Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cau hoi on tap môn phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành cao học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.08 KB, 27 trang )

Câu 1: Hãy cho ba ví dụ về các tình huống khác nhau, trong đó anh/chị có thể sử dụng dữ liệu
thứ cấp như một phần nghiên cứu của anh/chị?
Trả lời:
* Dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu thứ cấp có đặc điểm là chỉ cung cấp các thông tin mô tả tình hình, chỉ rõ quy mô
của hiện tượng chứ chưa thể hiện được bản chất hoặc các mối liên hệ bên trong của hiện tượng
nghiên cứu. Vì dữ liệu thứ cấp, dù thu thập từ bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp, nó cũng là
những thông tin đã được công bố nên thiếu tính cập nhật, đôi khi thiếu chính xác và không đầy
đủ.
Tuy nhiên, dữ liệu thứ cấp cũng đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu marketing,
vì: các dữ liệu thứ cấp có thể giúp người quyết định đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề trong
những trường hợp thực hiện những nghiên cứu mà các dữ liệu thứ cấp là phù hợp mà không cần
thiết phải có các dữ liệu sơ cấp; ngay cả khi dữ liệu thứ cấp không giúp ích cho việc ra quyết định
thì nó vẫn rất quan trọng vì nó giúp xác định và hình thành các giả thiết về các giải pháp cho vấn
đề. Nó là cơ sở để hoạch định việc thu thập các dữ liệu sơ cấp; cũng như được sử dụng để xác
định tổng thể chọn mẫu và thực hiện chọn mẫu để thu thập dữ liệu sơ cấp.
- Dữ liệu thứ cấp bên trong:
Khi tìm kiếm dữ liệu thứ cấp nên bắt đầu từ các nguồn bên trong tổ chức. Hầu hết các tổ
chức đều có những nguồn thông tin rất phong phú, vì vậy có những dữ liệu có thể sử dụng ngay
lập tức. Chẳng hạn như dữ liệu về doanh thu bán hàng và chi phí bán hàng hay các chi phí khác sẽ
được cung cấp đầy đủ thông qua các bảng báo cáo thu nhập của doanh nghiệp. Những thông tin
khác có thể tìm kiếm lâu hơn nhưng thật sự không khó khăn khi thu thập loại dữ liệu này.
- Dữ liệu thứ cấp bên ngoài:
Những nguồn dữ liệu thứ cấp bên ngoài là các tài liệu đã được xuất bản có được từ các
nghiệp đoàn, chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các hiệp hội
th-ương mại, các tổ chức chuyên môn, các ấn phẩm thương mại, các tổ chức nghiên cứu
Marketing chuyên nghiệp… Sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu đã tạo nên một nguồn dữ
liệu vô cùng phong phú và đa dạng, đó là các dữ liệu thu thập từ internet. Trong thực tế, có rất
nhiều dữ liệu thứ cấp có thể sử dụng được và có thể tìm kiếm từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy,
điều quan trọng là phải phân loại nguồn dữ liệu để có một phương thức tìm kiếm thích hợp.
* Ví dụ:


- Tình huống 1: Báo cáo kết quả đạt được của sản xuất công nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa
năm 2015. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá; giá trị sản xuất ước đạt 33.731 tỷ
đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ. Trong năm, đã động thổ, khởi công, đưa vào hoạt động dây
chuyền 2 Nhà máy gạch men cao cấp Vicenza; DA xi măng Long Sơn; DA sản xuất dầu ăn; DA
nhiệt điện Nghi Sơn 2; các nhà máy may, sản xuất giày dép xuất khẩu tại các huyện Yên Định,
Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Hậu Lộc. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp được quan tâm phát
triển; giá trị sản xuất ước đạt 7.018 tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ, đóng góp 20,8% tổng giá
trị sản xuất ngành công nghiệp.
=> Với dữ liệu báo cáo tổng quát của UBND tỉnh Thanh Hóa chúng ta có thể thấy ngành công
nghiệp tại tỉnh đang trên đà tăng trưởng và phát triển. Từ đó có thể nghiên cứu về việc tăng
trưởng tín dụng đối các ngành công nghiệp tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa tại Ngân hàng Sacombank
- Tình huống 2: Năm 2015 Thống kê vừa công bố của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội nêu, cử nhân và thạc sĩ chiếm tỷ lệ thất nghiệp 20% (225.500 người). Theo đánh giá, số lượng
cử nhân, thạc sĩ không có việc làm gia tăng đáng kể so với con số 199.000 người của quý
III/2015. Bên cạnh đó còn có 117.300 người có trình độ CĐ cũng đang thất nghiệp, tăng rất nhiều
và nhanh so với vài tháng trước đây. Trong khi số lượng người thất nghiệp nói chung đang có xu
hướng giảm, số lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên không có việc làm lại có xu hướng
tăng và trở thành nhóm có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong các bậc trình độ chuyên môn kỹ thuật
của lực lượng lao động.

1


=> Với dữ liệu báo cáo của Bộ lao động Thương binh và xã hội chúng ta có thể nghiên cứu về
“Nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ tại các trường đại học”
- Tình huống 3 : Tính đến ngày 20/05/2016, Tình hình đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngoài
Trong 5 tháng đầu năm 2016 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong
đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu
tư nước ngoài với 398 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 6,61 tỷ

USD, chiếm 65,1% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 5 tháng. Lĩnh vực thông tin và truyền thông
đứng thứ 2 với 67 dự án cấp mới, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,3 tỷ USD, chiếm
gần 12,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ 3 với
542,8 triệu USD, chiếm 5,3% tổng vốn đầu tư.
=> Với dữ liệu báo cáo tình hình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài chúng ta có thể sử dụng
dữ liệu trên để nghiên cứu “Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”

2


Câu 2: Anh/chị đang tiến hành một đề tài nghiên cứu như một phần của khóa học. Câu hỏi
nghiên cứu ban đầu là "Thương mại xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước khác thay
đổi như thế nào, kể từ khi nó gia nhập WTO?"
Liệt kê các lập luận anh/chị dùng để thuyết phục người khác, về tính thích hợp của việc
sử dụng dữ liệu thứ cấp để trả lời câu hỏi nghiên cứu này.
Trả lời:
Nền kinh tế thế giới đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, mỗi quốc gia trở
thành một mắt xích trong việc làm ra các bộ phận hợp thành một sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh
để có thể tận dụng hết các thế mạnh của nhau. Vì thế, gia tăng xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh
là vấn đề cấp bách, mang tính “thời sự” trong bối cảnh hiện nay.
Sau 08 năm gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), nhìn lại chặng đường đã qua,
có thể khái quát toàn cảnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam như sau:
- Những kết quả rất khả quan:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 vượt xa so với kỷ lục đạt được năm 2011, cao gấp nhiều
lần mức bình quân trong các thời kỳ trước, đạt 114,6 tỷ USD, so với năm 2011 tăng 18,3 % (mục
tiêu 13%). Kết quả xuất khẩu của 2012 tạo nên nhiều ấn tượng, lần đầu tiên xuất khẩu vượt mốc
100 tỷ USD. Việt Nam đã chuyển từ vị thế nhập siêu lớn trong các năm trước, lần đầu tiên sau 20
năm trở lại vị thế xuất siêu.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu đạt 132,17 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012, tương
đương với 17,64 tỷ USD, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra (tăng 10%), là năm thứ 2 liên tiếp xuất

siêu kể từ khi gia nhập WTO.
Trong năm 2013, đã có 15 thị trường Việt Nam xuất siêu lớn, như Hoa Kỳ, Tiểu Vương
quốc Ả rập Thống nhất, Anh, Campuchia, Hồng Kông, Hà Lan, Nhật Bản, Đức, Tây Ban Nha,
Australia, Áo, Italy, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ. Mức nhập siêu giảm mạnh đã góp phần cải thiện cán cân
thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá, góp phần kiềm chế lạm phát…
Nếu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người mới chỉ là 569 USD, năm
2012 đạt 1.249 USD. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đầu người đạt trên
1.473 USD, cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu chiếm 65,5 % GDP, năm 2013 đã vượt qua mốc 77,5%,
cao nhất từ trước đến nay và thuộc loại cao trên thế giới. Tỷ lệ xuất khẩu /GDP thể hiện xuất khẩu

lối
ra,

động
lực
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm
hàng công nghiệp chế biến từ 60% năm 2007 lên 64,4% năm 2012 và 70,7 % năm 2013; nhóm
hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 19,5% xuống còn khoảng 11,6% năm 2011 và 7,2% năm
2013. Tỷ trọng nhóm hàng nông, thủy sản cũng giảm từ 20% (năm 2011) xuống 15% (năm 2013).
Trong các mặt hàng chế biến, tỷ trọng một số mặt hàng có trình độ thiết bị, kỹ thuật - công nghệ
cao như điện thoại, máy tính, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, máy ảnh, máy quay phim…
tăng lên. Đây là tín hiệu sáng của cơ cấu sản xuất, xuất khẩu.
Năm 2013 có 22 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất trên 1 tỷ USD (chiếm 85% tổng kim

ngạch xuất khẩu); 13 nhóm hàng đạt trên 2 tỷ USD (thủy sản, cà phê, gạo, cao su, dầu thô, đồ gỗ,
dệt may, xơ sợi dệt, giày dép, điện thoại, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, đồ điện tử,...).
Trong kết quả xuất nhập khẩu năm 2013, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đóng góp 80,91 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 61,2% tổng trị giá xuất
khẩu của cả nước. Trong khi đó, nhập khẩu của khu vực FDI là 74,43 tỷ USD, tăng mạnh 24,2%
so với cùng kỳ năm 2012 và chiếm 56,3% tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tính
chung, năm 2013, khu vực này đã xuất siêu 6,48 tỷ USD. Khu vực doanh nghiệp FDI cao hơn khu
vực kinh tế trong nước cả về tốc độ tăng so với năm trước (cao gấp 10 lần), cả về tỷ trọng trong
tổng kim ngạch nhập khẩu (55,8% so với 44,2%).
Thị trường xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hóa. Tới nay, Việt Nam
đã có quan hệ với gần 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cùng với việc mở rộng ra nhiều thị trường

3


là việc tập trung phát triển các thị trường lớn. “Câu lạc bộ” thị trường đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD
trở lên trong năm 2013 đã lên đến con số 27. Đáng lưu ý, lần đầu tiên, Việt Nam có 3 thị trường
đạt trên 10 tỷ USD (Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc), đặc biệt là Hoa Kỳ đạt trên 23,7 tỷ USD.
- Hạn chế và những rủi ro:
Tới nay,có thể nói chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động xuất khẩu ngày
càng được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu thời gian qua cũng bộ lộ rõ một
số bất cập, thể hiện trên một số mặt sau:
+ Xuất khẩu tăng nhanh nhưng thiếu tính bền vững, còn lúng túng và bị động trong ứng
phó với các “cú sốc’’ từ bên ngoài. Đến nay, đã có tổng cộng 73 vụ kiện phòng vệ thương mại của
nước ngoài điều tra với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, hàng xuất khẩu của Việt
Nam đã chịu 43 vụ kiện CBPG, 15 vụ kiện tự vệ (TV), 5 vụ chống trợ cấp (CTC) và 10 vụ chống
lẩn tránh thuế. Chỉ trong ba tháng đầu năm 2014 đã có hai vụ kiện TV liên quan đến hàng hóa
Việt Nam. Hiệu ứng cộng gộp cũng ngày càng gia tăng.
+ Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của ta nhìn chung chưa thật bền vững, còn chứa đựng
nhiều yếu tố rủi ro. Đây chính là một thách thức lớn về mặt chất lượng, hiệu quả và tăng trưởng

không bền vững của xuất khẩu.
+ Khả năng đa dạng hóa thị trường, thâm nhập thị trường mới và duy trì, mở rộng thị phần
trên các thị trường hiện có còn nhiều yếu kém..
+ Tỷ trọng nguyên liệu nhập siêu cao cho thấy ngành công nghiệp hỗ trợ nước ta đang còn
kém phát triển, công nghiệp chế biến tăng trưởng chậm, các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều
vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. Điều này cũng sẽ cản trở việc cải thiện cán cân thương mại
(CCTM) vì không thể giảm nhập khẩu nguyên liệu.Việc gia tăng xuất khẩu nhóm hàng công nghệ
cao và sử dụng nhiều vốn trong ngắn hạn còn rất khó khăn, nhưng phải nhanh chóng có chiến
lược thực thi ngay từ bây giờ thì mới có thể xuất khẩu một cách bền vững và do đó mới có thể cải
thiện CCTM trong dài hạn.
Những bất cập một phần rất lớn nằm ở chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế của
Việt Nam. Lạm phát Việt Nam hầu như năm nào cũng ở mức rất cao so với Trung Quốc và thế
giới, việc giữ tỷ giá đồng tiền nội địa cố định đã làm cho giá trị đồng tiền Việt Nam bị định giá
quá cao so với thị trường trong suốt thời gian dài dẫn đến tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài;
làm cho hàng hóa, nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc quá rẻ, khiến ngành công nghiệp hỗ trợ
trong nước không thể phát triển được. Các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh để sản
xuất hàng thay thế hàng Trung Quốc. Kết quả là nền kinh tế bị phụ thuộc. Chính sách ngoại
thương của Việt Nam có sự không nhất quán giữa định hướng xuất khẩu và thay thế hàng nhập
khẩu. Các nhà hoạch định chính sách mong muốn hàng hóa Việt Nam có mặt ở các nước khác,
tức là định hướng xuất khẩu, nhưng về mặt chính sách lại định giá đồng nội tệ cao, vô hình chung
giúp các doanh nghiệp nhập được hàng rẻ hơn.
- Thách thức và những vấn đề đặt ra:
Gia nhập WTO, Việt Nam mong muốn tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Ở khía cạnh
nào đó, Việt Nam đã đạt được mục tiêu (kim ngạch xuất khẩu gia tăng) song xuất khẩu lại chủ
yếu dựa vào nhập khẩu nguyên liệu bán thành phẩm từ các nước khác, trong đó chủ yếu là từ
Trung Quốc. Việc tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu không vững chắc và chủ yếu chỉ nhập
khẩu linh kiện, thiết bị về lắp ráp dựa vào nhân công giá rẻ cũng rất “lung lay” bởi đến một lúc
nào đó các nước khác cũng cạnh tranh bằng nhân công giá rẻ thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ “một
đi không trở lại”. Nếu điều này xảy ra, những cái được khi gia nhập WTO là thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp

lý, tạo công ăn việc làm… cũng sẽ mất dần. Rõ ràng, nỗ lực để đổi từ "lượng sang chất, từ manh
mún sang tập trung, từ thô sang tinh... ", rất chậm.
Xuất khẩu Việt Nam đang gặp thách thức ở cả 3 trụ cột quan trọng: i) những quy định về
thương mại; ii) chuỗi cung ứng; iii) hạ tầng giao thông và dịch vụ logicstic. Những quy định pháp
lý về thương mại vừa chồng chéo, vừa thiếu rõ ràng khiến việc áp dụng có thể gây ra những phiền

4


phức cho doanh nghiệp. Vấn đề thâm hụt thương mại với nguy cơ nhập siêu luôn có thể xuất hiện
trở lại. Có đến 90% thương mại quốc tế của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển nhưng
cảng biển lại thiếu kết nối với hạ tầng giao thông khác, thiếu kết nối với các khu kinh tế; thậm chí
có cảng, nhưng thiếu đường vào; thiếu hạ tầng bến đỗ…
Các yếu tố khác như biểu thuế, không tiếp cận được tín dụng thương mại, các thủ tục hành
chính rườm rà cũng được coi là những hạn chế chính đối với tăng trưởng xuất khẩu. Những hạn
chế lớn nhất đối với tăng trưởng xuất khẩu liên quan nhiều tới những yếu kém trong cơ cấu nội bộ
của nền kinh tế Việt Nam, hơn là các nhân tố bên ngoài như việc giảm nhu cầu đối với sản phẩm
chế tạo tại Việt Nam hay giá xuất khẩu. Đối mặt với những vấn đề này, các doanh nghiệp trong
nước thường gặp nhiều khó khăn hơn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì các
doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu xuất khẩu cho công ty mẹ hoặc các đối tác nước ngoài.
TS. Victoria Kwakwa cho rằng đây là thời điểm cần có một cách tiếp cận mới nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, vai trò của
Chính phủ là phải hỗ trợ các hoạt động mang lại ảnh hưởng tích cực từ bên ngoài và trợ giúp để
thúc đẩy luồng thương mại. Đồng thời, cần loại bỏ những yếu tố cản trở, trong đó có việc rút lui
dần khỏi những lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể đóng vai trò đi đầu. Việc đầu tư cho tái cơ
cấu chuỗi giá trị cung ứng tốt thì cả quốc gia, doanh nghiệp và người dân đều được hưởng lợi từ
chuỗi cung ứng này.
- Một số giải pháp cho thời gian tới:
+ Chính phủ cần nhất quán chính sách định hướng xuất khẩu trong các chính sách cụ thể
của mình, tạo động lực giúp cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh trên

sân chơi chung của thế giới. Khá nhiều nước thực hiện chính sách định hướng xuất khẩu đều rất
thành công.
+ Việc phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường sẽ khiến doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
dễ bị tổn thương do kiện bán phá giá. Vì vậy, theo nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam phải gấp
rút thay đổi cơ cấu thị trường theo hướng “bỏ trứng vào nhiều giỏ”.
+ Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam theo hướng tương thích với hệ thống tiêu
chuẩn của các nước nhập khẩu. Cần xem xét và xây dựng các tiêu chuẩn mới theo hướng hài hoà
với tiêu chuẩn quốc tế hoặc khu vực nhằm thuận lợi hoá thương mại. Bên cạnh Hiệp định TBT,
Việt Nam cần phải tuân thủ nghĩa vụ của các điều ước quốc tế trong Hiệp định SPS về vệ sinh an
toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật.
+ Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi về tín
dụng cho đầu tư công nghệ xử lý các vấn đề liên quan đến môi trường.
Trong thời đại ngày
nay không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động của những
quan hệ mang tính tổng hợp, khu vực và toàn cầu. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận “Luật
chơi’ và “Cách chơi” toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, việc sửa đổi, bổ sung các pháp luật có liên
quan, hoàn thiện và hoà hợp các chính sách, cơ chế nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại sẽ là
một giải pháp hữu hiệu để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển một cách bền vững!./.

5


Câu 3: Hãy trình bày bản chất của các phương pháp nghiên cứu sau:
a. Nghiên cứu định lượng
b. Nghiên cứu định tính
c. Nghiên cứu kết hợp
Trả lời:
a. Nghiên cứu định lượng:
Trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nghiên cứu định lượng là điều tra thực
nghiệm có hệ thống về các hiện tượng quan sát được qua số liệu thống kê, toán học hoặc số hoặc

kỹ thuật vi tính.
Mục tiêu của nghiên cứu định lượng là phát triển và sử dụng mô hình toán học, lý thuyết
hoặc các giả thuyết liên quan tới các hiện tượng. Quá trình đo lường là trung tâm của nghiên cứu
định lượng bởi vì nó cung cấp các kết nối cơ bản giữa quan sát thực nghiệm và biểu thức toán học
của các mối quan hệ định lượng. Số liệu định lượng là bất kỳ dữ liệu ở dạng số như số liệu thống
kê, tỷ lệ phần trăm, v.v…
Trong điều kiện thường, điều này có nghĩa là các nhà nghiên cứu định lượng yêu cầu một
câu hỏi cụ thể và thu thập một mẫu dữ liệu số từ hiện tượng quan sát hay từ nghiên cứu người
tham gia trả lời các câu hỏi. Các nhà nghiên cứu phân tích các dữ liệu với sự giúp đỡ của các số
liệu thống kê. Các nhà nghiên cứu hy vọng con số sẽ mang lại một kết quả không thiên vị mà có
thể được khái quát hóa cho một số lượng dân số lớn hơn.
Ngược lại, nghiên cứu định tính là đặt câu hỏi rộng và thu thập dữ liệu từ hiện tượng hoặc
người tham gia. Các nhà nghiên cứu tìm kiếm các chủ đề và mô tả các thông tin trong các chủ đề
và các xu hướng đặc thù của tập hợp các thành viên tham gia.
Trong khoa học xã hội, nghiên cứu định lượng được sử dụng rộng rãi trong tâm lý học,
kinh tế học, xã hội học, tiếp thị, y tế cộng đồng, y tế và phát triển con người, giới tính và khoa
học chính trị, và ít thường xuyên trong nhân chủng học và lịch sử. Nghiên cứu trong khoa học
toán học như vật lý cũng là "định lượng" theo định nghĩa, mặc dù điều này sử dụng các thuật ngữ
khác tùy theo ngữ cảnh. Trong các ngành khoa học xã hội, thuật ngữ liên quan đến phương pháp
thực nghiệm, có nguồn gốc ở cả chủ nghĩa thực chứng triết học và lịch sử của thống kê, điều này
tương phản với các phương pháp nghiên cứu định tính.
b. Nghiên cứu định tính:
Nghiên cứu định tính là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa
học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn trong nghiên cứu thị
trường và các bối cảnh khác. Nghiên cứu định tính nhằm mục đích thu thập một sự hiểu biết sâu
sắc về hành vi con người và lí do ảnh hưởng đến hành vi này. Các phương pháp định tính điều tra
lý do tại sao và làm thế nào trong việc ra quyết định, không chỉ trả lời các câu hỏi cái gì, ở đâu,
khi nào. Do đó, các mẫu nhỏ tập trung thường được sử dụng nhiều hơn hàng loạt mẫu lớn.
Trong quan điểm thông thường, phương pháp định tính chỉ cung cấp thông tin trong những
trường hợp đặc biệt được nghiên cứu, và bất cứ các kết luận tổng quát nào chỉ là các mệnh đề

(xác nhận thông tin). Phương pháp định lượng sau đó có thể được sử dụng để tìm kiếm sự hỗ trợ
thực nghiệm cho giả thuyết nghiên cứu này.Phương pháp nghiên cứu định tính sản xuất thông tin
chỉ trong những trường hợp được nghiên cứu đặc biệt, và các kết luận tổng quát hơn là giả thuyết.
Nghiên cứu định tính hiện đại đã được tiến hành từ một số lượng lớn các mô hình khác
nhau mà ảnh hưởng đến mối quan tâm về khái niệm và lý thuyết chủ đề có tính hợp pháp, kiểm
soát, phân tích dữ liệu, bản thể học và khoa học luận.
c. Nghiên cứu kết hợp:
Nghiên cứu theo các phương pháp kết hợp là một cách tiếp cận nghiên cứu riêng biệt,
tương đối còn mới mẻ trong khoa học xã hội và nhân văn, nên ta cần truyền đạt định nghĩa cơ
bản và mô tả cách tiếp cận này trong đề án nghiên cứu. Điều này có thể bao gồm những điểm sau
đây:

6


Nghiên cứu theo các phương pháp kết hợp là tập trung vào việc thu thập và phân tích cả
dữ liệu định tính và định lượng trong cùng một nghiên cứu. Làm rõ các lý do khiến nhà nghiên
cứu triển khai thiết kế theo các phương pháp kết hợp. Đồng thời cũng lưu ý rằng việc “kết hợp”
có thể là trong phạm vi một nghiên cứu hay giữa một vài nghiên cứu trong một chương trình tìm
hiểu.

7


Câu 4: Sự khác biệt giữa dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp? Tại sao nên thu thập dữ liệu thứ
cấp trước dữ liệu sơ cấp? Có nên thu thập dữ liệu thứ cấp từ nhiều nguồn khác nhau không?
Tại sao?
Trả lời:
- Dữ liệu thứ cấp: là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục đích có thể là
khác với mục đích nghiên cứu của chúng ta. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chưa xử lý (còn gọi

là dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Như vậy, dữ liệu thứ cấp không phải do người nghiên cứu
trực tiếp thu thập.
Có nhiều nhà nghiên cứu, sinh viên đánh giá thấp nguồn dữ liệu thứ cấp có sẵn. Vì vậy
chúng ta bắt đầu xem xét sự hợp lý của nguồn dữ liệu thứ cấp đối với vấn đề nghiên cứu của
chúng ta trước khi tiến hành thu thập dữ liệu của chính mình. Các cuộc điều tra về dân số, nhà ở,
điều tra doanh nghiệp, điều tra mức sống dân cư, điều tra kinh tế xã hội gia đình (đa mục tiêu)...
do chính phủ yêu cầu là những nguồn dữ liệu rất quan trọng cho các nghiên cứu kinh tế xã hội.
Dữ liệu thứ cấp có ưu điểm là giúp tiết kiệm tiền bạc, thời gian. Nhưng cần chú ý đến
nhược điểm trong sử dụng là:
Dữ liệu thứ cấp thường đã qua xử lý nên khó đánh giá được mức độ chính xác, mức độ tin
cậy của nguồn dữ liệu.
Số liệu thứ cấp này đã được thu thập cho các nghiên cứu với các mục đích khác và có thể
hoàn toàn không hợp với vấn đề của chúng ta; khó phân loại dữ liệu; các biến số, đơn vị đo lường
có thể khác nhau...
Vì vậy trách nhiệm của người nghiên cứu là phải đảm bảo tính chính xác của dữ liệu, phải
kiểm tra xem các kết quả nghiên cứu của người khác là dựa vào dữ liệu thứ cấp hay sơ cấp. Vì
vậy điều quan trọng là phải kiểm tra dữ liệu gốc.
- Dữ liệu sơ cấp: là những dữ liệu chưa qua xử lý, được thu thập lần đầu, và thu thập trực
tiếp từ các đơn vị của tổng thể nghiên cứu thông qua các cuộc điều tra thống kê. Dữ liệu sơ cấp
đáp ứng tốt yêu cầu nghiên cứu, tuy nhiên việc thu thập dữ liệu sơ cấp lại thường phức tạp. Khi
dữ liệu thứ cấp không có sẵn hoặc không thể giúp trả lời các câu hỏi nghiên cứu của chúng ta,
chúng ta phải tự mình thu thập dữ liệu cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu đặt ra. Các dữ liệu tự
thu thập này được gọi là dữ liệu sơ cấp. Hay nói cách khác, dữ liệu sơ cấp là dữ liệu do chính
người nghiên cứu thu thập.
Có nhiều phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp. Nhìn chung khi tiến hành thu thập dữ liệu
cho một cuộc nghiên cứu, thường phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt
được hiệu quả mong muốn.

8



Câu 5: 1. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa nghiên cứu hàn lâm và nghiên cứu ứng
dụng? Cho ví dụ minh họa.
2. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa: quan điểm luận, nhận thức luận và
phương pháp luận?
Trả lời:
1. Sự khác nhau và giống nhau giữa nghiên cứu hàn lâm và nghiên cứu ứng dụng?
Cho ví dụ minh họa.
*Giống nhau: đều là một quá trình có các bước thu thập và phân tích thông tin nhằm gia
tăng sự hiểu biết của chúng ta về một chủ đề hay một vấn đề. Nó bao gồm ba bước: Đặt câu hỏi,
thu thập dữ liệu để trả lời cho câu hỏi, và trình bày câu trả lời cho câu hỏi đó. Là một truy vấn hay
khảo sát cẩn thận; đặc biệt: sự khảo sát hay thể nghiệm nhắm đến việc phát hiện và diễn giải dự
kiện, sự thay đổi những lý thuyết hay định luật đã được chấp nhận dựa trên những dữ kiện mới,
hay sự ứng dụng thực tiễn những lý thuyết hay định luật mới hay đã được thay đổi đó.
*Khác nhau:
- Nghiên cứu hàn lâm (còn gọi là nghiên cứu nền tảng hoặc nghiên cứu thuần túy): được
thực hiện bởi sự tò mò hoặc đam mê của nhà khoa học để trả lời những câu hỏi khoa học. Động
lực để thôi thúc họ là mở rộng kiến thức chứ không phải là kiếm lợi nhuận, do đó không có một
lợi nhuận kinh tế nào từ kết quả của nghiên cứu hàn lâm.
Lấy ví dụ, mục đích khoa học hàn lâm là tìm câu trả lời cho những câu hỏi đại loại như:
+Vũ trụ hình thành như thế nào? Cấu trúc của proton, nơtron, nucleon bao gồm những gì?
Có gì đặc biệt trong cấu trúc gen di truyền của loài ruồi giấm?
Phần lớn các nhà khoa học cho rằng những hiểu biết một cách cơ bản, nền tảng về tất cả
các khía cạnh của khoa học là thiết yếu cho phát triển. Nói một cách khác, nghiên cứu cơ bản đặt
nền tảng cho nghiên cứu ứng dụng tiếp bước. Nếu coi nghiên cứu cơ bản là bước đi trước thì sự
tiếp nối ứng dụng có thể chính là từ kết quả nghiên cứu này.
Chúng ta đã được biết đến nhiều ví dụ mà ở đó nghiên cứu hàn lâm cơ bản đã đóng vai trò
quan trọng trong sự tiến bộ của khoa học.
+ Ví dụ minh họa:
Sự hiểu biết của chúng ta về Gen và di truyền học đạt được là do thành quả to lớn trong

việc nghiên cứu Đậu Hà Lan của thầy tu Gregor Mendel vào những năm 1860 và các thí nghiệm
về ruồi giấm của nhà bác học T.H. Morgan những năm đầu thế kỷ 20. Việc sử dụng đậu Hà Lan,
ruồi giấm - những sinh vật có cấu trúc đơn giản sẽ dễ làm thí nghiệm hơn so với các dạng sống
cao hơn. Ngày nay loài ruồi giấm vẫn được sử dụng trong nghiên cứu khoa học (ví dụ đề án
Human Genome Project – Dự án về Gen người) DNA đang được xem như "chìa khóa cuộc sống".
- Nghiên cứu ứng dụng: được tiến hành để giải quyết các vấn đề thực tế của thế giới đương
đại, không phải chỉ là hiểu để mà hiểu (kiến thức vị kiến thức). Có thể nói một cách khác rằng kết
quả của các nhà nghiên cứu ứng dụng là để cải thiện cuộc sống con người.
+ Lấy ví dụ, các nhà nghiên cứu ứng dụng có thể điều tra nghiên cứu các cách để:
Nâng cao năng suất của sản xuất lương thực.
Xử lý hoặc chữa trị một căn bệnh nào đó.
Cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng trong nhà, văn phòng hoặc các mô hình khác.
Một số nhà khoa học cho rằng đã đến lúc để chúng ta nên chuyển đổi trọng tâm từ nghiên
cứu cơ bản thuần túy sang khoa học ứng dụng. Theo hướng này, họ cảm thấy, rất cấp bách phải
giải quyết các vấn đề từ quá tải dân số toàn cầu, ô nhiễm môi trường, cho đến sự sử dụng cạn kiệt
các nguồn tài nguyên tự nhiên.
+ Ví dụ minh họa:
Vacxin giúp chống lại các loại bệnh tật và cứu sống nhiều người mỗi năm. Lần đầu tiên
vacxin được sử dụng đó là vào cuối những năm 1790. Edward Jenner đã phát triển một kỹ thuật
để tạo ra vacxin cho người giúp chống lại bệnh đậu mùa, một căn bệnh đã giết chết hàng triệu

9


người. Gần đây, Jonas Salk đã phát triển một loại vacxin bại liệt vào năm 1953; dạng viên uống
của loại vacxin này đã được Albert Sabin cung cấp vào năm 1961.
2. Sự khác nhau và giống nhau giữa: quan điểm luận, nhận thức luận và phương
pháp luận:
- Phương pháp luận: là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc
chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và

thực tiễn.
- Nhận thức luận: có nơi còn gọi là khoa học luận. Đây là một loại lý luận giúp ta trả lời
câu hỏi "Làm sao ta biết được điều đó? Tri thức về điều đó có được bằng cách nào?"
Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về
bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó được
hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu
tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện
tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
- Quan điểm luận: là hệ thống lý luận, hệ thống lỹ thuyết các quan điểm trong NCKH, ví
dụ: quan điểm về phép biện chứng duy vật trong NCKH; quan điểm hệ thống cấu trúc trong
nghiên cứu; hệ thống quan điểm về tính thực tiễn trong nghiên cứu,...

10


Câu 6: 1. Trình bày bản chất của phương pháp điều tra dữ liệu sơ cấp và mục đích của tổng
quan lý thuyết?
2. Cho biết sự khác nhau giữa vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên
cứu và giả thuyết nghiên cứu? Lấy ví dụ minh họa.
Trả lời:
1. Trình bày bản chất của phương pháp điều tra dữ liệu sơ cấp và mục đích của tổng
quan lý thuyết:
* Bản chất của phương pháp điều tra dữ liệu sơ cấp:
- Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu mới do chính bản thân nghiên cứu viên tự thu nhập thông
qua:
Phỏng vấn cá nhân
Thảo luận nhóm
Quan sát
Tham dự
- Các dạng dữ liệu chủ yếu:

Lời văn – các văn Lời nói – các băng ghi âm phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm
Hình ảnh – các ảnh chụp, tranh
Bản ghi chép quan sát
Âm thanh – các bản nhạc, các bản ghi âm diễn văn
Kết hợp âm thanh và hình ảnh : Phim, video
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phỏng vấn cá nhân (Có 2 dạng là phỏng vấn không cấu trúc, bán cấu trúc): Nhằm thu thập
đến mức tối đa thông tin về chủ thể đang nghiên cứu từ và nhiều cá nhân. Với việc sử dụng bản
“Hướng dẫn phỏng vấn” đối với phỏng vấn bán cấu trúc và không sử dụng “Hướng dấn phỏng
vấn” trong phỏng vẫn không cấu trúc. Có thể thực hiện phỏng vấn thăm dò trước về chủ đề
nghiên cứu để có thể biết được các nội dung nghiên cứu phù hợp. Một số trường hợp đặc biệt :
Phỏng vấn trường hợp điển hình, phỏng vấn lược sử đời sống,
+ Thảo luận nhóm: Một nhóm bao gồm nhiều cá thể cùng cung cấp thông tin, các cá nhân sẽ
tương tác, chia sẻ, xác nhận thông tin với nhau. Có 2 kiểu thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm tập trung: Gồm 6-8 người, được lên lịch trình sẵn, bố trí sẵn,
Thảo luận nhóm không chính thức: là tự nhiên, không dàn cảnh, sắp đặt người tham gia hay
thảo luận
+ Quan sát: Cung cấp thông tin về hành vi thực tế của đối tượng được điều tra, cho phép
hiểu rõ hơn hành vi được nghiên cứu. Bao gồm : Quan sát tham gia/không tham gia; quan sát
công khai/bí mật, quan sát có giải thích mục tiêu/không nói rõ mục đích, quan sát một lần/lặp lại;
quan sát một hành vi/tổng thể, quan sát định tính/định lượng.
+ Tham dự: Nhà nghiên cứu trở thành khách thể nghiên cứu trong suốt thời gian nghiên cứu.
Ví dụ nhà nghiên cứu chứng khoán bản thân người nghiên cứu phải mua chứng khoán.
=> Việc thu thập dữ liệu sơ cấp là việc bản thân nhà nghiên cứu phải trực tiếp tự phỏng vấn,
thảo luận, quan sát, tham dự các vấn đề liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Việc thu thập được dữ
liệu này sẽ giúp người nghiên cứu có cái nhìn thực tế, tổng thể và khách quan. Từ đó có những
đánh giá chính xác về những vấn đề nghiên cứu. và khối lượng dữ liệu sơ cấp càng nhiều thì càng
phản ảnh chính xác thực tế và càng phát hiện được các vấn đề mới. ngược lại dữ liệu sơ cấp càng
ít thì vấn đề nghiên cứu sẽ không thể đi hết được các khía cạnh, không có cái nhìn khách quan về
vấn đề nghiên cứu.

* Mục đích của tổng quan lý thuyết:
Đây là chương đầu tiên, ngay sau phần mục tiêu của đề tài, cung cấp những tư liệu nền, cho
người đọc biết vấn đề tác giả quan tâm (và những vấn đề chuyên ngành có liên quan) đã được
những tác giả trước đó nghiên cứu và phân tích như thế nào (cả quốc tế và trong nước).

11


Có thể trình bày các thông tin, số liệu về vấn đề nghiên cứu, cũng như những kiến thức lý
thuyết kinh điển xoay quanh vấn đề này. Thông thường trình tự thể hiện các thông tin đi từ tổng
quát tới cụ thể, từ rộng đến hẹp: tình hình thế giới, Việt nam, tỉnh/ thành phố, địa phương nơi tiến
hành nghiên cứu.
Sau những kiến thức nền rất cơ bản về chủ đề, tác giả có thể liệt kê các kết quả nghiên cứu
trước đó, các công trình khoa học hay dự án, giải pháp cán thiệp, chiến lược, đường lối, chủ
trương thông qua các khung pháp lý, v.v. (điều này tùy thuộc chủ đề nghiên cứu).
Nếu đề tài có những khái niệm, định nghĩa chưa phải là phổ biến, tác giả cần mô tả chúng
trong phần tổng quan, chỉ rõ các đề tài trước đây đã sử dụng khái niệm, định nghĩa nào, định
nghĩa nào là chuẩn mực.
Ngoài ra, những khung lý thuyết giúp giải quyết vấn đề cũng cần được đề cập trong phần
này, đặc biệt là khi chủ đề đã được nhiều tác giả trước đó tìm tòi khám phá. Khung lý thuyết trình
bày ở đây mang tính chất cung cấp thông tin nền cho người đọc, tác giả cũng nên đưa ra nhận
định của mình về những lý thuyết, những kết quả của các nghiên cứu trước, và nhất là phương
pháp luận. Những khung lý thuyết chỉ ra ở đây không nhất thiết sẽ là khung chung cho cả đề tài
này, tác giả có toàn quyền xây dựng và đề xuất những mô hình lý thuyết mới.
2. Sự khác nhau giữa vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và
giả thuyết nghiên cứu? Lấy ví dụ minh họa.
Vấn đề
Mục tiêu
Câu hỏi
Giả thuyết

Vì sao lại nghiên Nhằm khám phá ra Để đạt được mục tiêu Bằng kiến thức, hiểu biết
cứu
cái gì, mang lại trên phải trả lời trước khi nghiên cứu có
hiểu biết mới nào
những câu hỏi nào
thể trả lời câu hỏi nghiên
cứu như thế nào (hay câu
trả lời sơ bộ, cần chứng
minh, vào câu hỏi nghiên
cứu của đề tài)
Phát hiện ra bản Bản chất sự vật Hình thành từ nên Nhờ có phương án giả
chất của sự vật để đang nghiên cứu là tảng của mục tiêu định đã đặt ra, mà người
làm gì
ntn; tính quy luật nghiên cứu; đưa ra nghiên cứu có được hướng
hoạc quy luật của câu hỏi đề làm chi tìm kiếm. Rất có thể giả
KTXH
đang tiết hơn, định hướng thuyết bị đánh đổ, khi đó
nghiên cứu là như các bước cần tìm hiểu người nghiên cứu phải đặt
thế nào.
để đạt được mục tiêu; một giả thuyết khác thay
câu hỏi được trả lời thế. Công việc diễn ra liên
qua kết quả nghiên tục như thế, cho đến khi
cứu
đạt được kết quả cuối
cùng.
Những mong muốn
Mỗi giả thuyết luôn đi
mà nhà nghiên cứu
kèm với một điều kiện giả
hi vọng sẽ đạt

định, nghĩa là một giả thiết
được, khám phá ra
quan sát hoặc thực nghiệm
giải quyết được khi
hoàn thành việc
nghiên cứu
Ví dụ: Tăng - Tăng trưởng dư + Cần giải quyết các + Đưa ra giả thuyết trả lời
trưởng cho vay nợ cho vay tại câu hỏi để trả lời vấn câu hỏi:
tại
Sacombank Sacombank Thanh đề :
- Thực trạng cho vay hiện
Thanh Hóa.
Hóa
- Thực trạng cho vay đang có xu hướng giảm và
- Tìm ra được giải hiện tại như thế nào? nợ xấu gia tăng.

12


pháp
để
tăng
trưởng cho vay,
đồng thời khắc
phục được các yếu
kém thực tại
- Tìm ra quy luật
tăng trưởng cho
vay để có những
giải pháp phù hợp.


- Thị phần cho vay ra
sao?
- Cần phải khai thác
thị trường nào?
- Tăng trưởng như thế
nào để đảm bảo hiệu
quả, giảm rủi ro?

13

- Thị phần cho vay đang bị
mất dần, không nắm được
thị trường cho vay
- Tăng trưởng tập trung
cho cho vay nhỏ lẻ, phân
tán.
- Đảm bảo quy trình cấp
tín dụng để giảm thiểu rủi
ro.


Câu 7: Nêu bản chất, quá trình, ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp điều tra: phỏng
vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, phỏng vấn qua email hoặc Internet?
Trả lời:
1. Phỏng vấn trực tiếp:
a. Bản chất, quá trình:
- Nhân viên điều tra đến gặp trực tiếp đối tượng được điều tra để phỏng vấn theo một bảng
câu hỏi đã soạn sẵn.
- Áp dụng khi hiện tượng nghiên cứu phức tạp, cần phải thu thập nhiều dữ liệu; khi muốn

thăm dò ý kiến đối tượng qua các câu hỏi ngắn gọn và có thể trả lời nhanh được,…
b. Ưu, nhược điểm:
Do gặp mặt trực tiếp nên nhân viên điều tra có thể thuyết phục đối tượng trả lời, có thể giải
thích rõ cho đối tượng về các câu hỏi, có thể dùng hình ảnh kết hợp với lời nói để giải thích, có
thể kiểm tra dữ liệu tại chỗ trước khi ghi vào phiếu điều tra. Tuy nhiên chi phí cao, mất nhiều thời
gian và công sức.
2. Phỏng vấn qua điện thoại:
a. Bản chất, quá trình:
- Nhân viên điều tra tiến hành việc phỏng vấn đối tượng được điều tra bằng điện thoại theo
một bảng câu hỏi được soạn sẵn.
- Áp dụng khi mẫu nghiên cứu gồm nhiều đối tượng là cơ quan xí nghiệp, hay những người
có thu nhập cao (vì họ đều có điện thoại); hoặc đối tượng nghiên cứu phân bố phân tán trên nhiều
địa bàn thì phỏng vấn bằng điện thoại có chi phí thấp hơn phỏng vấn bằng thư. Nên sử dụng kết
hợp phỏng vấn bằng điện thoại với phương pháp thu thập dữ liệu khác để tăng thêm hiệu quả của
phương pháp.
b. Ưu, nhược điểm:
Dễ thiết lập quan hệ với đối tượng (vì nghe điện thoại reo, đối tượng có sự thôi thúc phải trả
lời). Có thể kiểm soát được vấn viên do đó nâng cao được chất lượng phỏng vấn. Dễ chọn mẫu (vì
công ty xí nghiệp nào cũng có điện thoại, nên dựa vào niên giám điện thoại sẽ dễ dàng chọn mẫu).
Tỷ lệ trả lời cao (có thể lên đến 80%). Nhanh và tiết kiệm chi phí. Có thể cải tiến bảng câu hỏi
trong quá trình phỏng vấn (có thể cải tiến để bảng câu hỏi hoàn thiện hơn, hoặc có thể thay đổi thứ
tự câu hỏi). Tuy nhiên thời gian phỏng vấn bị hạn chế vì người trả lời thường không sẵn lòng nói
chuyện lâu qua điện thoại, nhiều khi người cần hỏi từ chối trả lời hay không có ở nhà…Không thể
trình bày các mẫu minh hoạ về mẫu quảng cáo, tài liệu… để thăm dò ý kiến.
3. Phỏng vấn qua email hoặc Internet :
a. Bản chất, quá trình:
- Gởi bảng câu hỏi đã soạn sẵn đến người muốn điều tra qua địa chỉ mail hoặc Internet.
Nếu mọi việc trôi chảy, đối tượng điều tra sẽ trả lời và gởi lại bảng câu hỏi cho cơ quan điều tra
cũng qua địa chỉ mail hoặc Internet đã gửi.
- Áp dụng khi người mà ta cần hỏi rất khó đối mặt, do họ ở quá xa, hay họ sống quá phân

tán, hay họ sống ở khu dành riêng rất khó vào, hay họ thuộc giới kinh doanh muốn gặp phải qua
bảo vệ thư ký…; khi vấn đề cần điều tra thuộc loại khó nói, riêng tư (chẳng hạn: kế hoạch hoá gia
đình, thu nhập, chi tiêu,…); khi vấn đề cần điều tra cực kỳ hấp dẫn đối với người được phỏng
vấn. (chẳng hạn: phụ nữ với vấn đề mỹ phẩm, nhà quản trị với vấn đề quản lý,…); khi vấn đề cần
điều tra cần thiết phải có sự tham khảo tra cứu nhất định nào đó…
b. Ưu, nhược điểm:
Có thể điều tra với số lượng lớn đơn vị, có thể đề cập đến nhiều vấn đề riêng tư tế nhị, có thể
dùng hình ảnh minh hoạ kèm với bảng câu hỏi. Thuận lợi cho người trả lời vì họ có thời gian để
suy nghĩ kỹ câu trả lời, họ có thể trả lời vào lúc rảnh rỗi. Chi phí điều tra thấp. Tuy nhiên tỷ lệ trả
lời thường thấp, mất nhiều thời gian chờ đợi hồi âm, không kiểm soát được người trả lời, người
trả lời thư có thể không đúng đối tượng mà ta nhắm tới.

14


Câu 8: 1. Phân tích sự khác nhau và giống nhau của câu hỏi đóng và câu hỏi mở? Cho ví dụ
minh họa.
2. Trích dẫn đóng vai trò gì trong nghiên cứu khoa học? Hãy lấy ví dụ 5 dạng trích dẫn
sai trong trích dẫn khoa học và giải thích vì sao sai?
Trả lời:
1. Phân tích sự khác nhau và giống nhau của câu hỏi đóng và câu hỏi mở? Cho ví dụ
minh họa:
- Khái niệm:
+ Câu hỏi mở: là dạng câu hỏi có số liệu thu thập không có cấu trúc hay số liệu khó được
mã hóa. Câu hỏi cho phép câu trả lời mở và có các diễn tả, suy nghĩ khác nhau hơn là ép hoặc
định hướng cho người trả lời.
+ Câu hỏi đóng: là câu hỏi đã được xây dựng các phương án trả lời và người trả lời chỉ
việc lựa chọn một hoặc nhiều phương án phù hợp. Là dạng câu hỏi có số liệu thu thập có thể
tương đối dễ dàng phân tích, mã hóa nhưng nó giới hạn sự trả lời.
- Sự giống nhau của

câu hỏi mở và câu hỏi đóng:
+ Là một công cụ dùng để thu thập dữ liệu.
+ Là phương tiện dùng để giao tiếp giữa người nghiên cứu và người trả lời trong tất cả các
phương pháp phỏng vấn.
- Sự khác nhau giữa câu hỏi mở và câu hỏi đóng:
Câu hỏi đóng
Câu hỏi mở
- Người trả lời theo cấu trúc phương án trả - Cho phép người được hỏi linh động hơn
lời đã được sắp đặt sẵn
trong câu trả lời
- Có độ chính xác và dễ mã hóa số liệu
- Độ chính xác của thông tin phụ thuộc rât
nhiều vào trình độ hiểu biết, ý thức cá
nhân và tâm trạng của người trả lời. Rất
khó để mã hóa số liệu
- Thông tin thu được giới hạn trọng phạm - Thu được thông tin mang tính chiều sâu
vi nghiên cứu của từng vấn đề cụ thể
Ví dụ: Bạn hãy đánh dấu vào nhãn hiệu Ví dụ: Nguyên nhân nào bạn nghĩ là quan
kem đánh răng mà bạn sử dụng nhiều nhất trọng về việc bùng nổ dân số ở Việt Nam
trong danh sách các nhãn hiệu liệt kê dưới trong 5 năm tới?
đây (chỉ chọn 1 phương án trả lời):
Nhãn P/S □ ; nhãn Colgate □; nhãn
Close-up□; nhãn Fresh □; nhãn khác □
(ghi rõ tên)
2. Trích dẫn đóng vai trò gì trong nghiên cứu khoa học? Hãy lấy ví dụ 5 dạng trích
dẫn sai trong trích dẫn khoa học và giải thích vì sao sai?
a. Vai trò của trích dẫn trong nghiên cứu khoa học:
- Thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả của các nguồn thông tin được sử dụng.
- Tránh vi phạm bản quyền.
- Tránh được lỗi đạo văn. .

- Giúp người đọc thẩm định tính chính xác của thông tin đã sử dụng hoặ truy cập lại các
nguồn thông tin đó
- Nâng cao độ tin cậy, giá trị, và độ sâu rộng của bài viết
b. 5 ví dụ sai trong trích dẫn khoa học và giải thích tại sao:
- Ví dụ 1: Nguyễn Kim Sơn, Phạm Hùng Vân, Nguyễn Bảo Sơn và cộng sự (2010). Tạp chí
nghiên cứu y học, 3, 30-37. Đột biến gen mã hóa EGFR trong ung thư phổi.
Giải thích: Tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, tập san được trình bày: Họ và tên
tác giả được viết đầy đủ đối với tên người Việt Nam; Họ (viết đầy đủ), tên gọi và tên đệm (viết

15


tắt) đối với tên người nước ngoài. Nếu bài báo có nhiều tác giả, cần ghi tên 3 tác giả đầu và cộng
sự (et al-tiếng Anh), năm xuất bản (trong ngoặc đơn). Tên bài báo. Tên tạp chí, tập san (ghi
nghiêng), tập (số, không có dấu ngăn cách, đặt trong ngoặc đơn, dấu phẩy sau ngoặc đơn), các số
trang (gạch nối giữa hai số, dấu chấm kết thúc). Phương án đúng: Nguyễn Kim Sơn, Phạm Hùng
Vân, Nguyễn Bảo Sơn và cộng sự (2010). Đột biến gen mã hóa EGFR trong ung thư phổi. Tạp
chí nghiên cứu y học, 3, 30-37.
- Ví dụ 2: Trần Thừa (1999). Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, Kinh tế học vĩ mô.
Giải thích: Tài liệu là sách phải ghi: Tên tác giả hoặc cơ quan ban hành; năm xuất bản (đặt
trong ngoặc đơn). Tên sách (ghi nghiêng, dấu phẩy cuối), lần xuất bản (chỉ ghi mục này với lần
xuất bản thứ hai trở đi), nhà xuất bản (dấu phẩy cuối tên nhà xuất bản); nơi xuất bản (ghi tên
thành phố, không phải ghi tên quốc gia, đặt dấu chấm kết thúc). Nếu sách có hai tác giả thì sử
dụng chữ và (hoặc chữ and) để nối tên hai tác giả. Nếu sách có 3 tác giả trở lên thì ghi tên tác giả
thứ nhất và cụm từ cộng sự (hoặc et al.). Phương án đúng: Trần Thừa (1999). Kinh tế học vĩ mô
(in nghiêng), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
- Ví dụ 3: Đoàn Quốc Hưng - 2006. Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ngoại
khoa bệnh thiếu máu chi dưới mạn tính do vữa xơ động mạch, Luận án tiến sĩ y học, Trường Đại
học Y Hà Nội.
Giải thích: Tài liệu tham khảo là luận án, luận văn, khóa luận ghi như sau: Tên tác giả,

năm xuất bản (đặt trong ngoặc đơn). Tên đề tài luận án, luận văn (ghi nghiêng, dấu phẩy cuối tên
luận án/luận văn), bậc học, tên chính thức của cơ sở đào tạo. Phương án đúng: Đoàn Quốc Hưng
(2006). Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ngoại khoa bệnh thiếu máu chi dưới mạn
tính do vữa xơ động mạch (in nghiêng), Luận án tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
- Ví dụ 4: Phạm Hải Bằng, Nguyễn Đức Chính, Phạm Văn Trung và cs (2013). Nhận xét
tình hình bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS điều trị tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2010-2012.
Trường Đại học Y Hà Nội ngày 2-3/12/2013, Bộ Y tế, 342-346, Hội nghị khoa học quốc gia về
phòng chống HIV/AIDS lần thứ V.
Giải thích: Tài liệu tham khảo là bài báo đăng trong các kỷ yếu của hội nghị, hội thảo,
diễn đàn... ghi như sau: Tên tác giả (năm). Tên bài báo. Tên kỷ yếu/tên hội nghị/diễn đàn (ghi
nghiêng), Địa điểm, thời gian tổ chức, cơ quan tổ chức, số thứ tự trang của bài báo trong kỷ yếu.
Phương án đúng: Nguyễn Đức Chính, Phạm Hải Bằng, Phạm Văn Trung và cs (2013). Nhận xét
tình hình bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS điều trị tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2010-2012. Hội
nghị khoa học quốc gia về phòng chống HIV/AIDS lần thứ V(in nghiêng), Trường Đại học Y Hà
Nội ngày 2-3/12/2013, Bộ Y tế, 342-346.
- Ví dụ 5: Giáo trình Hóa sinh lâm sàng. Tạ Thành Văn, 2013. Nhà xuất bản Y học,
Trường Đại học Y Hà Nội.
Giải thích: Tài liệu tham khảo là các giáo trình, bài giảng hay tài liệu lưu hành nội bộ ghi
như sau: Cung cấp thông tin cơ bản về tên tác giả, năm xuất bản, tên giáo trình, bài giảng, nhà
xuất bản (nếu có), đơn vị chủ quản. Phương án đúng: Tạ Thành Văn (2013). Giáo trình Hóa sinh
lâm sàng(in nghiêng). Nhà xuất bản Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

16


Câu 9: 1. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa phương pháp luận, phương pháp và công
cụ trong nghiên cứu khoa học? Cho ví dụ minh họa?
2. Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng trong những dự án nghiên cứu nào? Vì
sao phải sử dụng nghiên cứu định lượng thay vì nghiên cứu định tính?
Trả lời:

1. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa phương pháp luận, phương pháp và
công cụ trong nghiên cứu khoa học? Cho ví dụ minh họa?
* Phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Khái niệm:
Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách
tiếp cận ta có thể phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ở mức độ chung nhất, khoa học được
hiểu như sau: Khoa học là hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn và được chứng
minh, khẳng định bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học.
Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi
vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học.
Phương pháp là công cụ, giải pháp, cách thức, thủ pháp, con đường, bí quyết, quy trình công
nghệ để chúng ta thực hiện công việc nghiên cứu khoa học. Bản chất của nghiên cứu khoa học là
từ những hiện tượng chúng ta cảm nhận được để tìm ra các quy luật của các hiện tượng đó.
Nhưng bản chất bao giờ cũng nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng, vì vậy để nhận ra được bản
chất nằm sâu trong nhiều tầng hiện tượng và nhận ra được quy luật vận động của chúng đòi hỏi
chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Như vậy phương pháp chính là sản phẩm của
sự nhận thức đúng quy luật của đối tượng nghiên cứu.
Như vậy, bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng
một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng nhưmột phương tiện để khám phá chính
đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu chính là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích
sáng tạo.
Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện
kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau
nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương
pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp,
nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các
phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.
* Phương pháp luận nghiên cứu khoa học:
Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái niệm gần nhau
nhưng không đồng nhất. Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm(trước hết là

những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây
dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho
việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Nói cách khác
thì phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp bao hàm hệ thống các phương pháp, thế
giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các
vấn đề đã đặt ra.
Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường
mang màu sắc triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất với triết học (như thế giới quan) để tiếp
cận và nhận thức thế giới.
2. Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng trong những dự án nghiên cứu nào? Vì
sao phải sử dụng nghiên cứu định lượng thay vì nghiên cứu định tính?
a. Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng trong những dự án:
- Khái niệm: Nghiên cứu định lượng là nghiên cứu sử dụng các phương pháp khác nhau
(chủ yếu là thống kê) để lượng hóa, đo lường, phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các
nhân tố (các biến) với nhau.

17


Ví dụ: Đo lường mức độ hài lòng KH đối với chất lượng dịch vụ, đo lường mức độ trung
thành của người LĐ, vv.
- Nghiên cứu định lượng thường được sử dụng trong dự án nghiên cứu nào: Ứng dụng
nghiên cứu trong kinh tế, kinh doanh, nghiên cứu hài lòng khách hàng, đánh giá lao động trong tổ
chức, đánh giá chấp nhận công nghệ, dịch vụ mới, đánh giá hành vi khách hàng, đánh giá thu hút
đầu tư vào địa phương; các dự án liên trong lĩnh vực toán học, vật lý…… Và rất nhiều thứ khác,
tùy mục đích nhà nghiên cứu.
b. Vì sao phải sử dụng nghiên cứu định lượng thay vì nghiên cứu định tính: Làm tăng tính tin
cậy của các nghiên cứu như: Sự logic trong khái quát vấn đề, đánh giá, phản ánh các quan hệ với
độ tin cậy xác định về mặt thống kê. Kết quả đầu ra được cụ thể hóa và có thể đo lượng một cách
cụ thể.


18


Câu 10: 1. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa hai quy trình suy diễn và quy nạp? Cho
ví dụ minh họa.
2. Nghiên cứu định tính thường được sử dụng trong những dự án nghiên cứu nào?
Vì sao phải sử dụng nghiên cứu định tính thay vì nghiên cứu định lượng?
Trả lời:
1. Cho biết sự khác nhau và giống nhau giữa hai quy trình suy diễn và quy nạp? Cho
ví dụ minh họa.
* Khác nhau:
- Quy trình quy nạp:
Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng rẽ, rời rạc, độc lập
ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó.
Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy nạp thành những
nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của nghiên cứu quy nạp là sự lặp lại của một số hiện tượng
này hay hiện tượng khác do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng. Phương pháp
quy nạp đi sâu vào mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Một hiện tượng bộc lộ nhiều bản
chất. Nhiệm vụ của khoa học là thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, cuối cùng đưa ra giải
pháp. Phương pháp quy nạp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện ra các quy luật, rút
ra từ những kết luận tổng quát đưa ra các giả thiết.
- Quy trình suy diễn:
Phương pháp suy diễn ngược lại với phương pháp quy nạp. Đó là phương pháp đi từ cái
bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các hiện tượng, các biểu hiện, cái
trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng.
Phương pháp suy diễn nhờ vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn khoa học
thiên về nghiên cứu lý thuyết, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả thuyết và bằng những suy
diễn lôgic để rút ra những kết luận, định lý, công thức.
- Quy nạp và suy diễn là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều hướng ngược nhau, liên

hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có những kết
quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển
theo phương pháp suy diễn. Phương pháp suy diễn vì vậy mở rộng giá trị của những kết luận quy
nạp vào việc nghiên cứu đối tượng.
* Giống nhau:
Cả hai phương pháp đều nghiên cứu và tìm ra bản chất của các hiện tượng, sự vật thông
qua mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự vật đó (chỗ này cần nghiên cứu thêm).
* Ví dụ minh họa:
- Ví dụ về suy luận suy diễn:
Tiền đề chính: Tất cả những người bán kem đều đội mũ trắng
Tiền đề phụ: Trung là một người bán kem
Kết luận: Trung đội mũ trắng
- Ví dụ về suy luận quy nạp:
Tiền đề riêng: Nam, Bắc, Đông và Tây tham dự lớp đều đặn
Tiền đề riêng: Nam, Bắc, Đông và Tây đạt được điểm cao
Kết luận: Sinh viên tham dự lớp đều đặn thì đạt được điểm cao
2. Nghiên cứu định tính thường được sử dụng trong những dự án nghiên cứu nào? Vì
sao phải sử dụng nghiên cứu định tính thay vì nghiên cứu định lượng?
* Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu định tính:
Nghiên cứu định tính là một phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc
điểm văn hóa và hành vi của con người và của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi
nghiên cứu được tiến hành. Đời sống xã hội được nhìn nhận như một chuỗi các sự kiện liên kết
chặt chẽ với nhau mà cần được mô tả một cách đầy đủ để phản ánh được cuộc sống thực tế hàng

19


ngày. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính biện chứng.
Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể

chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định tính, một số câu hỏi nghiên cứu và phương
pháp thu thập thông tin được chuẩn bị trước, nhưng chúng có thể được điều chỉnh cho phù hợp
khi những thông tin mới xuất hiện trong quá trình thu thập.
Nghiên cứu định tính thường được sử dụng trong những dự án nghiên cứu về nhân chủng
học, lĩnh vực sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống sốt rét, sức khoẻ sinh sản và AIDS,

* Vì sao phải sử dụng nghiên cứu định tính thay vì nghiên cứu định lượng:
Lý do lý thuyết dẫn đến nhu cầu phải có nghiên cứu định tính là nó giúp nghiên cứu sâu
sắc hơn về phản ứng của con người và do đó có thể hiểu cặn kẽ hơn về các phản ứng của con
người hơn là thông qua các kỹ thuật nghiên cứu định lượng.
Một lý do nữa dẫn đến việc phải sử dụng đến các kỹ thuật định tính là tự trong bản chất
của nghiên cứu xã hội học định tính và trong việc gắn nó với những gì diễn ra phía sau quá trình
ra quyết định của một cá nhân. Có thể lập luận rằng trong một quá trình nghiên cứu xã hội học
định tính và quá trình nghiên cứu xã hội học nói chung đều chứa đựng các yếu tố chủ quan và
trực giác.
Về giá thành: Nghiên cứu định tính rẻ hơn nhiều so với nghiên cứu định lượng.
Về thời gian: Một vài kỹ thuật nghiên cứu định tính, đặc biệt là kỹ thuật phỏng vấn nhóm
tập trung, có thể được thực hiện và phân tích nhanh chóng mà không cần nhiều tới kỹ thuật xử lý,
phân tích số liệu như trong nghiên cứu định lượng.
Tình mềm dẻo: Một nghiên cứu định tính có thể dễ dàng thay đổi ngay cả khi nó đang
được tiến hành.
Gắn trực tiếp với các mục tiêu cộng đồng. Các kỹ thuật nghiên cứu định tính giúp công tác
quản lý dễ dàng biết được mục tiêu cộng đồng một cách trực tiếp.
Không cần sử dụng nhiều các phương tiện kỹ thuật, nghiên cứu định tính có thể tiến hành
ở những nơi mà không cần có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật.

20


Câu 12: Hãy xác định vấn đề, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu bằng cách chọn một thị trường

(ngành sản xuất kinh doanh), phân tích thị trường này để nhận dạng vấn đề nghiên cứu. Sau
đó tổng kết lý thuyết để đưa ra vấn đề, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu?
Trả lời:
* Chọn thị trường sản xuất kinh doanh là: thị trường sản xuất kinh doanh đá ốp lát tại xã
Đông Hưng – TP. Thanh Hóa.
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đá ốp lát rất phong phú, đa dạng, thị trường tiêu
thụ nội địa và nước ngoài rất rộng lớn, lại có nguồn lao động dồi dào, có năng khiếu tiếp thu
nhanh chóng kỹ thuật. Đây là những tiềm năng to lớn để phát triển. Hơn nữa trong bối cảnh Việt
Nam đã gia nhập WTO tham gia vào thị trường toàn cầu Đá ốp lát nước ta không chỉ lưu thông
trên thị trường nội địa mà còn xuất khẩu ra nước ngoài được thị trường thế giới ưa chuộng và đã
có mặt trên thị trường của 85 nước và vùng lãnh thổ.
Đá ốp lát ở nước ta đã được ra đời trên nghìn năm, bằng bàn tay, trí óc của các nghệ nhân
đã khai thác, đục, đẽo, chế tác ra nhiều sản phẩm đá granite, cẩm thạch góp phần xây dựng nên
nhiều công trình kiến trúc cổ đại. Trong những năm gần đây đá ốp lát đã dần dần phát triển thành
ngành công nghiệp. Từ sản lượng nhỏ bé 0,2 triệu m2 vào năm 1990, lên 0,5 triệu m2 vào năm
1995 và 1,52 triệu m2 năm 2000, đến nay đã tăng lên 6,5 triệu m2 tăng gấp 32 lần so với năm
1990.
Thị trường tiêu thụ đá ốp lát ngày càng mở rộng theo khuynh hướng “kiến trúc thân thiện
với môi trường” dùng đá xây dựng, đá ốp lát trong nhà, sân vườn, làm hàng nội thất tạo ra môi
trường mát mẻ đưa cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Cộng với những yếu tố khác lượng đá ốp
lát tiêu thụ nội địa ở nước ta tăng hàng năm từ 25 – 30% và trong tương lai là thị trường tiêu thụ
lớn.
Nhiều trung tâm khai thác chế biến đá ốp lát đã hình thành ở các địa phương, và một trong
tỉnh nổi bật nhất về thị trường đá ốp lát là tỉnh Thanh Hoá, cụ thể là tại xã Đông Hưng – TP.
Thanh Hóa.
- Xác định vấn đề nghiên cứu là: nghiên cứu thị trường sản xuất kinh doanh đá ốp lát tại xã
Đông Hưng – TP. Thanh Hóa, gồm những vấn đề nghiên cứu sau:
+ Tổng quan về thực trạng thị trường đá ốp lát ở Việt Nam, ở tỉnh Thanh Hóa và tại xã
Đông Hưng – TP. Thanh Hóa.
+ Về tổ chức khai thác, chế biến đá ốp lát

+ Về tiềm năng phát triển
+ Cơ hội đầu tư phát triển
+ Một số giải pháp, cơ chế, chính sách
- Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu về thị trường sản xuất kinh doanh đá ốp lát tại xã Đông
Hưng – TP. Thanh Hóa để thấy được các tiềm lực, tiền năng cũng như những khó khăn, thách
thức để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển thị trường đá ốp lát tại xã Đông Hưng – TP.
Thanh Hóa, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như của đất
nước.
- Câu hỏi nghiên cứu:
+ Đánh giá thực trạng thị trường đá ốp lát ở Việt Nam, ở tỉnh Thanh Hóa và tại xã Đông
Hưng – TP. Thanh Hóa như thế nào?
+ Việc tổ chức khai thác, chế biến đá ốp lát ra sao?
+ Có tiềm năng phát triển như thế nào?
+ Có cơ hội đầu tư phát triển như thế nào?
+ Để phát triển thị trường sản xuất kinh doanh đá ốp lát tại xã Đông Hưng – TP. Thanh
Hòa thì cần đưa ra một số giải pháp, cơ chế, chính sách gì?

21


Câu 13: Chọn một chủ đề cần dùng phương pháp định tính và xây dựng đề cương nghiên cứu
về chủ đề này.
Nghiên cứu định tính là một phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc
điểm văn hóa và hành vi của con người và của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi
nghiên cứu được tiến hành. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và
có tính biện chứng. Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà
nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định tính, một số câu hỏi
nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin được chuẩn bị trước, nhưng chúng có thể được
điều chỉnh cho phù hợp khi những thông tin mới xuất hiện trong quá trình thu thập. Đó là một

trong những khác biệt cơ bản giữa phương pháp định tính và phương pháp định lượng.
Các kỹ năng cần cho nghiên cứu định tính là: suy nghĩ trừu tượng, phân tích tình hình
mang tính phê phán, ...Trong nghiên cứu định tính dữ liệu thu thập chủ yếu ở dạng định tính
(dạng chữ, không thể đo lường bằng số lượng. Dữ liệu định tính là các dữ liệu trả lời cho các câu
hỏi: Thế nào?, cái gì?, tại sao?, ...
Phương pháp nghiên cứu định tính có đặc điểm: Thăm dò, tiếp cận quy nạp, tương tác và
phản hồi, mềm dẻo.
Lựa chọn chủ đề cần dùng phương pháp định tính “Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng
Việt Nam về sản phẩm xe máy” (Có thể lựa chọn chủ đề khác tương tự)
Đề cương
Mục lục
Chương 1. Phần mở đầu
1.1. Sự cần thiết lựa chọn chủ đề
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chương 2. Phương pháp luận và các phương pháp định tính nghiên cứu hành vi người tiêu
dùng
2.1. Tổng quan về lý thuyết hành vi người tiêu dùng
2.1.1. Khái niệm và mối quan hệ của lý thuyết hành vi người tiêu dùng với maketting và
các khoa học xã hội khác
2.1.2. Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng
2.1.3. Các quá trình cơ bản của hành vi mua
2.1.4. Các yếu tố cá nhân của người tiêu dùng tác động đến hành vi của người tiêu dùng
2.1.5. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng
2.2. Cơ sở luận hình thành các phương pháp nghiên cứu maketting và hành vi người tiêu
dùng
2.2.1. Khái niệm về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
2.2.2. Phương pháp luận chứng thực và các hạn chế của nó trong nghiên cứu hành vi người
tiêu dùng
2.2.3. Cơ sở luận diễn giải hiện tượng hình thành các phương pháp nghiên cứu định tính

2.3. Các phương pháp định tính ứng dụng trong nghiên cứu maketting và hành vi người
tiêu dùng
2.3.1. Các phương pháp định tính gắn với cá nhân
2.3.2. Các phương pháp định tính gắn với nhóm
2.3.3. Các kỹ thuật liên tưởng
2.3.4. Các kỹ thuật nghiên cứu ý nghĩa
2.3.5. Phân tích nội dung thông tin định tính
Chương 3. Áp dụng một số phương pháp định tính trong nghiên cứu hành vi người tiêu
dùng xe máy
3.1. Khái quát về các nhãn hiệu xe máy trên thị trường Việt Nam

22


3.1.1. Khái quát chung về thị trường xe máy Việt Nam
3.1.2. Một số nhãn hiệu xe máy chủ yếu trên thị trường Việt Nam
3.2. Áp dụng phương pháp phỏng vấn cá nhân chuyên sâu trong nghiên cứu hành vi người
tiêu dùng xe máy
3.2.1. Quá trình phỏng vấn cá nhân chuyên sâu người tiêu dùng
3.2.2. Kết quả phân tích thông tin từ phỏng vấn cá nhân chuyên sâu người tiêu dùng xe
máy
3.3. Áp dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu hành vì người tiêu dùng xe máy
3.3.1. Quá trình quan sát người tiêu dùng xe máy
3.3.2. Kết quả phân tích thông tin quan sát hành vi người tiêu dùng
3.4. Áp dụng phương pháp định tính gắn với nhóm trong nghiên cứu hành vi người tiêu
dùng xe máy
3.4.1. Quá trình phỏng vấn nhóm tập trung người tiêu dùng xe máy
3.4.2. Kết quả phân tích thông tin phỏng vấn nhóm tập trung người tiêu dùng xe máy
Chương 4. Tổng hợp kết quả và bài học rút ra từ cuộc nghiên cứu.
4.1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu hành vi người tiêu dùng xe máy

4.1.1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu định tính theo mô hình hành vi cơ sở
4.1.2. Mô hình lý thuyết phát triển từ kết quả nghiên cứu
4.2. Bài học rút ra về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu hành vi người
tiêu dùng
4.2.1. Bài học rút ra về phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu hành vi người tiêu dùng
4.2.2. Bài học rút ra về mặt phương pháp tiếp cận định tính trong nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng
4.2.3. Quy trình và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu định tính
4.3. Ý nghĩa của việc sử dụng phương pháp định tính nghiên cứu hành vi người tiêu dùng
Việt Nam về sản phẩm xe máy
Chương 5. Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phần phụ lục

23


Câu 14: Chọn một chủ đề cần dùng phương pháp định lượng và xây dựng đề cương nghiên
cứu về chủ đề này.
Trả lời:
* Đề tài cần dùng phương pháp định lượng: “Đo lường sự hài lòng của khách hàng khi sử
dụng sản phẩm mạng di động Viettel” (có thể lựa chọn các đề tài khác nhau nhưng đề cương cơ
bản là giống nhau).
* Đề cương của chủ đề:
Mục lục
Lời mở đầu
Chương 1: Khung lý thuyết dùng phương pháp định lượng
I. Nghiên cứu định lượng
1. Khái niệm, mục tiêu, đặc điểm của nghiên cứu định lượng
1.1. Khái niệm

1.2. Mục tiêu
1.3. Đặc điểm
2. Phương pháp, công cụ nghiên cứu và dữ liệu trong nghiên cứu định lượng
2.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng
2.2. Công cụ nghiên cứu định lượng
2.3. Dữ liệu trong nghiên cứu định lượng
II. Quy trình nghiên cứu định lượng
1. Xác định câu hỏi nghiên cứu
2. Xây dựng các lý thuyết sử dụng vào nghiên cứu, mô hình giả thuyết
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thang đo lường
3.2. Chọn mẫu và thu thập dữ liệu
3.3. Cách phân tích dữ liệu
4. Kết quả nghiên cứu
5. Trao đổi và bàn luận
Chương 2. Mô tả quy trình nghiên cứu định lượng vào vấn đề đo lường sự hài lòng của
khách hàng khi sử dụng sản phẩm mạng di động Viettel
I. Lựa chọn vấn đề và mục tiêu nghiên cứu vấn đề
1. Lựa chọn vấn đề nghiên cưu
2. Giới thiệu tổng quan về tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel
3. Mục tiêu nghiên cứu
II. Mô tả quy trình nghiên cứu định lượng vào vấn đề đo lường sự hài lòng của khách hàng
khi sử dụng sản phẩm mạng di động Viettel
1. Câu hỏi nghiên cứu
2. Xác định lý thuyết sử dụng vào nghiên cứu, mô hình giả thuyết
2.1. Các lý thuyết sử dụng vào nghiên cứu
2.2. Mô hình giả thuyết
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thang đo lường
3.2. Chọn mẫu và thu thập dữ liệu

3.3. Cách phân tích dữ liệu
4. Kết quả nghiên cứu
5. Trao đổi, bàn luận
5.1. Soi lại lý thuyết và đưa ra đóng góp mới
5.2. Khả năng ứng dụng kết quả
Chương 3. Kết luận

24


Câu 15: Tổng kết sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, có nhận định: "Đất nước đã vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến
lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh
tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật
chất - kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được
nâng lên. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt kết quả nổi bật. Chính trị - xã hội ổn
định. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững. Thế và lực
của đất nước vững mạnh thêm, vị thế quốc tế của nước ta được nâng lên rõ rệt".
Yêu cầu:
1.1 Từ nhận định trên, bạn hãy liên hệ và phát hiện các vấn đề nghiên cứu.
1.2 Qua đó, lựa chọn một đề tài nghiên cứu khoa học
1.3 Xây dựng mục tiêu nghiên cứu, xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
1.4. Anh/Chị hãy xây dựng và chứng minh giả thuyết khoa học:
- Tên đề tài
- Chỉ rõ các câu hỏi nghiên cứu
- Trình bày một giả thuyết khoa học
1.5. Hãy đặt tên và trình bày đề cương một bài báo khoa học mà Anh/Chị dự kiến đăng
trên một tạp chí khoa học chuyên ngành.

Bài làm:
1.1. Từ nhận định trên, liên hệ và phát hiện các vấn đề nghiên cứu:
Trong sự nghiệp đổi mới, đất nước đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được
những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Để phát huy, phát triển được các
thành tựu đó thì mỗi tỉnh, mỗi địa phương trên đất nước cần phải phát huy tối đa tiềm lực phát
triển của tỉnh, địa phương mình đang có. Và Thanh Hóa là một trong những tỉnh có rất nhiều thế
mạnh, tiềm lực để phát triển và một trong những tiềm năng đó là tiềm năng về du lịch.
Trong những năm qua, du lịch Thanh Hóa đã và đang phát triển nhanh chóng và ngày càng
thu hút được sự quan tâm rộng rãi của du khách trong nước và nước ngoài. Ngoài ý nghĩa góp
phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng; sự phát triển du lịch đã và
đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập
cho quốc gia cũng như cộng đồng người dân Thanh Hóa. Tuy nhiên, hiện nay trong việc phát
triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa vẫn còn tồn tại nhiều cơ hội và thách thức.
Việc nghiên cứu những cơ hội và thách thức để tìm ra những giải pháp nhằm phát triển tiền
năng du lịch tỉnh Thanh Hóa là một vấn đề đã được nhiều chuyên viên nghiên cứu quan tâm. Tuy
nhiên kết quả nghiên cứu chưa thật đầy đủ và có tính hệ thống. Mặt khác, vấn đề nghiên cứu còn
phải phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn phát triển của từng loại hình du lịch tại địa phương.
Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải
pháp nhằm phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hoá”.
1.2. Lựa chọn đề tài nghiên cứu: Một số giải pháp nhằm phát triển tiềm năng du lịch tỉnh
Thanh Hóa.
1.3. Xây dựng mục tiêu nghiên cứu, xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu một số giải pháp nhằm phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa..
- Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp nhằm phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa
1.4. Anh/Chị hãy xây dựng và chứng minh giả thuyết khoa học:
- Tên đề tài: Một số giải pháp nhằm phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa.
- Chỉ rõ các câu hỏi nghiên cứu:


25


×