Châu Á- Thái Bình Dương và phần còn lại của thế giới. Lịch sử cận đại đã chứng
minh chính các chu kỳ vận động và phát triển của thế giới đã sinh ra sự chuyển dịch các
trung tâm phát triển về kinh tế và chính trị, về thương mại và văn hoá. Có lẽ vì thế mà
có ý kiến cho rằng “Nếu thế kỷ 19 là thế kỷ của Địa Trung Hải, thế kỷ 20 là của Đại Tây
Dương thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Châu Á - Thái Bìn1h Dương”. (1)

Nội dung trong phần này đề cập đến các quốc gia, các cường quốc về kinh tế hôm nay
và triển vọng trong tương lai không xa có tác động lớn tới nền kinh tế, thế giới như :
Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc ngoài ra còn đề cập tới các tổ chức và các liên kết kinh tế
quốc tế đó là: EU, APEC, ASEAN, WTO.
Các cường quốc kinh tế: Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.
Có thể nói, nền kinh tế của các nước Mỹ, Nhật Bản đã phát triển như vũ bão sau chiến
tranh thế giới lần thứ II do áp dụng thành công những thành tựu khoa học của các cuộc
cách mạng khoa học - kỹ thuật vào đời sống và cộng thêm vào đó là phương thức và
trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. Còn Trung Quốc với chính sách kinh tế thị trường của
mình đã mở cửa với thế giới bên ngoài, chỉ trong vòng hai thập kỷ, nền kinh tế đã phát
triển vượt bậc và tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, nần kinh tế Mỹ vẫn là siêu cường số một trên thế giới và nền kinh
tế Mỹ đã có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế toàn cầu. Sức mạnh tổng hợp
của Mỹ mấy năm gần đây tăng lên nhanh chóng, ngoài yếu tố tự điều chỉnh cơ cấu còn
1

Quan hệ quốc tế - số 45 tháng 7/1993 - Thế giới năm 2000 - Một vài phác thảo trang 10

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />có phần lớn là được hưởng nhiều lợi ích từ sự tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế
Đông Á. Tuy thực lực kinh tế tổng thể của Mỹ đứng đầu thế giới nhưng tỷ trọng GNP so
với thế giới đã giảm đi rất nhiều: Năm 1965 Mỹ có GNP chiếm 34,4% nhưng đến năm
1990 tức là năm trước khi chấm dứt chiến tranh lạnh, tỷ trọng này đã giảm xuống còn
24,1%. Ngược lại tổng giá trị sản xuất quốc dân của các nước EU đã hơn hẳn Mỹ, còn
Nhật Bản cũng hơn hẳn Mỹ về giá trị sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Trong
nhiều vấn đề toàn cầu, Mỹ đã lực bất tòng tâm và buộc phải có sự giúp đỡ hoặc ủng hộ
của các nước đồng minh. Rõ nhất là trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh Pecxic (Persian
Gulf war), các nước đồng minh bỏ tiền và bản thân Mỹ thì bỏ công sức.
Sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II được thế giới biết đến như

một sự thần kì của thế kỷ 20. Nhờ vào những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất,
Nhật Bản đã vận dụng vào thực tế đưa nước mình trở thành một cường quốc kinh tế
đứng thứ hai sau Mỹ trên thế giới. Tỷ trọng kinh tế Nhật Bản cũng chiếm một phần lớn
của nền kinh tế thế giới. Mô hình kinh tế Nhật Bản được nhiều nước noi theo và đã được
áp dụng thành công.
Vào đầu thập kỷ 90 từ sau khi quả bóng đầu cơ vỡ tung (Cuộc khủng hoảng Bình
Thành) sự vận động của nền kinh tế Nhật Bản đã hầu như ngừng trệ, tình trạng thiểu
phát đang cản trở bất cứ khả năng thực tế vào sự phục hồi nền kinh tế: Đồng yên giảm
giá so với đồng đô la... Chỉ vài năm trước đây Nhật Bản được coi là một siêu cường có
sức mạnh phi thường nhưng sau 4 năm kinh tế ngừng trệ, nền kinh tế Nhật Bản rơi
xuống như diều đứt dây, có dấu hiệu bị tan vỡ. Mô hình kinh tế Châu Á với hình dạng
đàn nhạn bay mà Nhật Bản làm chim đầu đàn bây giờ đang lâm vào khủng hoảng.
Khủng hoảng suy thoái kinh tế ở Nhật Bản đã có tác động một cách tiêu cực tới nền
kinh tế EU ( liên hiệp Châu Âu). Đầu năm 1990, sau một thời kỳ tăng trưởng ngắn ngủi,
nền kinh tế EU bị mất đà, tốc độ phát triển chậm lại. Cũng thêm vào đó là hiệp ước
Mastricht để đưa EU đến đồng tiền chung vào năm 1999 đang gặp khó khăn trong việc
thực hiện .
Tuy vậy, cả Mỹ lẫn Nhật Bản vẫn là những trụ cột chính của nền kinh tế thế giới
(Economic Powers)bởi vốn đầu tư của họ lớn, cộng thêm vào đó trình độ khoa học và
quản lý cao. Cho nên, sự vận động của nền kinh tế thế giới với xu hướng toàn cầu hoá,
khu vực hoá nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng lớn của các nền kinh tế hùng mạnh này.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Về phần mình, Trung Quốc, một thực thể kinh tế hùng mạnh có tác động lớn tới quá
trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương.Với chính sách xuyên thế kỷ của mình- định hướng phát triển theo hướng nền
kinh tế thị trường - tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc tăng như vũ bão, nhiều năm
lên tới hai con số. Trung Quốc đang trở thành một cực thứ 4 của thế giới. Một nước Đại
Trung Hoa bao gồm cả Hoa Lục, Hồng Kông và tương lai Ma Cao, nổi lên thành một

đối thủ đáng gờm đối với các cực khác. Nó cũng tham gia chi phối các hoạt động của
thế giới. Sự phát triển năng động của nền kinh tế ở Châu Á - Thái Bình Dương cũng một
phần nhờ vào sự phát triển của Trung Quốc.
Các tổ chức và các liên kết KTQT; EU, APEC, WTO và ASEAN.
Ngoài ba quốc gia, các cường quốc về kinh tế là Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc có tác
động lớn tới nền kinh tế thế giới, thì chúng ta còn phải đề cập tới các chủ thể kinh tế
quốc tế ở cấp độ vượt ra ngoài phạm vi quốc gia đó là các tổ chức kinh tế quốc tế và các
liên kết KTQT: EU, APEC, WTO và ASEAN.
Liên minh Châu Âu (EU), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
tổ chức thương mại quốc tế (WTO), hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN).
Tuyên bố Schuman, còn gọi là kế hoạch Schuman đã được coi là "giấy khai sinh" của
cộng đồng Châu Âu. Sau gần một năm đàm phán khẩn trương căng thẳng, ngày 18 / 04/
1951, sáu nước: Pháp, Bỉ, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Hà Lan, Luc Xăm Bua đã ký
hiệp ước thành lập cộng đồng than, thép Châu Âu (CECA) và ngày 13/7/1952, CECA
chính thức ra đời. Và đến 1/1/1958 hiệp ước thiết lập EEC và cộng đồng năng lượng
nguyên tử Châu Âu (CEEA) ký tại Roma đã có hiệu lực. Nhưng đến năm 1967, CECA,
CEEA và EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là "cộng đồng Châu
Âu" (EC). Đến 1/1/1993 Hiệp ước Maastricht chính thức có hiệu lực EC gồm 12 nước
trở thành EU (liên minh Châu Âu) và đến 1/1/1995 kết nạp thêm Phần Lan, Áo, Thuỵ
Điển đưa số thành viên lên 15 nước. Từ một cộng đồng chỉ có hai sản phẩm than thép
đến nay EU đã trở thành cộng đồng chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế, chiếm tới gần 17%
thương mại thế giới (khi đó Mỹ chiếm 12%). Hiện nay EU với dân số khoảng 300 triệu
người là thị trường lớn nhất thế giới, cộng với tiềm năng về kinh tế, khoa học và công
nghệ của mình, EU đóng vai trò hết sức to lớn trong việc chi phối các quan hệ kinh tế
quốc tế.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương được thành lập tháng 11 - 1989 đến
nay APEC gồm 19 nước thành viên (Việt Nam gia nhập ngày 14/11/1998) Hiện nay

APEC chiếm 56%GDP Và 46% Thương mại thế giới với mục tiêu thành lập là:
+ Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong
khu vực, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự phụ thuộc
lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các hàng hoá, dịch vụ, vốn và
công nghệ.
- Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương vì lợi ích các nước Châu Á Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.
- Cắt giảm những hàng rào thuế quan và phi thuế quan cản trở việc trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên phù hợp với nguyên tắc của GATT/WTO, ở những
lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO): Sau chiến tranh thế giới thứ hai nhằm cứu nền
thương mại thế giới khỏi khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng mà lịch sử đã chứng kiến ở
đầu thập kỷ 30. Người ta kịp nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân đẩy đến tình
trạng trên chính là chính sách bảo hộ thái quá mà mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã
có thi hành bất chấp ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại chung. Những chính sách bảo
hộ thái quá này đã làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong môi trường kém an
toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá và
dịch vụ rất khó khăn. Điều này tác động xấu tới nền kinh tế toàn cầu, làm hãm sự phát
triển kinh tế của từng quốc gia. Đây chính là bối cảnh cho ra đời GATT (General
Agreement on Tareffs and Trade) nhưng mới đầu GATT chỉ là một hiệp định đa phương
giữa các quốc gia có nền kinh tế thị trường để các nước tham dựu tạo một quy chế mậu
dịch, là diễn đàn quốc tế để các nước thành viên đàm phán mở rộng buôn bán thương
mại... sau cùng là diễn đàn quốc tế để các bên tham gia giải quyết những bất đồng hoặc
tranh chấp trong thương mại song phương hoặc đa phương. Sau một thời gian phát triển
và cuối cùng tại vòng đàm phán Urugoay kéo dài từ 9/1986 đến 1/1/1995 thì GATT
chuyển thành tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Với mục tiêu cao cả là: tạo một môi trường thương mại quốc tế an toàn và rộng khắp,
nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn
cầu. Hiện nay WTO thu hút sự tham gia của 132 thành viên chiếm hơn 90% tổng giá trị
thương mại thế giới.


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN - The Association of Southeast ASEAN
Nations) được thành lập 8/8/1967 với sự ra đời của bản tuyên bố ASEAN do bộ trưởng
ngoại giao của 6 thành viên đầu tiên ký kết gồm Indonexia, Malaixia, Philippin,
Singapor, Thái Lan, nay có thêm bốn thành viên mới đó là Brunay, Lào, Myanma và
Việt Nam. ASEAN với mục tiêu là tăng cường và hợp tác kinh tế giữa các nước trong
khu vực thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, tiến bộ xã hội, duy trì hoà
bình an ninh khu vực tạo cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hoà bình
và thịnh vượng. ASEAN luôn được thế giới biết tới là khu vực có tiềm lực về kinh tế là
nơi có môi trường đầu tư hấp dẫn, và trong tương lai không xa sẽ trở thành khu vực có
nền kinh tế phất triển năng động nhất thế giới.
I.2. Quan hệ kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thế giới:
Năm 1995 là năm mà xu thế toàn cầu hoá - khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ ở khắp các lục
địa và ở cả bốn tầng nấc: toàn cầu, liên khu vực, cấp vùng và các tiểu vùng. Thêm nhiều
tổ chức liên kết kinh tế ra đời. Các tổ chức liên kết hiện có được mở rộng hoặc đang đẩy
nhanh tốc độ hợp tác hay hình thành khu vực mậu dịch tự do. Liên hiệp quốc (UN), Quĩ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới ( WB)
và điển hình là vào tháng 1/1995: WTO (World Trade Organization) - Tổ chức thương
mại thế giới - ra đời thay thế cho hiệp định chung về buôn bán và thế quan GATT, nhằm
thực hiện tự do hoá buôn bán trên thế giới. Hoạt động của nó đã kích thích các nền kinh
tế là thành viên và chưa phải là thành viên phát triển nhanh, thúc đẩy buôn bán trên thế
giới tăng trưởng với tốc độ khá cao và tăng cường hợp tác hoá giữa các khu vực và trên
toàn cầu.
Ngoài tự do thương mại hoá ra, các tổ chức liên kết kinh tế, liên lục địa, khu vực nở rộ
như EU, ASEAN , NAFTA, TAFTA ( thị trường xuyên Đại Tây Dương )... Các thị
trường hàng hóa và dịch vụ phát triển khắp nơi và đa dạng tạo nên một sự cạnh tranh
toàn cầu. Các nguồn vốn tư bản chuyển dịch dần ra ngoài vào các nước đang phát triển (
Developing Countries ), hợp tác Bắc - Nam có quy mô ngày càng lớn, ngoài ra còn có

hợp tác Nam- Nam. Thị trường tiền tệ, trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ cũng
ngày một sôi động trên thế giới.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ - NGO( Non Government Organization), các
công ty đa quốc gia với hình dạng muôn màu muôn vẻ ngày càng thâm nhập một cách
sâu sắc vào nền kinh tế thế giới.
Có thể nói xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang được thúc đẩy bởi một cuộc cách
mạng kinh tế - công nghệ hiện đại và diễn ra như vũ bão trên thế giới. Khi sự phân công
lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, tính phụ thuộc lẫn nhau và sự hợp tác phát triển
giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế,... và trên toàn cầu ngày càng tăng. Với xu thế
này, sự hợp tác cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ở từng khu vực và trên thế giới
diễn ra ngày càng sôi động trong những năm còn lại của thập kỉ 90, góp phần đưa nền
kinh tế thế giới phát triển nhanh hơn trong thiên niên kỉ XXI.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG II
NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau bởi vậy
sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu hướng khác nhau. Ở đây
xin đề cập đến những xu hướng cơ bản chi phối chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi
quốc gia nhưng chỉ phân tích sâu hai xu hướng có tác động mạnh đến việc hoạch định
chính sách thương mại quốc tế và chính sách đầu tư quốc tế, đó là: Xu hướng quốc tế
hoá của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương.
II.1.Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ
bão tác động vào mọi mặt nền kinh tế thế giới - Thúc đẩy sự thống
nhất của nền kinh tế toàn cầu.

Trong tiến trình lịch sử, nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp. Nội dung
cơ bản của các cuộc cách mạng đó là sự thay thế các công cụ sản xuất thô sơ, thủ công
cũng như thay thế các quá trình sản xuất lạc hậu đơn điệu bằng việc áp dụng các thành
tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tiến dần lên cơ khí hoá đến tự động hoá, sản xuất
theo kiểu dây truyền hiện đại và với những nguồn năng lượng mới. Sự thay thế trên cho
thấy một thực tế là ngày nay, khoa học - kỹ thuật đã trở thành một yếu tố tác động trực
tiếp của quá trình sản xuất, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng chứ không như
trước đây, giữa khoa học và sản xuất còn có sự cách biệt.
Về tốc độ phát triển khoa học - kỹ thuật cũng rất nhanh chóng: chu kỳ thay thế sản phẩm
ngày nay chỉ cần từ 3 - 5 năm thay cho từ 15 - 20 năm như trước đây.
Khoa học - kỹ thuật không chỉ dừng ở đó mà còn phát triển liên tục, trong những thập
kỷ gần đây, nó đã có sự chuyển biến về chất. Vì thế, cách mạng khoa học - kỹ thuật đã
trở thành cách mạng khoa học - công nghệ.
Xét từ góc độ phương thức sản xuất, những thay đổi về cơ cấu sản xuất nói trên do cách
mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra sự phát triển mới: Sự nhảy vọt về chất của lực
lượng sản xuất dẫn đến sự tăng trưởng hết sức mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 20 năm (1970 1990) sản xuất của cải trên thế giới đã tăng 2 lần, tức là vượt khối lượng được sản xuất
ra trong 230 năm trước (1740 - 1970).
Để thích ứng với một trình độ của lực lượng sản xuất cụ thể, tất phải có một trình độ
quản lý tương ứng nhưng để đạt được trình độ quản lý cao, tất yếu các nước cùng phải
trao đổi phương tiện, kinh nghiệm cho nhau, thậm chí còn phải giúp đỡ lẫn nhau nâng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />cao trình độ. Việc nối mạng Internet, việc các nước phát triển mở những lớp bồi dưỡng
kiến thức cho các nước khác là những ví dụ cụ thể cho vấn đề trên.
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển là cùng với nó có nhiều vấn đề khác cần
được giải quyết như môi trường, dân số,... mà xét trên góc độ kinh tế cũng là những vấn
đề liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới.
II.2. Quá trình quốc tế hoá (quy mô, tốc độ, mọi lĩnh vực đời sống
kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá).
Có thể nói, bản thân nội tại “ngôi làng kinh tế” mà chúng ta đang sống biến đổi không

ngừng với quy mô từ nhỏ đến lớn và tác động đến mọi mặt đời sống Kinh tế - Chính trị Văn hoá,... của các cá thể sống trong đó.
Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế Thế giới ngày nay diễn ra rất nhanh,
mạnh và trở thành phổ biến. Tác động của nó ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực của
đời sống quốc tế và đã gây ra những phản ứng thuận, nghịch khác nhau đối với từng khu
vực, từng quốc gia. Một câu hỏi của dư luận quốc tế đặt ra là: Tại sao lại xuất hiện xu
thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế trên thế giới ? và điều đặc biệt là ngoài
quan hệ chặt chẽ về kinh tế trước đây giữa Bắc - Bắc (các nước phương Tây giàu có)
ngày nay có quan hệ giữa Bắc - Nam (các nước giàu và các nước nghèo) lại trở nên sôi
động mạnh mẽ đến như vậy. Để trả lời những câu hỏi này ta phải xét đến một phần của
một xu thế mới - Xu thế dung hoà lợi ích. Ngày nay, mỗi nước đều phải tự bảo vệ lợi ích
quốc gia và dân tộc mình. Muốn có một nền an ninh tốt và vững mạnh để bảo vệ lợi ích
của mình thì cần phải có một nền kinh tế phát triển, mà muốn có điều kiện để phát triển
và gìn giữ một nền kinh tế hùng mạnh thì tất yếu cần có một nền an ninh ổn định cả trên
khu vực lẫn trên thế giới. Do vậy, mối quan hệ biện chứng này liên quan chặt chẽ, bổ
xung lẫn nhau. Vào thế kỷ XX này, chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh đã làm hao tổn
lớn đến nền kinh tế toàn cầu, nó đã làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế thế giới và
tàn dư của nó vẫn còn là hiểm họa cho nhân loại hiện nay và trong tương lai. Ngày nay,
nhắc đến chiến tranh xung đột, đổ máu thì không một quốc gia nào là không ngao ngán
mặc dù vẫn còn tiềm ẩn một vài điểm nóng cục bộ tại một số khu vực.
Xu thế mới của thời đại ngày nay là loại trừ chiến tranh nóng nhưng lại nổi lên một cuộc
chiến tranh mới - Chiến tranh kinh tế - với sự cạnh tranh và hợp tác mạnh mẽ mang tính
liên quốc gia, tính liên khu vực và tính toàn cầu.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Cạnh tranh quốc tế càng gay gắt càng đòi hỏi các quốc gia phải tự bảo vệ mình. Nhưng
mặt khác, loài người cũng có nhiều lợi ích chung vượt trên tầm quốc gia như vấn đề môi
trường,... và hơn thế nữa, lợi ích của một nước phải thông qua sự phối hợp và giúp đỡ
lẫn nhau giữa nhiều nước mới có thể đạt được. Bởi vậy, phối hợp thế nào giữa lợi ích
một nước với lợi ích của nước khác và lợi ích toàn cầu đã trở thành một vấn đề lớn của

cộng đồng quốc tế. Trong quá trình đối lập - thống nhất giữa va chạm và phối hợp - điều
chỉnh lợi ích cũng là một xu thế lớn của thế giới ngày nay.
Xung đột tất có giới hạn nhất định. Thông qua dung hoà lợi ích, các cuộc xung đột sẽ dịu
dần. Tuy vậy, mâu thuẫn giữa các nước Đông - Tây sẽ tiếp tục tồn tại nhưng ở trên bình
diện khác - mâu thuẫn trong cạnh tranh kinh tế.
Cùng với việc kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh “Cold war“ mâu thuẫn Tây - Tây lại tăng
lên. Những cuộc tranh cãi gay gắt đã liên tục nổ ra giữa EU (Liên hiệp Châu  u) - Mỹ
- Nhật Bản; giữa Mỹ - Nhật Bản trên các vấn đề về phê chuẩn ra nhập thị trường buôn
bán nông sản phẩm, trợ giá xuất khẩu,... song những cuộc tranh cãi này có giới hạn. Nền
kinh tế các nước trên đã ở vào tình thế “trong tôi có anh, trong anh có tôi “, dựa vào
nhau, không bên nào rời được bên nào. Thông qua phối hợp “lợi ích“ để cuối cùng đi
đến dung hoà, không đến mức tan vỡ. Chính vì vậy, trong thời gian gần đây đã xuất
hiện nhiều tín hiệu của một mối quan hệ ổn định giữa các cường quốc là: Mỗi quốc gia
đều cố gắng đặt mối quan hệ với các quốc gia khác dưới nhiều hình thái và điều khoản
khác nhau, tháng 7/1997 Thủ tướng Hashimoto bày tỏ một khái niệm "Quan hệ ngoại
giao Âu - Á“ và đưa ra ba nguyên tắc cho mối quan hệ Nga - Nhật là " Tin tưởng lẫn
nhau, lợi ích tương hỗ và hướng tới tương lai". Tháng 9/1997 tại Trung Quốc, Thủ tướng
Hashimoto đã khởi xướng bốn nguyên tắc "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở
rộng hợp tác và tạo dựng một trật tự chung" với Trung Quốc. Trong một cuộc viếng
thăm Mỹ tháng 10/1997, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đưa ra nguyên tắc "Tăng cường
hiểu biết, mở rộng các lợi ích chung, phát triển hợp tác và làm việc vì một tương lai
chung"...
Mâu thuẫn giữa Nam - Bắc đã có từ lâu, sau chiến tranh lạnh vị trí các nước đang phát
triển tương đối giảm, khoảng cách kinh tế Nam - Bắc tiếp tục tăng lên. Những cuộc đấu
tranh kiểm soát và chống kiểm soát, bóc lột và chống bóc lột giữa Nam - Bắc vẫn còn
tồn tại lâu dài.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Kinh tế toàn cầu hoá mang lại lợi ích và cũng đem lại rủi do cho một quốc gia. Để tránh
mọi rủi do trong khi mở cửa nền kinh tế của mình ra bên ngoài, các nước cũng tăng

cường các biện pháp tự bảo vệ mình và càng tích cực thiết lập, phát triển các tập đoàn
kinh tế khu vực theo quan hệ địa lý. Vai trò của cơ chế tập đoàn hoá kinh tế này là điều
tiết quan hệ nội bộ tập đoàn, ưu đãi lẫn nhau và cùng có lợi, hai là cùng đối phó với cuộc
cạnh tranh bên ngoài để thực hiện bảo hộ khu vực. Ví dụ : EEC (cộng đồng kinh tế Châu
Âu) đã trở thành một tập đoàn khu vực hùng mạnh, rộng 2,36 triệu Km 2, với tổng số dân
346 triệu, giá trị tổng sản phẩm quốc dân khoảng 7.000 tỷ USD. Khu vực mậu dịch tự
do Bắc Mỹ (NAFTA- Nouth American Free Trade Area) do Mỹ - Canada - Mêhicô đóng
vai trò chính cũng bắt đầu vận hành từ năm 1994. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
vươn lên nhanh tuy khó thực hiện nhất thể hoá kinh tế toàn khu vực nhưng hợp tác khu
vực nhỏ đã phát triển nhanh như việc thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông NamÁ ASEAN (Association of Southeast Asian Nations), Diễn đàn kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương- APEC (Asia Pacific Economic Conference) đã thúc đẩy kinh tế phát triển trao
đổi, hợp tác và cạnh tranh trong toàn khu vực.
Trong xu hướng quốc tế hoá ngày nay, kinh tế - thương mại trở thành lĩnh vực quan
trọng nhất, tiêu điểm tập chung vào hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT)
và bây giờ được thay thế bằng WTO (Tổ chức thương mại thế giới). Ngoài ra, còn có tổ
chức Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF (International Moneytary Funds) và Ngân hàng thế giới WB - (World Bank). Đây là 3 trụ cột lớn điều hoà quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế.
Có thể nói, xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đã trở thành phổ biến. Mọi quốc gia, mọi tổ
chức quốc tế, mọi khu vực kinh tế đều có xu hướng mở cửa để giao lưu, hợp tác trong
cạnh tranh để cùng nhau phát triển. Như vậy, các quốc gia vì có cùng mục đích chung là
phát triển kinh tế cho nên mới có sự song trùng lợi ích lẫn nhau, tiến tới xu thế toàn cầu
và khu vực hoá.
Với một quốc gia coi nền kinh tế là hàng đầu thì đối với họ lợi ích quốc gia, lợi ích dân
tộc là trên hết. Mọi hành động của một quốc gia đều xoay quanh việc bảo vệ lợi ích của
mình. Như một câu nói của Bộ trưởng ngoại giao Áo - Mettenic “Không có bạn bè nào
là vĩnh viễn, không có đồng minh nào là vĩnh viễn, mà chỉ có lợi ích là vĩnh viễn “(2).
II.3. Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt
lập sang hợp tác.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Từ thế kỷ thứ XVIII, tương lai kinh tế của một quốc gia liên quan hết sức chặt chẽ tới
khả năng vũ trang và sự lựa chọn đồng minh. Sự năng động của một quốc gia là chìa
khoá để giải quyết tất cả các vấn đề trên, sự được thua về kinh tế là sự được thua của
một quốc gia: Buôn bán tay ba, tính hám lợi, bao vây kinh tế của chiến tranh Napoleon.
Các cuộc tranh chấp kinh tế thường được giải quyết bằng biện pháp quân sự. Ví như
nước Anh đã trở thành cường quốc thương mại đầu tiên trên thế giới nhờ sức mạnh bất
khả xâm phạm của Hạm đội Hải quân.
Sự tương quan giữa quyền lực kinh tế và sức mạnh quân sự đã trở nên bị lu mờ khi chủ
nghĩa tự do kinh tế ra đời. Sự xuất hiện của Chủ nghĩa tư bản làm mất đi ý nghĩa của
cuộc tranh luận về tương quan lực lượng kinh tế giữa các quốc gia. Từ nửa sau thế kỷ
XX, các nước phát triển đã hầu như không phải dùng đến giải pháp quân sự để bảo vệ
quyền lợi kinh tế của mình.
Ngày nay, phần lớn các quốc gia phụ thuộc vào nước ngoài để bổ xung nguồn cung ứng
nguyên liệu và lương thực, thực phẩm sống còn khác. Những thoả thuận của GATT:
Xem xét lại các hàng rào thuế quan,... là những danh giới kinh tế của một nước, nó kìm
hãm và là trở ngại cho sự phát triển thương mại quốc tế. Những thách thức chiến lược
chủ yếu lâu dài đã dịch chuyển từ bàn cờ địa lý chính trị sang bàn cờ địa lý kinh tế.
Ranh giới về kinh tế giữa các quốc gia xét về tổng thể mà nói đã bị mờ nhạt. Nhiều quan
hệ mới về kinh tế nổi lên giữa các nước: Bắc - Nam, Nam - Nam, Bắc - Bắc đan xen
chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể của nền kinh tế thế giới. Mọi tranh chấp về lợi ích
đều được hoá giải bằng “thương lượng kinh tế“.2
Liên hợp quốc (UN) cùng với các tổ chức kinh tế, tài chính khác như IMF, WB, G8
(Câu lạc bộ những nước công nghiệp phát triển), London club, Paris club,... đã đứng ra
làm người “giúp đỡ“ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mọi nền kinh tế của các nước
để hướng các quốc gia này về một kiểu kinh tế thị trường toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích
cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Các quan hệ kinh tế nổi cộm lên vẫn là quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát
triển. Các nước phát triển vốn có công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn các nước đang
phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả năng tiếp thu nhanh,... Quan hệ này bổ
xung cho nhau tạo nên một môi trường kinh tế thế giới mới.


2

Lịch sử ngoại giao 1979 đến nay - Học viện QHQT - Liên minh tứ cường - Sách đã dẫn

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />II.4. Châu Á - Thái Bình Dương sự ra đời của một trật tự thế giới mới:
Vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ XX này được nhắc đến rất nhiều
không phải vì cái tên mang tính địa lý học, mà là do trong bản thân nó (khu vực này )
bao bọc nhiều nền kinh tế đang phát triển với tốc độ cao, năng động. Chính “vòng
cung“ này đã tạo ra một trật tự kinh tế thế giới mới, ngoài những nguyên nhân chủ quan
trong nội tại đó là:
- Sức mạnh kinh tế tiềm ẩn.
- Sự sụp đổ Chủ Nghĩa Xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
- Cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thông.
Đây chính là ba điểm quan trọng tạo nên một trật tự thế giới mới đặc biệt là về kinh tế.
Vùng bờ biển Châu Á - Thái Bình Dương được bao quanh bởi 4 trung tâm kinh tế thế
giới: Tokyo - Thượng Hải - Hồng Kông - Singapore. Các trung tâm này đã vượt qua
được sự thống trị của Atlantic (Đại Tây Dương) với nền văn hoá công nghiệp của New
York - Paris - London. Năm trăm năm trước, nền kinh tế thế giới đã chuyển từ Địa
Trung Hải sang Atlantic và ngày nay, trung tâm này đang chuyển từ Atlantic sang Thái
Bình Dương.
Trên thực tế, vấn đề này đã được giải thích, nền kinh tế Atlantic: Mỹ và EU đang tụt hậu
về tốc độ phát triển kinh tế. Một Châu Âu già cỗi đang tự lôi cuốn mình với thị trường
chung Châu Âu và bản thân nước Mỹ cũng đang bận tâm tới Châu Âu - tranh giành ảnh
hưởng với Liên Xô, mở rộng NATO,...
Những hoạt động kinh tế thực sự đã chuyển sang vùng Châu Á - Thái Bình Dương - một
khu vực phát triển nhanh - với khả năng chi tiêu lớn, sự lan truyền công nghệ mới, sự
lớn mạnh về vốn tích tụ và sự gia tăng buôn bán nội khu vực đã đạt đến mức tới hạn của

sự tăng trưởng kinh tế tự lực và ảnh hưởng ra bên ngoài.
Châu Á với thị trường sản xuất bùng nổ nhanh tróng mạnh mẽ đã kéo theo khu vực tiêu
dùng của nó mặc dù mới chỉ hé mở so với Mỹ và Châu Âu.
Ví dụ: Nhu cầu tiêu thụ sắt của Châu Á (Trừ Nhật) đã lớn hơn cả Mỹ và EC. Nhu cầu
chất bán dẫn của Châu Á lớn hơn EU, vận tải container và đường hàng không của Châu
Á lớn hơn Mỹ lẫn EC.
Một trong những yếu tố để đạt được mức tới hạn cho sự phát triển trong khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương là sự tăng trưởng của khối lượng vốn trong vùng. Mỹ và sau là

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Châu Âu chính là động lực cho sự tăng trưởng đó. Bởi vì họ cung cấp thị trường cho
xuất khẩu từ Châu Á và họ cũng là người cung cấp phần lớn vốn và công nghệ cho các
nước ở khu vực này trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Ngày nay, các nước Châu Á - Thái Bình Dương đang nắm lấy vai trò mới trong cộng
đồng thế giới, với con số ước tính khoảng 2 tỉ dân, chiếm 40% GNP toàn thế giới, tài
nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cộng thêm vào đó là một nền văn minh xưa
rực rỡ của nhân loại, Châu Á - Thái Bình Dương rất xứng đáng là trung tâm kinh tế thế
giới trong giai đoạn tới.
Theo tính toán của các nhà kinh tế học John Naisbitt thì: Tổng sản phẩm của Châu Á
cộng với Nhật Bản vượt Bắc Mỹ năm 1996 và nếu không kể Nhật Bản thì Châu Á sẽ
vượt Bắc Mỹ vào năm 2018 và EEC (Cộng đồng kinh tế Âu Châu) vào năm 2022. Thêm
vào đó, Châu Á (trừ Nhật) sẽ chiếm 57% nền kinh tế thế giới vào năm 2050; 24 nước
OECD (Tổ chức kinh tế các nước phát triển) gồm có cả Mỹ, Nhật và hầu hết các nước
Châu Âu, sẽ chỉ chiếm 15%. So sánh với năm 1990 các nước OECD chiếm 75% kinh tế
thế giới trong khi các nước Châu Á chỉ chiếm 9%. 3
Liệu trong vòng 60 năm (Từ 1990 đến 2050) các nước Châu Á có thể khẳng định được
vị trí và vai trò nền kinh tế của mình như trên đề cập hay không ?
Trên khía cạnh kinh tế, Châu Á đã nhận biết được vai trò mới lớn hơn và quan trọng hơn
của mình trong nền kinh tế thế giới. Các nước còn lại cũng đã nhận biết được vai trò

tiềm ẩn của Châu Á. Nhưng có một tiềm năng rất lớn, một cơ hôi rất lớn cho Châu Á
tham gia vào trật tự thế giới mới, giành quyền lãnh đạo kinh tế. Từ Chilê đến Trung
Quốc, giới quan sát đều chăm chú theo dõi sự phát triển của Châu Á - Thái Bình Dương
và Châu Mỹ.

3

Nguồn tạp chí tài chính số 10 (396) - 1997 Bài nghịch lý toàn cầu “Châu Âu còn phải đi
những bước dài” John Naisbitt.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG III
NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI ẢNH HƯỞNG
TỚI VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM

Cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt. Một trật tự thế
giới mới đang từng bước được hình thành theo hướng tạo nên sự cân bằng mới về lực
giữa các cuốc gia, trước hết là các trung tâm và các quốc gia lớn. Chính những xu hướng
vận động biến đổi này đã tác động tới nền kinh tế chung và chính sách kinh tế đối ngoại
nói riêng của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
III.1/ Tác động tới chính sách thương mại quốc tế.
Sau khi khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, WB, ADB, từ
ngày 25/7/1995, Việt Nam đã chính thức ra nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), từ ngày 1/1/1995 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên theo chương trình
CEPT để thực hiện AFTA,... Tháng 12/1994 Việt Nam gửi đơn xin ra nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và đã gửi tới “Bị vọng lục “ giới thiệu chính sách thương
mại Việt Nam, 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn
hợp tác Á - Âu (ASEM) và đặc biệt vào ngày 14/11/1998 Việt Nam đã chính thức trở

thành thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC).
Ngoài ra, chúng ta đang trong quá trình đàm phán hiệp định thương mại Việt - Mỹ với
những điều kiện và nguyên tắc cơ sở WTO .
Như vậy, trong thời gian qua Việt Nam đã thực sự tham gia vào “Vòng quay “ của xu
hướng quốc tế hóa điều này đã tác động tới chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
.
Một là: Để đạt được mục tiêu mở rộng thị trường nước ngoài theo xu thế từng bước hội
nhập vào thị trường khu vực và thế giới đòi hỏi Việt Nam cần cải thiện hơn nữa hệ thống
thuế quan vì hiện tại hệ thống thuế quan của Việt Nam còn khá phức tạp và chưa hoàn toàn
phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Bảng 1. Mức thuế bình quân của một số nhóm hàng nhập khẩu chính vào thị trường Việt
Nam

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Ôtô, xe máy
Rượu
Bia
Xăng dầu
Máy điều hoà, tủ lạnh
Dụng cụ điện trong gia đình
Xi măng
Nhựa, giấy, cao su
Sắt thép

55%
60%
50%
55%

40%
30%
5%
30%
10%

Tuy hệ thống thuế đã được đơn giản hoá và mức thuế trần đối với các mặt hàng nhập
khẩu chính đã giảm từ 200% xuống còn 60%. Số mặt hàng chịu thuế 0 - 5% chiếm
53,1% tổng số mặt hàng nhập khẩu. Và chỉ có 0,78% số mặt hàng chịu thuế xuất trên
60%. Tuy nhiên cần lưu ý là xét về giá trị nhập khẩu thì phần lớn là các hàng hoá chịu
thuế xuất cao. Mức thuế bình quân gia quyền của 9 mặt hàng chủ yếu như nêu ở trên là
33,5%,... Mặc dù đã có những cải cách đáng kể trong thời gian qua, hệ thống thuế quan
Việt Nam còn khá phức tạp và hoàn toàn chưa phù hợp với các thông lệ quốc tế. Thứ
nhất là thuế xuất dàn trải quá rộng và có quá nhiều mức thuế (150 mức),...Vì vậy, hệ
thống thuế quan Việt Nam cần tiếp tục sửa đổi theo hướng đơn giản hơn, rõ ràng hơn.
Hai là: Trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất diễn ra ngày một nhanh chóng như hiện
nay đã tác động tới chính sách sản phẩm đòi hỏi phải có những nhìn nhận mới. Chúng ta
phải có những sửa đổi bổ sung để tạo ra được những chính sách sản phẩm phải vừa tận
dụng được những “kẽ hở“ của thị trường khu vực và thị trường thế giới vừa phải nhằm
vào lĩnh vực có khả năng cạnh tranh lớn nhất. Kinh nghiệm của các nước NICs và các
nền kinh tế phát triển năng động như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thailand,... là ví
dụ sinh động cho nhận định này.
Ba là: Trong những năm của thập kỷ 80, Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn là bạn hàng chính
của Việt Nam chiếm phần lớn trong tổng kim nghạch xuất - nhập khẩu, nhưng đến 1991,
thị trường Châu Á chiếm 80% tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam, thì năm 1994
còn 75,8% và năm 1997 chỉ còn chiếm 67,7%. Riêng thị trường Đông Bắc Á chiếm 50%
tổng kim nghạch vào năm 1995, và năm 1997 giảm xuống còn 44,0%.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thị trường xuất khẩu của Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc
biệt Tây Bắc Âu, thị trường Liên bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi.
Nếu năm 1991, thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim
nghạch xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 đã tăng lên gấp 2 lần, đạt tỷ trọng
17,16% và năm 1997 tiếp tục tăng lên 21,5%.Châu Mỹ, mà đặc biệt là Hoa Kỳ, là một
hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Nếu năm 1991,
Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam
thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%. Thị trường xuất khẩu
của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu Úc hay Châu Đại Dương mà đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm1991, thị trường này mới chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng
kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,78% (xem bảng
2):

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bảng 2 : Cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 1997 (tính
bằng % của tổng số) (4)
Các khu vực thị trường / Năm
- Châu Á
+ Đông Bắc Á
+ Đông Nam Á
+ Nam Á và Trung Đông
- Châu Âu
+ Tây Bắc Âu
+ SNG và Đông Âu
+ Liên Bang Nga
- Châu Úc
- Châu Phi
- Châu Mỹ
+ Bắc Mỹ
+ Mỹ Latinh

+ Hoa Kỳ
Tổng cộng

1991
79,94

1994
75,80

9,79

17,17

8,67
0,96
0,68
0,16
0,16

100.00

1,07
0,56
2,76
2,59
0,17
100.00

1995
72,40

50,0
21,0
1,40
17,80
15,0
2,80
1,04
1,04
0,70
4,33
3,40
0,93
3,10
100.00

1996
69,6
49,0
19,0
1,60
16,80
13,0
3,80
2,36
0,82
0,70
4,22
4
3,70
0,52

3,43
100.00

1997
67,7
44,0
22,0
1,70
21,50
19,0
2,5
1,37
2,78
0,80
4,48
3,80
0,68
3,21
100.00

Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam
từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị
trường xuất khẩu không ngừng mở rộng;mặt khác Việt Nam không chỉ phát triển thị
trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa (Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại
Dương). Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường từ các nước Châu Á - Thái Bình
Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với xuất khẩu của Việt
Nam. Nếu năm 1991, châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng số kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam, thì năm 1994 tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tới 4,48%.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang châu Úc hay
Châu Đại Dương - mà đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm 1991, thị trường này mới chiếm tỷ

trọng 0,96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997 đã
tăng lên 2,7%(xem biểu 2).
Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã
củng cố và mở rộng thị trường Liên minh châu Âu (EU), bắt đầu đi vào thị trường Bắc
Mỹ, Trung cận Đông và Châu Phi. Mặt khác, Việt Nam không chỉ phát triển và mở rộng
4

Nguồn do vụ Kế hoạch - Thống kê Bộ thương mại tổng hợp biên soạn Hà Nội Tháng
12/1997.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thị trường sang các nước đang phát triển mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới toàn
bộ các nước công nghiệp phát triển, các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và
có mật độ cạnh trạnh cao. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch ngay
trong nhóm các nước công nghiệp phát triển. Năm 1995, thị trường các nước G7, (7
nước công nghiệp phát triển) chiếm tỷ trọng 39,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam,
riêng Nhật Bản chiếm tỷ tọng 26,8%, các nước còn lại chiếm 13,0%. Đến năm 1997,
Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 19,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam,
6 nước G7 còn lại chiếm 14,1%.
Những kết quả trên là rất quan trọng, nó tạo đà cho sự phát triển mở rộng thị trường xuất
khẩu của Việt Nam những năm tiếp theo. Tuy nhiên, cần thấy rằng đối với các cơ quan
điều hành vĩ mô, công tác tổ chức các biện pháp xúc tiến thương mại - chủ yếu là
khuếch trương xuất khẩu - thời gian qua còn yếu kém, phân tán, chưa có tác động thúc
đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bốn là: Khi tham gia hội nhập thì đòi hỏi cần thận trọng trong việc điều chỉnh và gia
quyết định các chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách thương mại nói
riêng.
Trong quá trình lựa chọn phải có quyết tâm và nhất trí cao trong nội bộ trên nguyên tắc
tôn trọng lợi ích toàn cục, lâu dài, thậm chí có thể phải hy sinh một số lợi ích trước mắt, cục bộ

của một số ngành địa phương hay doanh nghiệp.
Ví dụ: Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các diễn đàn kinh tế,... đòi hỏi Việt
Nam trong chính sách thương mại quốc tế của mình phải có sự điều chỉnh, giảm bảo trợ,
bỏ độc quyền sẽ dẫn tới giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước hoặc trong
chừng mực nào đó giảm thu ngân sách...
Trong xu thế nền kinh tế thị trường, từng bước hội nhập vào tự do hoá thương mại thế
giới, cần khẳng định Việt Nam là một quốc gia không lấy chính sách bảo hộ mậu dịch
làm chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, là thành viên mới có trình độ phát triển
thấp hơn các thành viên ASEAN khác, việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan theo yêu cầu của AFTA, APEC và tương lai không xa là của WTO, sẽ đặt các
ngành sản xuất nội địa trước sức ép ghê gớm của luồng hàng nhập khẩu:
Ví dụ: Nếu thị trường Việt Nam mở cửa ồ ạt cho hàng Trung Quốc vào thì chắc chắn sẽ
gây phương hại cho nền công nghiệp trong nước,..

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chính vì vậy, đòi hỏi phải có những biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý. Ở
đây, sự bảo hộ sẽ phải được quan niệm như là sự bảo hộ tích cực trong điều kiện tự do
hoá thương mại. Nó khác hoàn toàn với sự bảo hộ mậu dịch trong nền kinh tế hướng nội
khép kín.
III.2/ Tác động tới chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam:
Trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới, toàn nhân loại đang chứng kiến xu hướng Quốc tế
hoá nền kinh tế thế giới ngày một diễn ra sâu sắc và nhanh chóng hơn. Không những
thế, chúng ta còn chứng kiến sự vươn lên của nền kinh tế các nước, sự lớn mạnh không
ngừng của các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế. Đặc biệt là sự phát triển của vòng
cung Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong bối cảnh này, chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói chung và chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng đã chịu những tác động không nhỏ:
Một là: Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao chính thức với 156 nước; quan hệ
buôn bán với hơn 100 nước, vùng lãnh thổ; có hơn 700 công ty của hơn 50 nước, vùng

lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam...
Vị thế của Việt Nam trên thương trường quốc tế đang được củng cố, phát triển và ngày
càng có thêm nhiều quốc gia hiểu biết, muốn làm ăn với Việt Nam. Hơn nữa, khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động nhất - nơi được coi là
trung tâm kinh tế thế giới vào đầu thế kỷ XXI - cũng đã có diễn đàn hợp tác phát triển
APEC. Các nước Đông Nam Á đang cố gắng mở rộng phạm vi hoạt động và vai trò kinh
tế của tổ chức ASEAN. Năm 1996, tại Băng Cốc đã diễn ra cuộc gặp gỡ thượng đỉnh
của 15 nước EU với 10 nước Châu Á nhằm đẩy mạnh hợp tác Á- Âu,...Những điều kiện
trên đây đã đưa khu vực Châu Á trở thành nơi có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Theo báo cáo mới nhất của Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát
triển (UNCTAD) trong 12 tháng năm 1998 Châu Á nhận được 87 tỷ USD vốn FDI...
Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, khu vực có
sức hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đang là tiêu điểm hấp dẫn mạnh các nhà
đầu tư nước ngoài. Các cường quốc công nghiệp muốn chọn Việt Nam làm đầu cầu để
hợp tác và đầu tư với các nước trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Có thể nói Việt
Nam đang được hưởng những lợi thế khách quan đặc biệt to lớn trong việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Khi Việt Nam nằm trong ý đồ chiến lược của các nhà đầu tư, nhất là
các nước đầu tư thì đó là một cơ hội lớn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thực tế cho thấy từ khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1987 thì lượng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng gia tăng (Tuy nhiên từ năm 1996 trở
lại đây có xu hướng giảm ảnh hưởng chung).
Nhưng để tận dụng được mọi cơ hội thuận lợi như trên đòi hỏi chính sách đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam cần có những thay đổi để tạo thêm sức hấp dẫn. Có như vậy thì trong
tương lai, Việt Nam mới thực sự là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Hai là:Việc Việt Nam ra nhập ASEAN, cùng xây dựng AFTA thống nhất vào năm 2006
và là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào
ngày 14/11/1998 khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán: Nếu môi trường
đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn thì có thể đầu tư vào các nước thành viên khác của

ASEAN - vốn có môi trường đầu tư tốt hơn- hoặc mở rộng quy mô, năng lực sản xuất
tại các cơ sở hiện có của họ ở các nước này sau đó thâm nhập vào thị trường Việt Nam
bằng con đường thương mại bởi hàng rào thuế quan của các nước thành viên trong khu
vực đã được cắt giảm.
Một yêu cầu đòi hỏi đặt ra đối với Việt Nam phải có những sửa đổi cải cách lại môi
trường đầu tư của nước mình để nhằm tạo điều kiện hấp dẫn, thuận lợi cho các nhà đầu
tư nước ngoài khi chọn đầu tư vào Việt Nam bằng cách phát huy những thuận lợi và
khắc phục những khó khăn đối với các nhà đầu tư. Chẳng hạn như khi đánh giá môi
trường đầu tư của Việt Nam, các nhà đầu tư có nhận xét sau:
- So với các nước trong khu vực, thuế lợi tức và giá nhân công của Việt Nam thấp đồng
thời cường độ lao động và kỹ năng lao động của công nhân Việt Nam cũng thấp, giá
thuê dịch vụ văn phòng và chi phí đền bù giải toả mặt bằng lớn.
- Còn có quá nhiều lệ phí (Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 200 loại lệ phí
đang được thực hiện ở Việt Nam) gây ra cho các nhà đầu tư có cảm tưởng phải đóng quá
nhiều thuế.
- Thủ tục triển khai dự án phức tạp, kéo dài, nhất là khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng,
xét duyệt và sửa chữa thiết kế, thủ tục hải quan,...
- Chính sách hai giá trong dịch vụ khách sạn, cước phí điện thoại, giá điện nước,...đối
với người nước ngoài và người Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy
bị đối xử không công bằng...

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hơn thế nữa, các nước trong khu vực đều đang tìm cách khắc phục khủng hoảng kinh tế
vừa qua cho nên họ rất cần vốn đầu tư, vốn hỗ trợ từ bên ngoài để nhằm khắc phục nền
kinh tế của nước mình. Chính vì vậy, những quốc gia này sẽ có những điều chỉnh nhằm
tạo cho môi trường đầu tư của nước mình có sức hấp dẫn cao. Hơn nữa, chúng ta đều
biết dòng vốn đầu tư nước ngoài rất nhạy cảm với các chính sách cũng như môi trường
đầu tư của mọi quốc gia nó sẽ chảy vào khu vực có nhiều lợi nhất.
III.3/ Một số gợi ý trong việc hoạch định chính sách thương mại và

đầu tư quốc tế trong tình hình mới hiện nay.
Ở mỗi giai đoạn phát triển, đất nước lại đứng trước một bối cảnh trong nước và quốc tế
khác nhau, nhưng có thể nói chưa bao giờ chúng ta có được thời cơ quốc tế thuận lợi
như bây giờ. Vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào chính chúng ta, phải chớp lấy thời cơ và
tranh thủ nguồn lực to lớn bên ngoài để thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội nói chung, phát triển quan hệ thương và đầu tư quốc tế nói riêng.
III.3.1/ Thuận lợi và khó khăn - cơ hội và thách thức:
Những thuận lợi khi Việt Nam tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá:
- Trước hết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế hay khu vực sẽ giúp cho Việt Nam
nâng cao được vị trí quốc tế và tạo thế đứng chắc hơn trong quan hệ chính trị ( từ đó tạo
điều kiện cho phát triển thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế ) do tạo được những mối
quan hệ đa dạng, đan xen, phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở đó bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia
trong đó có lợi ích kinh tế.
- Trong thương mại quốc tế, có thể ngăn ngừa được tình trạng cô lập, phân biệt đối sử
hay bị chèn ép
Ví dụ: Có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đa biên để hạn chế sự chèn ép của
các nước lớn trong quan hệ song biên.
- Tận dụng được những đối xử ưu đãi dành cho các nước chậm phát triển hoặc đang phát
triển hoặc có nền kinh tế đang chuyển đổi về mức độ cam kết mở cửa và thời hạn cam
kết thực hiện để vừa xây dựng lộ trình hội nhập cos hiệu quả, vừa bảo hộ hợp lý, có thời
hạn và phát triển vững chắc các ngành sản xuất của Việt Nam.
- Tăng sức thu hút đầu tư do chính sách dần dần được điều chỉnh theo các chuẩn mực
của các tổ chức kinh tế quốc tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng và bình đẳng, tranh
thủ được sự hỗ trợ của các chính phủ và các định chế Tài chính quốc tế, củng cố được
lòng tin của giới kinh doanh quốc tế.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bên cạnh những thuận lợi đó, trong quá trình xây dựng chính sách và lộ trình tham gia
xu hướng quốc tế hoá - khu vực hoá, chúng ta đang phải đối mặt với không ít những khó
khăn và thách thức:

- Tuy những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ song do trình độ phát triển kinh tế của chúng ta có xuất phát điểm thấp, đặc biệt
là sức cạnh tranh của các ngành sản xuất, dịch vụ của các doanh nghiệp còn yếu kém do
quen được bảo hộ trong một thời gian quá dài trong khi các đối thủ cạnh tranh quốc tế
có đầy đủ các thế mạnh về kỹ thuật, công nghệ, tài chính, quản lý, kinh nghiệm kinh
doanh - tiếp thị,...Bên cạnh đó, ta lại bắt đầu tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế
sau nhiều nước trong khu vực và thế giới (GATT, WTO: đã hoạt động trên 1/2 thế kỷ;
ASEAN trên 30 năm, APEC từ năm 1989), do đó ta đang phải cố gắng hết mình để theo
kịp tiến độ chung trong quá trình tự do hoá với quy mô rộng hơn và mức độ sâu hơn.
- Các cơ chế mang tính chất kinh tế thị trường của ta còn trong giai đoạn đang được hình
thành, nói cách khác là còn sơ khai, chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh.
Còn nhiều luật lệ (Đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài) và chính sách,
biện pháp mở cửa còn thiếu hoặc chưa phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế, còn
mang nặng tính bảo hộ, phân biệt đối xử.
-Hiểu biết về xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá còn nhiều hạn chế, công tác chuẩn bị
còn coi nhẹ, nhận thức về tầm quan trọng cũng như những yêu cầu, nội dung của quá
trình tham gia còn chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, cơ quan. Đặc biệt giới kinh doanh
hầu như còn đứng ngoài cuộc, chưa sẵn sàng tham gia trong khi đó các tổ chức đều xác
định khu vực doanh nghiệp chính là đối tượng, động lực của quá trình tham gia xu
hướng quốc tế hoá, khu vực hoá. Đội ngũ làm công tác này còn thiếu về số lượng, yếu
về trình độ, nghiệp vụ, khả năng xây dựng chính sách cũng như trình độ ngoại ngữ, đặc
biệt chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán trong các hoạt động đa phương.
III.3.2/ Một số gợi ý và giải pháp cho Việt Nam trong việc hoạch định
chính sách thương mại và đầu tư quốc tế trong tình hình hiện nay:
Chính sách thương mại và đầu tư quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi
quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Thực tế của thế giươí cho thấy xu
hướng tự do hoá thương mại và đầu tư là một xu hướng tất yếu mà mọi quốc gia phải
tính tới trong quá trình hoạch định chính sách của mình. Việt Nam cũng đã nhận thức
được xu hướng phát triển khách quan đó. Vấn đề là làm thế nào có thể áp dụng có kết


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×