Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Th c tr ng s c c nh tranh h ng may m c c a c ng ty Hanoisimex tr n th tr ng EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 99 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn,
đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho
tất cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng
góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin
quý khách gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty Hanoisimex trên thị trường EU

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đến
nay đã được hơn 15 năm. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu về phát triển kinh tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu. Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất
khẩu một vài loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn và một
số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, chủng loại hàng hoá xuất khẩu tới nay đã đa
dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào hàng thứ
hai, thứ ba trên thế giới như gạo và cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường
xuất khẩu cũng có những thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng đã qua chế biến tăng khá
nhanh, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng hơn. Đặc biệt, trong nhiều năm
liền, xuất khẩu trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Tuy đạt được những thành tựu nổi bật nhưng cho đến nay xuất khẩu của Việt Nam vẫn
còn khá nhỏ bé so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân chính là sức cạnh tranh
của hàng xuất khẩu Việt Nam còn yếu, chưa tạo được niềm tin đối với khách hàng, thị
trường không ổn định (trừ một số mặt hàng chủ lực), chất lượng không cao, giá cả thấp.
Công ty dệt may Hà Nội là một trong những công ty đầu đàn của Tổng công ty dệt may
Việt Nam, được thành lập từ năm 1978 có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh xuất khẩu
hàng dệt may. Đến nay, Công ty đã hoạt động được hơn hai chục năm và trong khoảng
thời gian này công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu. Tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu ngày càng đa dạng và phong phú, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng, công ty


đã có quan hệ bạn hàng với hơn hai chục nước, trong đó chủ yếu là EU, Nhật Bản.
Tuy nhiên, cũng giống như các doanh nghiệp Việt Nam khác, hoạt động xuất khẩu của
công ty có một vấn đề nổi cộm đó là sức cạnh tranh các mặt hàng kém, nhất là trên thị
trường EU- thị trường chính của công ty. Từ thực tế này, sau một thời gian thực tập ở
công ty Hanoisimex, em đã quyết định lựa chọn đề tài: Một số giải pháp nâng cao sức
cạnh tranh của công ty Dệt may Hà Nội trên thị trường may mặc EU.
Mục đích nghiên cứu: Luận giải cơ sở của sức cạnh tranh, phân tích sức cạnh tranh của
hàng hoá trên thị trường EU của công ty, đánh giá tồn tại và đề ra một số giải pháp để
nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU trong thời gian
tới. Qua đó, đề xuất mốt số ý kiến để công ty có thể tham khảo trong quá trình hoạt
động.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Phương pháp nghiên cứu: Để có thể thu thập thông tin làm cơ sở đưa ra những giải
pháp, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp đọc tài liệu,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh doanh, phương pháp dự báo.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu về thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc
cuả Công ty Hanosimex trên thị trường EU trong thời gian qua và một số giải pháp
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường may mặc EU trong thời gian
tới.
Nội dung của chuyên đề gồm có ba phần chính sau:
Chương I: Lý luận về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng
may mặc Việt Nam trên thị trường EU.
Chương II: Thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty Hanoisimex trên thị
trường EU.
Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng dệt may xuất khẩu
của công ty Hanoisimex vào thị trường EU.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG MAY MẶC VIỆT NAM TRÊN THỊ
TRƯỜNG EU.

I. CẠNH TRANH VÀ CÁC HÌNH THỨC CẠNH TRANH.
Các doanh nghiệp hiện nay không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình trong phạm vi một quốc gia mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường
nước ngoài. Vì những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và
động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động thương mại quốc
tế, có thể là để mở rộng khả năng cung ứng hay tiêu thụ hàng hoá, để tìm kiếm các
nguồn lực ở nước ngoài, để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tất cả đều
nhằm mục đích là tối đa hoá lợi nhuận và ổn định lợi nhuận. Vì vậy, sự thành công hay
thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào nguồn lực ở nước ngoài,
vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan trọng là khả năng cạnh tranh
với các đối thủ quốc tế.
Hoạt động kinh doanh quốc tế hiện nay bao gồm thương mại hàng hoá hữu hình,
thương mại hàng hoá vô hình, hoạt động gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước
ngoài gia công, hoạt động tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ. Tuỳ theo
đặc điểm, tính chất từng loại hình kinh doanh quốc tế mà các doanh nghiệp đưa ra
những cách thức nghiên cứu, phân tích và đánh giá chính xác mọi thông tin phục vụ cho
việc xây dựng một chiến lược cạnh tranh thích hợp, trước hết là việc xác định chính xác
hình thức và chiến lược cạnh tranh tối ưu cho doanh nghiệp của mình.
1. Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để
đơn giản hoá, có thể hiểu cạnh tranh là một sự ganh đua giữa một (hoặc một nhóm)
người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của những người tham
gia còn lại.
Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh thường được sử dụng rất nhiều, tuy nhiên cho đén

nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất, cụ thể và rão ràng. Theo Karl Maxr thì
"Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm đạt được
những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />siêu ngạch". Ở đây, tác giả chỉ đề cập đến cạnh tranh trong một không gian bó hẹp, đó
là xã hội tư bản chủ nghĩa, là chế độ chiếm hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ tư bản sinh
ra cạnh tranh, cạnh tranh được nhìn nhận là " cá lớn nuốt các bé", cạnh tranh là lấn át
lẫn nhau, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Như vậy cạnh tranh được nhìn nhận dưới góc độ
tiêu cực.
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh
không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là yếu tố quan trọng
làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm
đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trong
việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên
thị trường. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy "Marathon kinh tế" nhưng không có
đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích thị người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ
cạnh tranh khác vượt lên phía trước.
2. Phân loại cạnh tranh.
2.1. Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường:
Các nhà kinh tế học thường phân loại thị trường thành:
2.1.1. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo :
Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất và bán
ra một loại hàng hoá, dịch vụ giống hệt nhau và với số lượng của từng doanh nghiệp
qúa nhỏ so với tổng số hàng hoá có trên thị trường.
Thị trường này có một số đặc điểm : Có rất nhiều người sản xuất và bán hàng
hoá giống hệt nhau, song không ai có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm để
có thể làm thay đổi giá cả. Người bán có thể bán toàn bộ hàng hoá của mình với giá thị
trường. Như vậy họ phải chấp nhận giá thị trường có sẵn và dù họ có tăng giảm lượng

hàng hoá bán ra thì cũng không có tác động gì đến giá cả thị trường. Không có trở lực
gì quan trọng ảnh hưởng đến việc gia nhập vào một thị trường hàng hoá, nói cách khác
là không có sự cấm đoán do luật lệ quy định hoặc do tính chất của sản phẩm đòi hỏi
phải có trình độ kỹ thuật cao, mức đầu tư quá lớn. Theo thị trường này mỗi doanh
nghiệp chỉ là một phần tử trong tổng thể vì vậy các quyết định của doanh nghiệp không
ảnh hưởng đến thị trường. Mặt khác việc định giá của doanh nghiệp không cách nào
khác hơn là phải tự thích ứng với giá cả hiện có trên thị trường. Muốn có lãi doanh
nghiệp phải giảm thấp chi phí sản xuất.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ có tác dụng thúc đảy các doanh nghiệp không

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />ngừng cải tiến cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng nhưng đồng
thời phải tìm cách giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất có thể để phục vụ người
tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất với giá rẻ nhất. Khi đó doanh nghiệp mới có khả
năng tồn tại được trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên trong điều kiện kinh
tế thế giới hiện nay rất khó tìm thấy hình thái này.
2.1.2. Cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh bình thường vì nó
phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không
đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia làm nhiều thứ loại, nhiều chất lượng...Sản phẩm
tương tự có thể được bán với nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình
ảnh hay uy tín khác nhau. Mặc dù, sự khác biệt giữa các sản phẩm không đáng kể (sự
khác biệt mang ý nghĩa quan niệm, tâm lý là chính): các điều kiện mua bán hàng hoá
cũng là khác nhau. Người bán có thể có uy tín độc đáo riêng biệt đối với người mua do
nhiều lý do khác nhau: khách hàng quen, gây được lòng tin...hay các cách thức quảng
cáo cũng có thể ảnh hưởng tới người mua, làm người mua thích mua của một nhà cung
ứng này hơn của một nhà cung ứng khác.
Đường cầu của thị trường là đường không co dãn. Việc mua và bán sản phẩm
được thực hiện trong bầu không khí có tính chất giao thương rất lớn, điều này khác hẳn

với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Người bán có thể thu hút khách hàng bởi nhiều
cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, hoặc
có nhiều điều khoản ưu đãi...Do đó, trong giá có sự phân biệt, xuất hiện hiện tượng
nhiều giá. Có thể nói giá cả nên xuấng thất thường tuỳ khu vực, tuỳ nguồn cung ứng,
tùy người mua.
2.1.3. Cạnh tranh độc quyền.
♦ Cạnh tranh độc quyền:
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao
nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nghĩa là độ co dãn của cầu là cao chứ không
phải là vô cùng.Vì những lý do khác nhau (chất lượng, hình dáng, danh tiếng...) người
tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp khác với của các doanh nghiệp khác. Do
đó một số khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm mình thích, trong ngắn
hạn khó ra nhập thị trường nhưng dài hạn thì có thể . Nhà sản xuất định giá nhưng

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />không thể tăng giá một cách bất hợp lý, về dài hạn thì không thể trở thành thị trường
độc quyền được. Cạnh tranh độc quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như
quảng cáo, phân biệt sản phẩm .
♦ Độc quyền tập đoàn:
Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác
nhau và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết toàn bộ tổng sản
lượng.Tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh nghiệp này ảnh
hưởng tới doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn đến tình trạng
phá giá do các doanh nghiệp dễ kết cấu với nhau. Nhưng vì cạnh tranh bằng giá không
có lợi do vậy người ta chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá
sản phẩm. Trong thị trường độc quyền tập đoàn, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp
đều thu hút được lợi nhuận đáng kể trong dài hạn thì có các hàng rào ra nhập làm cho
các doanh nghiệp mới không thể hoặc khó mà ra nhập thị trường. Về dài hạn có thể dẫn

đến độc quyền. Trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất cũng sử dụng nhiều hình
thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo hoặc phân biệt sản phẩm giống như trong cạnh
tranh độc quyền.
2.2. Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường:
♦ Cạnh tranh giữa người
bán và người mua :
Là cuộc cạnh tranh giữa người bán và người mua diễn ra theo quy luật mua rẻ bán
đắt trên thị trường.Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại
người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cuối cùng là giá thống nhất giữa người
mua và người bán sau một quá trình mặc cả với nhau mà theo đó hoạt động mua bán
được thực hiện.
♦ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau :
Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại hàng
hoá, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những
người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng do
hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫnsẵn sàng trả giá cao cho hàng hoá mình cần. Kết
qủa là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua thì bị thiệt. Đây là cuộc cạnh
tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt còn những người bán được lợi .
♦ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau :
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị
trường.Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển càng có nhiều người bán
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />dẫn đến cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên nhiều phương diện và nhiều hình thức đa
dạng khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật một mặt tác động đến
các nhà sản xuất, một mặt làm thay đổi nhu cầu của người mua, do đó nó dần làm biến
đổi vị trí của các yếu tố cạnh tranh. Một cách chung nhất cạnh tranh là sự ganh đua ở
các giác độ : chât lượng, giá cả, nghệ thuật tổ chức tiêu thụ và thời gian. Giá là yếu tố
thứ nhất của cạnh tranh, đây là hình thức cạnh tranh được sử dụng nhiều nhất. Khi nhu
cầu con người phát triển cao hơn thì yếu tố chất lượng sản phẩm chiếm vị trí chính yếu.

Đến nay vào những năm cuối của thế kỷ 21 thì với các doanh nghiệp lớn họ có với nhau
sự cân bằng về giá cả thì yếu tố thời gian và tổ chức tiêu thụ sản phẩm là quan trọng
nhất.
3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.1. Cạnh tranh bằng giá cả.
Theo lý thuyết về cung cầu, giá cả được hình thành bởi sự gặp gỡ của cung và
cầu, nhưng doanh nghiệp hoàn toàn có thể định giá cho sản phẩm của mình tuỳ theo
mục đích kinh doanh cụ thể, chỉ cần mức giá đó bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi.
Do vậy, doanh nghiệp thường chọn giá cả làm công cụ cạnh tranh của mình. Trong kinh
doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng- để giành được phần thắng trong cuộc
chạy đua kinh tế thì các doanh nghiệp thường đưa ra một mức giá thấp hơn giá của các
đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ nhiều hơn hàng hoá và
dich vụ. Các đối thủ cũng hoàn toàn có thể phản ứng lại bằng cách hạ giá thấp hơn.
Phương thức cạnh tranh này khi đã trở nên gay gắt thì nó sẽ biến thành cuộc chiến tranh
về giá cả giữa các doanh nghiệp.
3.2. Cạnh tranh bằng chất lượng.
Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh tranh
bằng giá xem ra không có hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ là mối quan
tâm của khách hàng, nên nếu như hàng hoá có chất lượng thấp thì dù có bán giá rẻ cũng
không tiêu thụ được. Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng hàng hoá và dịch vụ, doanh
nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chất
lượng được thể hiện qua nhiều yếu tố của sản phẩm, nếu doanh nghiệp không đủ điều
kiện phát triển mọi yếu tố chất lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc
một vài yếu tố nào đó.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật cũng như sự bành

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />trướng của các công ty đa quốc gia, thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng trở nên gay
gắt khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất lượng cao. Chính vì vậy, đối

với các quốc gia có trình độ sản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất khó có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
3.3. Cạnh tranh bằng dịch vụ.
Ngoài phương thức cạnh tranh bằng giá cả, cạnh tranh chất lượng thì trên thực tế
các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau bằng dịch vụ. Đây là phương thức cạnh tranh
hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế- đó có thể là dịch vụ trước khi bán hàng, dịch
vụ bán hàng tận nơi cho khách, dịch vụ sau khi bán hàng. Các phương thức dịch vụ
ngày càng được sử dụng rộng rãi và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng
dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì
khi đó khách hàng thấy mình được tôn trọng hơn và do đó họ sẽ có cảm tình với sản
phẩm và doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương thức kết hợp hoặc biến tấu
dựa trên các phương thức cơ bản. Các phương thức về marketing (chiêu hàng, tiếp thị,
quảng cáo, nghiên cứu và phân tích thị trường) cũng được sử dụng như một công cụ
cạnh tranh, bởi nó ảnh hưởng lớn tới hiệu quả việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường của
doanh nghiệp.
4. Mô hình cạnh tranh của M. Porter.
Theo quan điểm của M.Porter, các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của
hàng hoá có thể tổng hợp 5 nhóm nhân tố cơ bản và được coi là 5 sức mạnh tác động
đến sức cạnh tranh của nó trên thị trường .
Hình 1: Mô hình năm nhân tố cạnh tranh của M.Porter
Những đối thủ
tiềm tàng.

Người cung
cấp.

Các đối thủ cạnh
tranh trong nội bộ
ngành.


Người mua.

Các sản phẩm
thế. trong nội bộ ngành.
4.1. Sự đe doạ của những đối thủthay
cạnh tranh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối thủ
cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu doanh
nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các
đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng kể, mọi cuộc
cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn hại cho các bên.
Bàn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất ta thường nói
tới những nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và
các hàng rào lối ra.
+ Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản phẩm của
doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh thay đổi từ ngành sản xuất phân
tán tới ngành sản xuất tập trung. Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập
trung là rất khó phân tích và dự đoán.
+ Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh liệt trong
cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn
để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh
nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh.
+ Hàng rào lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành giảm mạnh.
Đó là kinh tế, chiến lược và là quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Nếu hàng rào
lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa
thích.

Hàng rào lối ra thường bao gồm: Đầu tư nhà xưởng và thiết bị, chi phí trực tiếp
cho việc rời bỏ ngành là cao, quan hệ chiến lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh,
hay đó là chi phí xã hội khi thay đổi như khó khăn về sự sa thải nhân công, chi phí đào
tạo lại.
Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính
xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối thủ chính để xây dựng cho
mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung.
4.2. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh
trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết
định gia nhập ngành. Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp
hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra nhập ngành vì càng nhiều doanh
nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Với sự mong
muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó các đối thủ mới có thể làm giá bán bị kéo xuống

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hoặc chi phí của các công ty đi trước có thể bị tăng lên và kết quả làm giảm mức lợi
nhuận. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường
kiểu đó có lẽ cần được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào
hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài hoặc sự phản ứng khôn khéo của các
doanh nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt mối hiểm hoạ hoặc do doanh nghiệp mới
xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu được xác định là:
+ Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có thể đó là ưu thế về các sáng chế, việc làm
chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân lực chuyên nghiệp, làm chủ
được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh nghiệm cho phép có được các chi phí thấp
hơn.
+ Hoặc đó có thể là lợi thế về chi phí cố định vì các đối thủ cạnh tranh hiện tại
thường có những lợi thế chi phí mà các đối thủ mới không thể nào có được, lợi thế này
không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp như: Bản quyền về công nghệ và sản phẩm,

lợi thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh nghiệm và kĩ
năng trong sản xuất.
+ Ngoài ra có thể kể đến những loại chi phí khác như chi phí đặt cọc, tiền cược. Đây
là một khoản tiền lúc đầu buộc khách hàng mua sản phẩm của một doanh nghiệp lúc đầu
phải trả nếu họ không mua sản phẩm của ngành đó nữa và chuyển sang mua sản phẩm
của một doanh nghiệp khác hay là chi phí phạt do thay đổi hãng hợp đồng tiêu thụ hoặc
cung cấp vật tư. Hầu hết các khách hàng đều phải thực hiện việc bồi thường trừ phi các
nhà cung cấp mới những cải tiến có lợi về chi phí và thực hiện.
+ Sự khác biệt hoá của sản phẩm khiến cho khách hàng trung thành với nhãn hiệu sản
phẩm của các doanh nghiệp có vị thế uy tín vững vàng hoặc đã đứng vững.Thường các
doanh nghiệp này có ưu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về dịch vụ hậu mãi
hoặc về khả năng chuyên biệt hoá sản phẩm... Sự trung thành với nhãn hiệu là nguồn
rào cản khiến cho các doanh nghiệp mới tham gia khó lòng giành giật thị phần trên
thương trường. Các doanh nghiệp có tiềm năng hẳn phải tốn kém rất nhiều để bẻ gãy
lòng ưu ái đã được củng cố của khách hàng với các nhãn hiệu đã có uy tín trước đó.
+ Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất, phân
phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cưú sẽ giảm bớt với sự gia tăng của số lượng bán.
Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi phí cho một đơn vị sản
phẩm càng giảm đi.
+ Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại cũng là
một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường. Để tham gia
vào mạng lưới phân phối đã được thiết lập các doanh nghiệp mới thông thường phải
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />chia sẻ các chi phí quảng cáo hoặc hỗ trợ bán hàng. Mọi chi phí này sẽ làm giảm lợi
nhuận của các đối thủ mới; Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh hiện tại có thể giữ chặt
các các kênh phân phối dựa trên cơ sở các mối quan hệ lâu dài, chất lượng phục vụ
cao ... Như vậy buộc doanh nghiệp mới phải tạo ra một mạng lưới phân phối mới và đó
là một cản trở đáng kể.
+ Phản ứng lại của các doanh nghiệp hiện tại trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu việc phản

ứng lại tích cực và khôn khéo một lối vào trong lĩnh vực đó là có thể được. Nhưng nếu
phản ứng lại bằng một cuộc chiến tranh giá cả thì cái giá phải trả là quá đắt để nhập
ngành bởi các đối thủ cạnh tranh hiện tại phản ứng quyết liệt, liên kết lại với nhau để
đối phó.
4.3. Khách hàng (người mua).
Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi
trường cạnh tranh.Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương quan về
thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi.Các doanh nghiệp cần phải làm chủ
mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách hàng để giữ khách hàng
(thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng).
Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép
giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn.
Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc daonh
nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Ngược lại khi
người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội để tăng giá kiếm
được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân
phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp.
Áp lực của họ thường được
thể hiện trong những trường hợp sau:
+ Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp .Trong khi đó người
mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp.
+ Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và sử
dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý.
+ Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu hướng khép kín
sản xuất, tự sản xuất , gia công các bộ phận chi tiết, bán sản phẩm cho mình.
+ Khách hàng có đầu đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các nhà
cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn.
+ Để nâng cao khả năng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức
ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất lượng sản
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.
4.4. Người cung ứng.
Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn, lao động
đôi khi gây đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng các
sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ
thường gây sức ép trong những tình huống như:
- Họ độc quyền cung cấp vật tư.
- Khi các vật tư dược cung cấp không có khả năng thay thế
- Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế đã kí kết.
- Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
- Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Vì vậy, doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và đưa ra
các biện pháp rõ ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt các ràng buộc họ có thể gây nên
với mình.
4.5. Sản phẩm thay thế.
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động
của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao cấp hơn,
và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong ngành
kinh doanh đó có các các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực
nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trong một
ngành hàng có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm
thay thế, thế lực và của khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ chật vật và lợi nhuận thấp. Các nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ
được các thế lực trong môi trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi
nhất cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhận xét về mô hình M.Porter: Đây là mô hình được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý

vận dụng để phân tích khả năng cạnh tranh của một công ty hoặc một ngành công
nghiệp. Qua đó, các nhà quản lý có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của công ty
trên thị trường, khả năng của ngành mà công ty đang tham gia cũng như khả năng của
công ty hay ngành của một thị trường nào đó mà công ty muốn thâm nhập. Công ty có
thể dùng mô hình cạnh tranh của M.Porter để xác định và đánh giá "hàng rào" ngăn cản

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />sự thâm nhập của công ty đồng thời phân tích đánh được đối thủ cạnh tranh khi công ty
thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh đó, công ty cũng có thể dự đoán những yếu tố ảnh
hưởng tới lực lượng cạnh tranh, từ đó đề ra những đối sách phù hợp với thế cân bằng
cạnh tranh mới.
II. SỨC CẠNH TRANH VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC CẠNH TRANH
1. Khái niệm sức cạnh tranh.
Ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt, một doanh
nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường thì phải có tiềm lực đủ mạnh và sử
dụng các nguồn lực đang có hiệu quả để có thể cạnh tranh được trên thị trường, đó
chính là sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường và tiếp tục phát
triển bền vững, thực hiện được các mục tiêu đề ra.
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
Để đánh giá sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, ta phải xem xét các chỉ
tiêu biểu hiện khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, cụ thể:
2.1. Các chỉ tiêu định lượng.
2.1.1 Thị phần của doanh nghiệp:
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh tranh của mặt hàng
này so với mặt hàng khác. Trong đó thị phần là chỉ tiêu hay được dùng đẻ đánh giá
nhất. Thị phần là phần trăm thị trường mà một mặt hàng chiếm lĩnh được. Thị phần
được xác định bởi công thức:


Thị phần của doanh nghiệp
=

Doanh thu tiêu thụ hàng hoá của doanh
nghiêp
Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trường

.100%

Độ lớn của chỉ tiêu này chỉ nói nên mức độ lớn của thị trường và vai trò, vị trí của
doanh nghiệp nếu một mặt hàng có được thị phần đáng kể hoặc tốc độ tăng trưởng thị
phần cao tức là mặt hàng đó đáp ứng được yêu cầu của một số lượng khách hàng. Điều
đó chứng tỏ mặt hàng đó có sức cạnh tranh cao, tiềm năng cạnh tranh lớn. Một mặt
hàng có thị phần nhỏ hay thị phần giảm sút thường là những mặt hàng có sức cạnh tranh
kém, do đó ta phải xem xét hoặc là cải tiến mặt hàng để nâng cao sức tiêu thụ hoặc là
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />cải tiến lại măt hàng đế nâng cao sức tiêu thụ hoặc là dừng sản xuất.
Khi xem xét người ta hay xem xét các thị phần sau:
+ Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đây là tỷ lệ phần trăm doanh số
của công ty so với doanh số của toàn ngành. Trên thị trường thế giới nói chung thường
có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một mặt hàng. Những hãng
lớn thường có thị phần lớn hơn và ngược lại. Thị phần cho ta biết khả năng chấp nhận
của thị trường với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh thế nào. Thị phần
lớn hơn chứng tỏ nó được khách hàng ưa chuộng và đánh giá cao hơn, điều đó có nghĩa
là nó có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khách hàng.
+ Thị phần của công ty so với đoạn thị trường mà nó phục vụ: Đó là tỷ lệ phần trăm giữa
doanh số của công ty so với doanh thu của toàn khúc thị trường.
Do các nguồn lực có hạn và nhu cầu của khách hàng thì hết sức đa dạng, nhu cầu của

người này thì không giống nhu cầu của người kia và nhu cầu của nhóm khách hàng ở các
quốc gia khác nhau cũng thường không giống nhau. Do các đặc điểm văn hoá, thói quen
tiêu dùng. Nên để có thể kinh doanh thành công các doanh nghiệp thường phải xác định
cho mình một thị trường mục tiêu phù hợp với tiềm lực của chính mình.Trên thị trường
mục tiêu của doanh nghiệp đôi khi cũng có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, thị phần của
công ty so với phần khúc mà nó phục vụ cũng phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm
công ty so với đối thủ cạnh tranh. Nếu thị phần của công ty lớn hơn chứng tỏ sản phẩm
của công ty được khách hàng chấp nhận, được ưa thích so với đối thủ cạnh tranh.
+ Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của công ty với đối thủ cạnh
tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như
thế nào.
2.1.2. Doanh thu tiêu thụ của mặt hàng.
Đây cũng là một chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của một mặt hàng. Một măt
hàng được coi là tiêu thụ khi nó được chấp nhận thanh toán hoặc đã nhận được tiền bán
hàng. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ thể hiện mức độ đáp ứng nhu cầu hay thoả mãn lợi
ích của khách hàng về mặt đó. Một mặt hàng tiêu thụ nhanh chóng, với khối lượng lớn
đồng nghĩa với việc mặt hàng đó có chất lượng tốt, đáp ứng thị hiếu, giá thành hạ đủ
sức cạnh tranh trên thị trường. Nếu sản lượng hàng hoá tăng cao qua các năm chứng tỏ
hàng hoá duy trì và giữ vững được thị phần. Sản lượng tiêu thụ của một mặt hàng phụ
thuộc vào các nguyên nhân sau:
- Từ phía doanh nghiệp:
+ Chất lượng mặt hàng.
+ Giá bán.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+ Quá trính tổ chức tiêu thụ.
- Từ phía khách hàng khách hàng: khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhu cầu,
mức thu nhập, phong tục tập quán và thói quen của người tiêu dùng.
- Từ phía Nhà nước: Các chính sách vĩ mô của Nhà nước như chính sách về tiền lương,
thuế cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ của mặt hàng.

2.1.3. .Số lượng khách hàng của mặt hàng.
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, khách hàng
(người mua) là thượng đế, khách hàng chính là người tiêu thụ mặt hàng cho doanh
nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, bình thường. Một
mặt hàng có nhiều khách hàng tiêu thụ là một mặt hàng đã dành được sự tin cậy của thị
trường, đáp ứng được phần lớn sự đòi hỏi của từng đoạn, từng khu vực thị trường,
chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mặt hàng đó cao và ngược lại.
Nếu như chỉ tiêu thị phần chỉ cho ta biết phần trăm của khối lượng hàng hoá tiêu
thụ trên thị trường thì chỉ tiêu số lượng khách hàng cho ta biết có bao nhiêu người mua
nó. Một mặt hàng có thị phần lớn nhưng số lượng khách hàng ít chưa chắc đã là một
mặt hàng có sức cạnh tranh cao. Số lượng khách hàng tiêu thụ của một mặt hàng càng
nhiều càng thể hiện việc đáp ứng nhu cầu của mặt hàng đó càng đa dạng, phong phú
cũng như tiềm lực cạnh tranh, tiềm lực kinh doanh nơi sản xuất ra mặt hàng đó.
2.1.4. Giá thành và giá cả của sản phẩm.
Giá thành của sản phẩm là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên sản phẩm
như: nguyên vật liêu, nhân công, công nghệ sản xuất. Từ giá thành của sản phẩm, sẽ xác
định được giá bán trên thị trường. Do vậy, muốn có giá bán sản phẩm thấp thì doanh
nghiệp phải hạ giá thành sản phẩm tức là phải tận dụng và sử dụng hợp lý các nguồn lực
sẵn có như tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lực dồi dào, đồng thời đổi mới
thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý có như vậy mới hạ được giá
thành sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu
tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán để đi tới mức giá mà cả hai
bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp thì khách hàng có quyền lực chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và
cùng một loại sản phẩm thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Vì
vậy, giá cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Doanh nghiệp có thể
định giá thấp, bằng, hoặc cao hơn giá thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh,
doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách thích hợp cho từng loại sản phẩm,


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị
trường.
2.2. Các chỉ tiêu định tính.
2.2.1. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm.
Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường có thể với một sản phẩm hoặc nhiều
sản phẩm. Nếu sản phẩm và cơ cấu nó phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng
sức cạnh tranh các mặt hàng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải luôn hoàn thiện sản phẩm bằng cách nâng cao chất
lượng, cải tiến mấu mã, đồng thời doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới
nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không
chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là biện
pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi trên thị trường ngày càng khốc liệt.
Do vậy, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết
định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời cũng quyết định
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
2.2.2. Chất lượng của hàng hoá.
Khi thu nhập và đời sống của dân cư càng cao thì cạnh tranh bằng giá cả xem ra
không hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ sẽ là mối quan tâm của khách
hàng, nên nếu như hàng hóa có chất lượng thấp thì dù giá có bán rẻ cũng không tiêu thụ
được. Do đó để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ không còn cách
nào khác là phải nâng cao chất lượng của sản phẩm và dịch vụ. Chất lượng của sản
phẩm được thể hiện qua nhiều yếu tố, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện phát triển
mọi yếu tố chất lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc một vài yếu tố
nào đó.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật cũng như sự bành
trướng của các công ty đa quốc gia, thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng càngtrở nên
gay gắt khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất lượng cao. Chính vì vậy

đối với các quốc gia có trình độ xản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất khó có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
2.2.3. Các dịch vụ.
Dịch vụ cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm này so
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />với sản phẩm khác. Dịch vụ là một công cụ cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường
quốc tế, đó có thể là dịch vụ trước khi bán, dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách hàng,
dịch vụ sau bán ... Cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng được sử dụng rộng rãi và đa
dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình được tôn
trọng hơn và do đó họ sẽ có cảm tình với sản phẩm và doanh nghiệp.
2.2.4. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của
sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, thời gian giap hàng, quy mô của doanh nghiệp... Một
doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc nó có được lợi thế trong
cạnh tranh. Khách hàng khi đó sẽ tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng
cao, dịch vụ sau bán hàng tốt,... Do đó sản phẩm của doanh nghiệp khi đưa ra thị trường
có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm
được một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với
doanh nghịp hơn, như vậy đối thủ cạnh tranh sẽ phải mất đi một khoản chi phí lớn cho
việc lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp.
2.2.5. Hình ảnh nơi sản xuất mặt hàng.
Là ấn tượng, suy nghĩ của người tiêu dùngvề nơi sản xuất mặt hàng đó. Hình ảnh
đó là sự tổng hợp các thuụoc tính như: Chất lượng sản phẩm, phong cách phục vụ,
phong cách quảng cáo, uy tín nơi sản xuất,... Hình ảnh của nớỉan xuất mặt hàng có thể
là hình ảnh tốt hoặc xấu. Nhiều khi việc nhận thức hình ảnh nơi sản xuất còn phụ thuộc
vào nền văn hoá từng nước cũng như văn hoá của từng tầng lớp xã hội của quốc gia đó.
Tạo dựng hình ảnh là một quá trình lâu dài với sự nỗ lực không ngừng của doanh
nghiệp.

Ngày nay, hình ảnh nơi sản xuất còn là một công cụ cạnh tranh rất mạnh, nhiều
khi hình ảnh nơi sản xuất trở thành sự khẳng định chất lượng, giá trị của sản phẩm. Vì
vậy một mặt hàng có sức cạnh tranh cao là một mặt hàng đã để lại hình ảnh tốt ở nơi
khách hàng và để tăng cường năng lực cạnh tranh của một mặt hàng thì việc xây dựng
hình ảnh nơi sản xuất là điều hết sức cần thiết.
Hình ảnh của doanh nghiệp được xây dựng trên uy tín của doanh nghiệp đối với
khách hàng. Nếu uy tín của doanh nghiệp đảm bảo chất lượng hàng hóa và các dịch vụ
khác tốt, khách hàng sẽ tin tưởng chọn mua sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy là h

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nghiệp có lợi thế hơn trong cạnh tranh các đối thủ khác nếu muốn lôi kéo các khách
hàng này thì họ cần có thời gian chi phí. Hình ảnh của doanh nghiệp rất quan trọng
trong cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp duy trì và giữ vững thị trường, chống sự lôi kéo
khách hàng của đối thủ cạnh tranh và hình ảnh doanh nghiệp là một chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp có chất lượng và giá cả vừa
phải, thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng.
3. Các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
3.1.1.Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi
tổ chức trong tương lai. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm 3 cấp:
+ Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đâylà đội
ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh.Nếu họ có trình độ quản lý
cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có khả năng đánh giá và
quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
+ Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ trực tiếp quản lý phân xưởng sản xuất
sản phẩm đòi hỏi phải có có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định và diều hành
công tác.
+ Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phần nào

cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố như: năng suất lao động,
trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ... bởi vì
các yếu tố này chi phối việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm cũng
như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo mới lạ của sản phẩm. Chất lượng nguồn nhân lực
còn được thể hiện ở trình độ quản lý của đội ngũ quản trị của doanh nghiệp.
Trình độ tổ chức quản lý: Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ
cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là
nề nếp hoạt động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành
sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp đó sẽ tận dụng được những lợi thế
tiềm ẩn của tổ chức mình. Đây là một đòi hỏi đối vớic các nhà quản trị cấp cao. Không
thể nói doanh nghiệp có được một cấu trúc tốt nếu không có một sự nhất quán trong
cách nhìn nhận về cơ cấu doanh nghiệp.
Một cơ cấu tốt đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền
hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó ở mỗi phòng ban việc thực hiện

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tốt nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông qua quyết định của
nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện môi trường của
doanh nghiệp. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và
lôi cuốn họ vào quá trình đạt tới những mục tiêu chung của doanh nghiệp.
3.1.2 Nguồn lực về tài chính:
Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và
tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng
thanh toán...Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, khả năng huy động vốn là
lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới
công nghệ và mấy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh
liên kết.Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so

với đối thủ cạnh tranh.
3.1.3. Nguồn lực về vật
chất kỹ thuật:
Thông thường nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện ở:
+ Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công
nghệ tiên tiến.
+ Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp doanh nghiệp
tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm, hơn nữa nó
tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn,giúp doanh nghiệp hiểu rõ khách hàng
từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tránh
sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
+ Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có
quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế.
Nếu sử dụng công suất thấp sẽ gây lãng phí và lúc đó chi phí cố định vào giá thành sản
phẩm cao làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm.
Nguồn vật chất là nhân tố bên trong có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng hoá
của doanh nghiệp trên thị trường Thế giới. Bởi nếu doanh nghiệp cơ sở vật chất hiện
đại, doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động do đó mà giá thành sản phẩm sẽ hạ,
cùng với đó chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên.
3.2. Các nhân tố bên ngoài tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
Doanh nghiệp hoạt động gắn liền với môi trường kinh doanh của mình, do đó doanh
nghiệp chịu sự tác động chi phối của nhân tố thuộc môi trường kinh doanh. Có rất
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhiều nhân tố khác nhau thuộc môi trường kinh doanh tác động đến sức cạnh tranh của
hàng hoá của doanh nghiệp nhưng có một số nhân tố điển hình như môi trường kinh tế,
chính trị, pháp luật, khoa học- công nghệ, tự nhiên, văn hoá xã hội, môi trường cạnh
tranh.
3.2.1


Môi trường kinh tế.

Môi trường kinh tế của một quốc gia ổn định hay bất ổn định có tác động trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tác động đến sức
cạnh tranh hàng hoá nên có thế nói đây là nhân tố quan trọng nhất. Tính ổn định về kinh
tế, trước hét và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế
lạm phát. Đây là điều các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và ái ngại vì nó liên
quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn một số nhân tố quan trọng khác ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp như lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với một số đồng
ngoại tệ mạnh, tiền công lao động. Các nhân tố này ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh
tranh của hàng hoá doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
không mạnh.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao thì tỷ suất lợi nhuận tăng sẽ dẫn
đến số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường tăng lên nhanh chóng và cạnh
tranh sẽ trở nên gay gắt. Ngược lại, khi nền kinh tế bất ổn và suy thoái thì sức mua
người tiêu dùng giảm, những điều kiện thuận lợi của nền kinh tế không còn nữa thì các
doanh nghiệp phải tìm mọi cách để duy trì sản xuất kinh doanh, giữ khách hàng do đó
sự cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ ác liệt hơn. Do vậy, doanh nghiệp nào có khả năng
nắm bắt tình hình để có những chiến lược kinh doanh đúng đắn và tận dụng được lợi
thế của mình thì sẽ giành được thắng lợi trong cạnh tranh thị trường.
3.2.2. Môi trường chính trị.
Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh đặc
biệt là đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế định là nền tảng cho ổn định và phát
triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
trên thị trường. Một quốc gia có chính trị ổn định là môt trường thuận lợi đảm bảo sự
bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và thu được kết quả. Sự ổn định
về chính trị được biểu hiện ở chỗ: thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân
đồng tình hay không, hệ thống chính trị đặc biệt là Đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tin cậy đối với nhân dân, các doanh nghiệp trong và ngoài nước không. Chính vì vậy,
khi tham gia kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các
quốc gia, các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh.
3.2.3. Môi trường pháp luật.
Môi trường luật pháp là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trên thị trường. Luật pháp quy định rõ những lĩnh vực, những hình thức nào mà
doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh và lĩnh vực, hình thức nào mà doanh nghiệp
không được phép hoạt động. Hệ thống luật pháp nghiêm minh, chặt chẽ rõ ràng không
phức tạp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bình đẳng để nâng cao khả năng
cạnh tranh hàng hoá của mình.
Thực tế trong những năm qua chỉ ra rằng cùng với sự xuất hiện các liên minh kinh tế,
liên minh chính trị, liên minh thuế quan đã xuất hiện những thoả thuận mới song
phương hoặc đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh buôn bán trong khu
vực, quốc tế. Vì vậy, có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm vững hệ thống luật pháp
của từng quốc gia và hiệp định giữa các nước, mới cho phép các doanh nghiệp đưa ra
những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, hình
thức kinh doanh để tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro.
3.2.3. Môi trường Văn hoá- Xã hội.
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho
doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị trí địa lý thuận lợi ở những thành phố lớn, hay trên
các trục giao thông quan trọng cùng với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng sẽ tạo cơ
hội cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí, thu được nhiều lợi nhuận. Song, mức độ
cạnh tranh tại những nơi này hết sức gay gắt buộc các doanh nghiệp phải luôn nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng hoá để tồn tại và phát triển.
Phong tục, tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá tác động một cách gián
tiếp tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp thông qua khách hàng và cơ
cấu của thị trường. Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng còn ảnh hưởng rất lớn tới

nhu cầu vì nếu hàng hoá có chất lượng tốt nhưng không hợp "gu" của người tiêu dùng
thì họ cũng không chấp nhận. Ở từng khu vực thị trường, từng vùng khác nhau thì lối
sống cũng như sở thích, thị hiếu, phong tục của người dân khác nhau dẫn đến nhu cầu
của họ về các sản phẩm cũng khác nhau. Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tiếp đến các hoạt động hàng ngày của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Vì vậy,
doanh nghiệp cần am hiểu các loại tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội để giúp
cho việc kinh doanh được tiến hành thuận lợi.
3.2.4. Môi trường công nghệ
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá vì kỹ
thuật, công nghệ sản xuất quyết định chất lượng, bao bì, hình dáng và giá thành sản
phẩm. Bất kỳ sản phẩm nào sản xuất ra cũng gắn liền với một công ty nhất định do đó
uy tín của công ty phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật và công nghệ. Khoa học công nghệ
hiện đại cũng giúp các doanh nghiệp thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin một
cách chính xác và có hiệu quả, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Để cạnh tranh trong thời đại ngày nay thì doanh nghiệp không chỉ cần có đủ các nguồn
lực mà còn phải có đủ và chính xác thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh trực tiếp,
đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và biết cách xử lý thông tin có hiệu quả. Khoa học công
nghệ sẽ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân nói chung cũng
như từng doanh nghiệp nói riêng, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng
cao khă năng cạnh tranh của sản phẩm.
Nói tóm lại, có rất nhiều các nhân tố khác nhau thuộc môi trường kinh doanh tác động
đến sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp và các nhân tố này ở các quốc gia khác
nhau thì cũng khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết rõ về các
nhân tố này, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của
mình.
4. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
4.1. Vai trò của cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế

Việc khuyến khích và thúc đẩy một môi trường cạng tranh lành mạnh luôn là vấn
đề cần ưu tiên hàng đầu trong các chính sách kinh tế, thương mại của các quốc gia trên
thế giới. lý luận kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế nếu bị hạn
chế sẽ gây lãng phí rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Hạn chế cạnh tranh là
làm giảm tính năng động, sáng tạo của mỗi con người cũng như toàn xã hội, nền sản
xuất xã hội sẽ không còn có hiệu quả: Do đó, cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là
quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế người thiếu khả
năng bằng người có đầu óc, thay thế doanh nghiệp sử dụng lãng phí các nguồn lực xã
hội bằng các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn, thay thế sự đáp ứng nhu cầu xã hội

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />không đầy đủ bằng sự đáp ứng ngày một tốt hơn. Mức độ cạnh tranh là sự phản ánh rõ
rệt nhất về trình độ của nền kinh tế nói riêng và với nền kinh tế thế giới nói chung.
Cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế được định nghĩa là sự đua tranh giữa các
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế nhằm giành ưu thế trên cùng một loại khách hàng
về phía mình. Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng, cạnh tranh
giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày
càng nâng cao. Chính vì vậy cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế là động lực thúc đẩy
phát triển nền kinh tế quốc tế thế giới.
4.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, hầu hết nền kinh tế các nước đều đi theo hướng kinh tế thị trường mà
nói tới thị trường là nói tới cạnh tranh. Mặt tích cực của thị trường cũng là mặt tích cực
của cạnh tranh, mặt tiêu cực của thị trường cũng là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Ý đồ
tạo lập thị trường không có cạnh tranh đã sụp đổ hoàn toàn vì nó không tạo ra được cơ
chế phân phối tối ưu các nguồn lực của xã hội. Triệt tiêu đi cạnh tranh là mất đi tính
năng động, sáng tạo của mỗi người cũng như toàn xã hội, nền sản xuất xã hội sẽ không
còn hiệu quả, hạn chế sự phát triển của đất nước.
Từ thế kỷ 19, cạnh tranh kinh tế vẫn thường được tiến hành tập trung vào bốn trọng

điểm mà ngày nay vẫn là vấn đề thời sự. Bảo hộ mậu dịch đánh cắp công nghệ, chinh
phục lãnh thổ và chiến tranh giá cả. Cuộc cạnh tranh đa quốc gia đầu tiên thuộc về mặt
hàng bông rồi đến dầu mỏ, lương thực. Và gần đây là ô tô, điện tử và đang đi đến các
sản phẩm công nghệ cao. Điều đó cho thấy tính liên tục không ngừng của cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Lý luận kinh tế học đã chỉ rõ tình trạng ngăn sông cấm chợ, hạn chế cạnh tranh trong
một số quốc gia sẽ gây thiệt hại lớn, lãng phí các nguồn lực. Hạn chế cạnh tranh kinh tế
quốc tế, thực hiện dưới mọi chế độ hình thức khác nhau cũng sẽ gây thiệt hại to lớn,
lãng phí nhiều hơn cho nền kinh tế thế giới. Vì vậy, bất cức một quốc gia nào, một
doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường thế giới đều phải cạnh tranh và chấp nhận
cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh vì nếu làm như vậy là cầm
chắc sự phá sản. Vì thế cần phải cạnh tranh, coi cạnh tranh như là công cụ là bàn đạp để
vươn lên. Trong cơ chế thị trường và trong kinh doanh quốc tế, cạnh tranh giữ vai trò
làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá cao, dịch vụ ngày càng tốt.
Trước hết, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản
xuất, phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Chỉ có như vậy,

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />các doanh nghiệp hay các quốc gia mới có khả năng giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm. Như vậy các doanh nghiệp mới có khả năng chiến thắng để giành giật thị
trường và khách hàng. Trên thực tế, ngày nay hầu hết các công ty đa quốc gia, các
doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thế giới đều giành một phần lợi nhuận đáng
kể để hiện đại hoá công nghệ sản xuất, đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật.
Nhờ có cạnh tranh nên hàng hoá trong trao đổi quốc tế ngày càng phong phú và đa
dạng chủng loại, bao bì, mẫu mã và đặc biệt chất lượng ngày càng cao, giá thành ngày
càng hạ. Bất kỳ hàng hoá nào cũng muốn tham gia vào thị trường thế giới đều phải qua
kiểm tra chất lượng.
Chính cạnh tranh là công cụ để tước quyền thống trị kinh tế trong lịch sử. Ngày
nay, khi cạnh tranh ngày càng gay gắt thì vai trò cũng như vị thế của các công ty đa

quốc gia, các cường quốc kinh tế ngày càng giảm. Không một công ty, một doanh
nghiệp nào có thể độc lập chi phí về giá cả, số lượng hàng hoá và dịch vụ cạnh tranh
buộc tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ các luật chơi chung, giảm dần tình trạng bị
phân biệt đối xử và bị chèn ép trong kinh doanh quốc tế. Cũng nhờ có cạnh tranh mà
người tiêu dùng được tiêu dùng hàng hoá có chất lượng cao với giá cả phải chăng. Nhu
cầu của người tiêu dùng được đáp ứng tốt hơn. Vì vậy, có thể nói nâng cao sức cạnh
tranh là điều kiện để phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
4.3. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá.
Cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp đều phải được điều
chỉnh chiến lược hoạt động của mình: tập trung và huy động nguồn lực, phát huy các
lợi thế cạnh tranh trong tình hình mới. Doanh nghiệp phải luôn chuẩn bị và đoán trước
xu thế cạnh tranh, sẵn sàng linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
Sức cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở nhiều khía cạnh, có thể bởi thế mạnh của chất
lượng, bởi sự hấp dẫn của hình thức, bởi giá cả phải chăng hoặc vì thoả mãn nhu cầu
tâm lý, địa vị của khách hàng, trong trường hợp doanh nghiệp tiến hành kinh doanh tiêu
thụ trên thị trường thế giới, trước hết sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp vì
sản phẩm đã giành được sự quan tâm, ưu ái của khách hàng, sau là nâng cao mặt bằng
chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và những đòi hỏi ngày càng
khắt khe của người tiêu dùng. Khi tiến hành kinh doanh trên thị trường nước ngoài,
doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Không đơn giản như sản xuất
kinh doanh trong nước, việc sản xuất nếu không có điều kiện tổ chức tại nước ngoài,

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×