Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

NỀN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM, lý LUẬN và THỰC TIỄN SAU 20 năm đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.63 KB, 27 trang )

Lời nói đầu
Việt Nam đang trên con đường hội nhập kinh tế sau hơn
20 năm đổi mới. Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
về phát triển kinh tế. Sau khi thống nhất đất nước, kinh tế nước
nhà kém phát triển do bị chiến tranh tàn phá và đường lối phát
triển kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh
tế phát triển trì trệ, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, kết
cấu sơ sở hạ tầng xuống cấp. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng
toàn quốc lân thứ VI đã đặt ra con đường đổi mới đất nước, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất
là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển
kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và đến năm
2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức WTO. Và cũng từ đây vị thế của Việt Nam đang được nâng
cao trên trường quốc tế. Việt Nam đang là điểm đến của các
nhà đầu tư trên thế giới. Những thành tựu trên càng khẳng định
đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta hơn 20 năm qua. Để
tiếp tục con đường đổi mới thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp phát triển. Điều đó đòi hỏi mỗi
sinh viên cần phải cố gắng học tập, rèn luyện để tiếp thu các
kiến thức khoa học kỹ thuật phục vụ cho công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước. Chính vì thế em đã chọn đề tài “ Nền kinh

1



tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lý luận và
thực tiễn sau 20 năm đổi mới ”.
Với những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế,
những sai sót mắc phải trong khi thực hiện sẽ là điều không thể
tránh khỏi, em rất mong nhận được những lời phê bình và góp ý
quý giá của thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


I. những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Lý luận chung về kinh tế thị trường
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế
hàng hoá,trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của
sản xuất đêu thông qua thị trường, lấy tièn tệ làm môi giới.
Kinh tế thị trường được coi như một hệ thống các quan hệ
kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện
qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường (người bán cần
tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường )
thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội,
trong đó, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là
hướng vào việc tìm kiếm lợi ích cuả chính mình theo sự dẫn dắt
của giá cả thị trường.
1.2 Cơ sở khách quan hình thành kinh tế thị trường

- Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung
của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi mà trái lại
còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công
lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng
phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện
ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản
phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
3


- Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ
kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động
quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một
quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá
đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải
theo nguyên tắc ngang giá.
1.3 Đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường
- Thứ nhất, yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng. Việc
cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động làm cho sản phẩm
hàng hoá phong phú đa dạng, giá thành hạ, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh. Bởi mục đích của người sử dụng
hàng hoá là có lãi cao nhất, do đó họ phải làm thế nào để có giá
trị cá biệt của hàng hoá là thấp nhất. Muốn vậy, họ phải tăng
năng suất lao động. Vì vậy phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình
độ tay nghề, tổ chức quản lý sản xuất trong đó yếu tố quan
trọng nhất, yếu tố có tính chất quyết định là kỹ thuật. Cải tiến
kỹ thuật lúc đầu ứng dụng ở từng người, từng Xí nghiệp sau lan
rộng ra toàn xã hội làm xuất hiện một ngành mới và như vậy lực
lượng sản xuất đã phát triển thêm một bước.
- Thứ hai, sự phân công lao động xã hội phát triển nhanh

chóng làm cho sự chuyên môn hoá và hiệp tác hoá ngày càng
cao. Do đó, quá trình xã hội hoá sản xuất, xã hội hoá lao động
phát triển nhanh. Đó là xu hướng phát triển của nền kinh tế
hiện đại.
- Thứ ba, quá trình tích tụ tập trung sản xuất cao độ các
mối quan hệ kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế
tăng trưởng và phát triển nhanh.
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4


2.1 Đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao: các chủ thể
trong nền kinht tế thị trường gồm:doanh nghiệp, cá nhân, nhà
nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế, các quyết
định trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm vê tính khả thi các
quyết sách, quyết định và phải gánh chịu rủi ro nếu có.
- Dung lượng, chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế thị
trường rất phong phú, đa dạng nên mọi nhu câu tiêu dùng của
con người dễ dàng được thoả mãn.
- Giá cả được xác định ngay trên thị trường.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường.
- Nền kinh tế thị trường nếu là nền kinh tế thị trường hiện
đại thì còn có sự điều tiết của nhà nước.
2.2 Đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ngoài những đặc trưng chung ở trên còn có:
- Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Mục tiêu chiến lược của đường lối phát triển kinh tế thị

trường ở Việt Nam là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi
nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá và
hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời
sống nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội.

5


- Nền kinh tế thị trường hiện đại gắn với tính chất XHCN
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây
dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện
đại (xã hội XHCN). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong
tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển
sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới
đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những
khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta
không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế
hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào
phát triển thị trường thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu
cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm
trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên, sự phát triển
kinh tế - xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết,
khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút
ngắn. Sự nghiệp "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và
Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giầu
một cách hợp pháp. Dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân

giầu phải làm cho nước mạnh đảm bảo độc lập, tự chủ và toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia.
- Nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường phải là một nền
kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền
kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị
trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “ bàn tay hữu
hình ” của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó.
6


Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của
nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát
triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước là thông qua các công
cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh
tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở
một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “ mạch
máu ” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn
bó hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh
tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình
kinh tế. Nhưng khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị
trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân
và vì dân”, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh,
khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng
XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở
nước ta. Sự khác biệt về bản chất là một nội dung và là một
điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình
kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị
trường khác hiện có trên thế giới.

7


- Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông
qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà
nước
Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế
được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh - hợp tác...) sẽ chi phối các hoạt động
kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt
động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy
định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất - kinh
doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một
cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách
kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của
mình (kinh tế Nhà nước). Nhà nước tác động lên mối quan hệ
tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị
trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường
điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan
hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ
hữu cơ, thống nhất.
- Mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc

lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội
hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát
triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về
phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của
kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với
nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những
khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở
thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa
8


học - công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù
muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các
quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh
nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất
thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế
thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền
kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội
nhập với kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện
trên ba nội dung chính là: thương mại; đầu tư và chuyển giao
khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có
nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát
huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ
của quốc gia.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội
Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là
những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay.
Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát

triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp
nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và
được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng
và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư và gữa các vùng. Khác với nhiều
nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương
bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn
phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh
rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với
9


chủ nghĩa bình quân, cao bằng thu nhập và “ chia đều sự đói
nghèo ” cho mọi người. Mức độ bảo đảm sự công bằng xã hội
phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh
tế của quốc gia. Vì vậy, nếu quá nhấn mạnh tới sự công bằng xã
hội trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn
eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệu tiêu động lực phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
- Giải quyết mối quan hệ lao động và tư bản thông qua
phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
Việc giải quyết mối quan hệ trên được thực hiện theo kết
quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài
sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong
CNTB với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động
sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB coi
trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ.

Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao
động, CNTB nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố
lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến nhân tố tích luỹ - đầu
tư hơn là yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động.
Ngược lại CNXH đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát
triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành quả lao động
của xã hội, CNXH nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động
sống) và yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động. Tuy
nhiên, trong khi nhấn mạnh đến yếu tố lao động, đến nâng cao
thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể
không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cường tích
luỹ và đầu tư (cả nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện
chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo cơ
10


sở đó mới gia tăng số người giầu có trong xã hội. Tăng số người
có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong
xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo vừa
là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu
nhập và chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta phải là “ quá trình thực hiện dân giàu,
nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm
chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công,
tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc ”.
3. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đại hội VII của Đảng đã xác định, đổi mới cơ chế kinh tế ở
nước ta là một tất yếu khách quan. Đổi mới để nâng cao chất
lượng cuộc sống, để phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng
phát triển chung của kinh tế thế giới. Vì với cơ chế kinh tế cũ,
với việc bao cấp tràn lan, quản lý kinh tế kém hiệu quả thì việc
sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng dẫn đến không thể
tích luỹ để mở rộng sản xuất dẫn đến thiếu hụt ngân sách, làm
cho nền kinh tế đình trệ. Đặc trưng của kinh tế chỉ huy là rất
cứng nhắc nó chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế trong
giai đoạn ngắn hạn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế
theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài
nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc

11


thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng
tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh đó, thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ,
còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản là thị
trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp. Xét
về mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đang hoà
nhập so với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá
dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động
của nền kinh tế gần gũi hơn với thị trường kinh tế thị trường thế
giới. Tương quan giá cả của các chủng loại hàng hoá trong nước
gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. Việc
chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường thúc sản xuất và

cạnh tranh hàng hoá không chỉ trong nước mà vượt qua cả ranh
giới trong nước cạnh tranh với nước ngoài về các loại sản phẩm
như: hàng tiêu dùng, thuỷ sản.... làm tăng kim ngạch xuất khẩu,
tích luỹ vốn để mở rộng và tái sản xuất. Điều này phù hợp với
xu hướng phát triển kinh tế của thế giới: đó là sự phát triển kinh
tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập
quốc tế. Mỗi quốc gia đều phải tích cực áp dụng các phương
pháp khoa học kỹ thuật mới để cạnh tranh với nhau, đó là động
lực để thúc đẩy kinh tế. Sự cạnh tranh lành mạnh trong nước,
giữa các nước với nhau sẽ nâng cao năng suất lao động, tạo ra
nhiều của cải vật chất cho mỗi quốc gia, nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của nhân loại.
Đổi mới cơ chế kinh tế không chỉ có ý nghĩa về lĩnh vực
kinh tế mà còn có tác dụng về mặt chính trị xã hội. Chuyển
sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, nước ta đã có điều
kiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế, chính trị và trong các
12


mối quan hệ có tính chất xã hội như: bảo vệ môi trường, chống
chiến tranh hạt nhân, xoá đói giảm nghèo... trong sự liên hệ
giữa các quốc gia.
Như vậy: Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và
theo định hướng XHCN là cần thiết và là một tất yếu khách
quan.
Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp
giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự
cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và

quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu "đòn xeo" là kinh tế hàng hoá.
Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất
phát điểm và điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được
đối với sự ra đời và sản xuất của nền sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lênin cũng chủ trương thi hành chính
sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất, đó sự phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của
nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông
thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ
hàng hoá tiền tệ, thị trường.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có
đặc điểm khác với Đông Âu và Liên Xô (cũ). Những nước này đã
có nền kinh tế phát triển . Nền kinh tế đã được cơ khí hoá,
không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta,
quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết
13


là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp
tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở
nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế
hoạch hoá tập trung. Nó gần như đối lập với thị trường, kinh tế
thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường được coi
là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất xã
hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh
tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị
trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở,
nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Kinh tế “khép” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với
sản xuất nhỏ mang nặng tính cục bộ địa phương chủ nghĩa và
với tình trạng “bế quan toả cảng”. Chính sự xuất hiện và phát
triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ truyền
thống của kinh tế khép kín. Sự phát triển của tư bản chủ nghĩa
đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làm cho thị trường dân tộc gắn
bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá
đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng ra khỏi phạm vi
quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Kinh
tế mở là đặc điểm và là xu thuế của thời đại ngày nay mà bất
kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế, chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, chúng ta đã
chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương,
quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị,
theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau.
14


Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế
đối ngoại nói trên hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta có những
tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên
dưới 20% hàng năm (1986 - 1992) đảm bảo nhập khẩu các loại
vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh toán
quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục
được những hẫng hụt về thị trường và nguồn vốn từ các nước

SNG và Đông Âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
cũng tăng nhanh.
Trong những năm tiếp theo, nước ta cần phải biết phát huy
lợi thế so sánh: nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn
nhân lực dồi dài với tiền công thấp, vị trí địa lý lãnh thổ thuận
lợi. Tiếp tục phát huy và coi trọng các giá trị truyền thống,
nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng thị
trường khu vực, cải tiến xuất khẩu theo xu hướng tăng tỷ trọng
các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhiên liệu, tạo
ra các sản phẩm chủ lực như dầu mỏ, nông - lâm - thuỷ sản...
Đồng thời Nhà nước có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.

II. thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở
nước ta còn ở trình độ kém phát triển
Nguyên nhân:

15


- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh
một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật
và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ
kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ
công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, máy móc thiết bị lạc hậu 2/3

thế hệ( có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và
thế giới( năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức
trung bình thế giới).
- Kết cấu của hạ tầng như hệ thống đương giao thông, bến
cảng , hệ thống thông tin liên lạc …còn lạc hậu , kém phát triển
(mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của
thế giới; tốc độ truyền thông trung bình của cả nước chậm hơn
thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho
các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm
cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai
thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để
phát huy thế mạnh.
- Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho
phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông
nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực
lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các
ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
- Khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp trên thị
trường trong nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ lạc hậu nên năng suất
lao động thấp, do đó khối lượng hàng hoá còn nhỏ bé, chủng
16


loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả
cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
1.2 Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá

trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn
được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông
hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn
hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập
lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số
trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất
hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật
của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn
cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại
vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động lại không tìm được
việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì
vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại
huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong
két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến
mức báo động.Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa
có nhiều “ hàng hoá” để mua – bán và mới có rất ít doanh
nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.

17


1.3 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
Vì vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất
hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng

hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
1.4 Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở
rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực
và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các

nước

khác.
Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra
chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách
thức hết sức gay gắt. Nhưng đó là xu thế tất yếu khách quan
nên không đặt vấn đề nên tham gia hay không tham gia mà chỉ
có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào?
Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào
khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của
nước ta, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối
ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.5 Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu
Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa
sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
2. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

18


Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Dưới dây là

những giải pháp chủ yếu nhất:
2.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần
Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị
trường, chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai
hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy khi
chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường
cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hoá các
hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể
kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong
những cơ ở của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao
hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục
tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thanh phần kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần
đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật,
đều được khuyến khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có
hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của
nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực
hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với
những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở
19


các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần

kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các
doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công tyđối
với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước,
doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trưòng, tự
chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng
trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác
xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất, kinh
doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp
tác xã theo Luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân) phát triển ở cả thành thị và nông
thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ
phát triển có hiệu quả. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới
các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và
ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng
khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ
hiện đại.
2.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiẹn đại hoá, ứng
dụng nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ; trên cơ sở đó
đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá, phải
đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của
phân công lao động xã hội do sự phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã
20



hội cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để
xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần
và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn công nghiệp
hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ
tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh
và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ
hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và
phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng,
từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép
khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
2.3 Hình thành và đồng bộ phát triển các loại thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế
dều thông qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy để xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường. Trong những năm tới chúng ta cần phải:
- Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp những
lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh; xoá bỏ độc quyền
doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển
thương mại trong nước, tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
21



- Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị
trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu
hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và
thị trương chứng khoán.
- Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường
quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất.
- Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh
tế. Đẩy mạnh -xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuát khẩu lao
động đã qua đào tạo nghề.
- Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở
đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn các sản phẩm khoa học
công nghệ trở thành hàng hoá.
2.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập
vào kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của
đất nước nhằm phát triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa
phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng
điểm của kinh tế đối ngoại. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập
khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ
sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài cần hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có
công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng
vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện được cán cân

22


thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các
diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn
lọc với bước đi thích hợp.
2.5 Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ
thống luật pháp
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng
đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh
doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững
sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Hệ thống pháp luật đông bộ là công cụ quan trọng để Nhà
nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra
hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh
nghiệp chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước.
2.6 Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước
Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nuớc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước,
cần nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia. Nhà nước
thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế; có hệ thống chính
sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt

23


động kinh tế; hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không
can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các doanh
nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Nhà nuớc
sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế,
chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy phải tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách
tiền lương và giá cả.

24


Kết luận
Việc từ bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển
sang nền kinh tế thị trường là một bước đi đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta. Ngay ở những bước đi đầu chúng ta không thể
tránh khỏi những vướng mắc khó khăn, trở ngại. Nhưng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta bộc lộ khá nhiều ưu
điểm hơn nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển, đó là xây
dựng được một nền kinh tế phát triển mạnh đi đôi với giải quyết
các vấn đề chính trị xã hội (như công bằng xã hội, môi trường
sống lành mạnh) luật pháp nước ta chưa hoàn thiện. Trước kia
trước nguy cơ sụp đổ, nước ta đã không như nhiều nước khác
chuyển sang tư bản chủ nghĩa mà nước ta đi theo kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Không theo tư bản chủ nghĩa - một
mô hình đã có từ trước mà nước ta đi theo con đường mới chưa

hề có trên thế giới. Thế mà bước đầu đã gặt hái được những
thành công đáng khích lệ. Do đó chúng ta hy vọng, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN của nước ta sẽ trở thành nền kinh tế thị
trường văn minh định hướng XHCN ưu việt hơn rất nhiều nền
kinh tế thị trường văn minh ở một số nước phát triển hiện nay.

25


×