Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

Bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 230 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TĂNG TẤN LỘC

BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ SÔNG NƯỚC
TRONG TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TĂNG TẤN LỘC

BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ SÔNG NƯỚC
TRONG TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Sâm


Hà Nội - 2017


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô Viện Ngôn ngữ học Việt Nam,
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Khoa Ngôn ngữ học, Học viện
KHXH Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHSP Thành phố
Hồ Chí Minh, Trường Đại học Cần Thơ đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp
cho tôi những tri thức cần thiết về ngôn ngữ học.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo của tôi,
PGS.TS. Trịnh Sâm, người đã hướng dẫn tận tình và tận tâm giúp tôi hoàn
thành luận án này. Đồng thơi, tôi xin được cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn tạo điều kiện, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu.
Tăng Tấn Lộc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận án

Tăng Tấn Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1

1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ...............................................................................1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .....................................................3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU......................................................4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................5
5. ĐÓNG GÓP MỚI................................................................................................6
6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN................................................................7
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ..................................................................................7
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT................................................................................................................9
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................................9
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước...................................................................9
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................12
1.2. CÁC VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..............................19
1.2.1. Khái lược về ngôn ngữ học tri nhận .............................................................19
1.2.2. Bức tranh ngôn ngữ .....................................................................................21
1.2.3. Lí thuyết phạm trù và phạm trù tỏa tia .........................................................29
1.2.4. Ý niệm và ý niệm hóa ..................................................................................39
1.2.5. Lược đồ và điển dạng ..................................................................................41
1.2.6. Tính nghiệm thân.........................................................................................42
1.2.7. Ẩn dụ ý niệm ...............................................................................................44
1.2.8. Khái niệm miền, miền nguồn và miền đích ..................................................49
1.2.9. Khái niệm về “sông nước” ...........................................................................51
1.3. TIỂU KẾT......................................................................................................52
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CHUYỂN DI NGỮ NGHĨA CỦA MIỀN Ý NIỆM
SÔNG NƯỚC TRONG TIẾNG VIỆT ...............................................................53
2.1. DẪN NHẬP ...................................................................................................53
2.2. CÁC DẠNG NƯỚC .......................................................................................54
2.3. ĐỊNH DANH NƯỚC .....................................................................................61
2.3.1. Mô hình: “X + nước” ...................................................................................62
2.3.2. Mô hình: “nước + X”...................................................................................64



2.4. MÔ HÌNH ẨN DỤ Ý NIỆM PHẠM TRÙ SÔNG NƯỚC TRONG TIẾNG
VIỆT .....................................................................................................................70
2.4.1. Cuộc sống là vật chứa nước .........................................................................71
2.4.2. Thực thể sống dưới nước là con người .........................................................78
2.4.3. Công cụ đánh bắt trên sông nước là con người.............................................81
2.4.4. Phương tiện trên sông nước là con người .....................................................82
2.4.5. Hoạt động, trạng thái, tính chất của nước là hoạt động, trạng thái, tính chất của con
người ....................................................................................................................................84

2.5. Giá trị biểu trưng của miền ý niệm sông nước.................................................94
2.5.1. Giá trị biểu trưng của miền ý niệm sông nước và liên quan đến sông nước ..94
2.5.2. Giá trị biểu trưng của vật chứa nước và các yếu tố hữu quan .......................96
2.5.3. Giá trị biểu trưng của loài vật sống trong nước ............................................98
2.5.4. Giá trị biểu trưng của công cụ đánh bắt trên sông nước.............................. 102
2.5.5. Giá trị biểu trưng của phương tiện di chuyển trên sông nước ..................... 103
2.5.6. Giá trị biểu trưng đặc tính, trạng thái và vận động của nước ...................... 104
2.5.7. Giá trị biểu trưng hoạt động của con người trong nước .............................. 109
2.6. TIỂU KẾT.................................................................................................... 114
Chương 3 MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC TRONG TÂM THỨC CỦA NGƯỜI
VIỆT................................................................................................................... 115
3.1. DẪN NHẬP ................................................................................................. 115
3.2. CON NGƯỜI VÀ DÒNG SÔNG ................................................................. 116
3.3. ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ SÔNG NƯỚC............................................................. 120
3.3.1. Ẩn dụ “Hành trình đời người là hành trình của dòng sông”........................ 121
3.3.2. Ẩn dụ “Cuộc đời là dòng sông” ................................................................. 123
3.3.3. Ẩn dụ “Ứng xử của con người là vận động của nước” ............................... 130
3.4. TIỂU KẾT.................................................................................................... 134
KẾT LUẬN........................................................................................................ 135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH................................................................... 139
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 140
PHỤ LỤC………………………………………………………………………...150


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CLB

Câu lạc bộ

ĐH

Đại học

ĐHKHXH&NV

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

ĐHQG

Đại học quốc gia

ĐHQGHN


Đại học quốc gia Hà Nội

ĐHSP

Đại học sư phạm

HN

Hà Nội

ICM

Idealized cognitive model

KHXH

Khoa học xã hội

MYN

Miền ý niệm

MYNSN

Miền ý niệm sông nước

NNHTN

Ngôn ngữ học tri nhận


Nxb

Nhà xuất bản

T/c

Tạp chí

THVL

Truyền hình Vĩnh Long

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

VH-TT&DL

Văn hóa – Thể thao và Du lịch

VHTT

Văn hóa thông tin

VTV

Truyền hình Việt Nam

VTC


Truyền hình kỹ thuật số Việt Nam


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ

Bảng 1. Liệt kê mô hình “X + nước” trong tiếng Việt .................................. 62
Bảng 2. Liệt kê mô hình “nước + X” trong tiếng Việt ................................. 64
Sơ đồ 1. Quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận.............. 34
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình hóa phạm trù tỏa tia................................................ 35
Sơ đồ 3: Sơ đồ tỏa tia phạm trù MẸ.............................................................. 36
Sơ đồ 4. Mô hình tỏa tia CÁC DẠNG NƯỚC trong tiếng Việt .................... 60
Sơ đồ 5: Mô hình tỏa tia của từ NƯỚC trong tiếng Việt............................. 112
Sơ đồ 6: Mô hình tỏa tia MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC trong tiếng Việt .. 113


MỞ ĐẦU

1. LÍ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận đã được các học giả trên
thế giới quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ XX. Đến nay, xu thế nghiên
cứu ngôn ngữ từ việc khảo sát các ngữ liệu được quan sát trực tiếp dần
chuyển sang nghiên cứu những vấn đề không thể quan sát được của con
người, chẳng hạn như: tri thức, trí tuệ, ý thức, ý niệm, văn hóa, tín ngưỡng,
v.v. Đã có nhiều công trình nghiên cứu có thể được xem là tiên phong trong
lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận: Lakoff and Jonhson, Langacker, Talmy,
Lakoff and Turner, Wierzbicka, Kovecses, v.v.
1.2. Theo quan niệm của triết học phương Đông thì “nước” là một
trong những yếu tố cấu thành nên vạn vật. Nước được hiểu như một thực thể
tự nhiên nuôi dưỡng sự sống. Thực tế đã chứng minh tầm quan trọng của
nước đối với đời sống vạn vật, nước được dùng với mục đích là nguồn sống,

để thanh tẩy, tưới tiêu, hay còn là nơi cung cấp thực phẩm (sản vật dưới
nước), v.v. Chính vì tầm quan trọng của nước mà các cộng đồng dân cư trên
thế giới đều tập trung và phân bố dọc theo các nguồn nước. Từ cơ sở thực tiễn
đó mà ngôn ngữ và văn hóa của các tộc người đều gắn liền với các yếu tố có
liên quan đến “sông nước”.
1.3. Là một quốc gia gắn với nền văn minh nông nghiệp, nước có vai
trò đặc biệt trong văn hóa cũng như trong tâm thức của người Việt. Nước có
mặt trong hầu hết các lĩnh vực, từ ý niệm thiêng liêng đến những điều thông
tục hay hướng đến những khái niệm có tính khái quát cao, đặc biệt là trong
tục ngữ, ca dao: nước chảy đá mòn, nước khe đè nước suối, nước đổ đầu vịt,
nước đổ lá khoai, nước đến chân mới nhảy, uống nước nhớ nguồn, nước sông
công lính, còn nước còn tát, một giọt máu đào hơn ao nước lã, v.v.

1


1.4. Môi trường sông nước với tư cách là đối tượng tri nhận đã hình
thành nên một kho tàng ý niệm đa dạng, phong phú trong ngôn ngữ giao tiếp
của người Việt. Từ việc định danh và tương tác gắn liền với địa hình sông
nước, hoạt động trên sông nước, dần dần ngôn ngữ hình thành nên những
miền ý niệm sông nước. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh sông nước ăn
sâu vào ngôn ngữ Việt: buôn tàu buôn bè không bằng làm ăn hà tiện, chớ
thấy sóng cả mà rã tay chèo, ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, “Thuyền về có
nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”,v.v. Người Việt
thường nói: chìm đắm trong suy tư, đắm đuối nhìn nhau, thời gian trôi nhanh,
ăn nói trôi chảy, hồ sơ bị ngâm lâu, mặt trời lặn, v.v.
Ngay cả khi đi trên bộ, người Việt vẫn mượn hình ảnh sông nước để
diễn đạt: lặn lội đến thăm nhau, đi nhờ xe ai một đoạn thì gọi là quá giang
(qua sông), người Nam Bộ gọi xe khách liên tỉnh là xe đò, v.v. và hàng loạt
cách diễn đạt thú vị khác: công việc làm ăn trôi chảy, thuận buồm xuôi gió,

hoặc trong cuộc sống để động viên nhau: nào cố gắng vượt qua gió to sóng
lớn, hành trình đời người lúc khó khăn phải lên thác xuống ghềnh chứ không
phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, nào hãy vững tay chèo, cùng thoát khỏi
ao làng, sông rạch để hướng ra biển lớn, v.v. Vì sao số lần xuất hiện của từ
ngữ sông nước trên cửa miệng của người Việt nhiều đến như vậy?
1.5. Do nhiều lí do khác nhau, môi trường địa lí từ Nam chí Bắc, từ
Đông sang Tây của Việt Nam, đâu đâu cũng thấy sông nước, và con người
Việt Nam gắn bó thiết thân chẳng những về những ứng xử vật chất mà cả đời
sống tinh thần với chúng. Đó là lí do giải thích vì sao dấu ấn sông nước khá
đậm nét trong tư duy của người Việt. Người Việt đã dùng những hiểu biết về
sông nước để phóng chiếu lên cuộc đời cũng như dùng những trải nghiệm của
chính cơ thể mình để ngược chiếu trở lại sông nước.
Theo chiều hướng ngược lại, dễ dàng tìm thấy nhiều ẩn dụ của sông
nước có nguồn gốc từ thân xác hoặc vận động của con người như lòng sông,
2


mặt sông, chân nước, rốn nước, v.v. hoặc nước nhảy, nước bò, nước lăn, nước
nằm, nước đứng, v.v. Thậm chí, con người còn dùng chính cơ thể mình làm
thước đo: nước dưới lòng bàn chân, nước tới chân mới nhảy, nước tới mắt cá,
nước tới ống quyển, nước tới đầu gối, nước tới lưng quần, nước tới ngực,
nước ngập đầu ngập cổ, v.v.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về sông nước chủ yếu được tiến hành
dưới góc độ văn hóa, các nghiên cứu về sông nước dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học nói chung và ngôn ngữ học tri nhận nói riêng bước đầu đã được một
số học giả quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào tiến hành
nghiên cứu một cách thấu đáo và bao quát về sông nước dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài “Bức tranh ngôn ngữ
về sông nước trong tri nhận của người Việt” với mong muốn góp thêm những
cái mới và tích cực trong lĩnh vực nghiên cứu phạm trù sông nước.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, luận án hướng đến các
mục đích nghiên cứu sau:
Thứ nhất, khái quát hóa bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri
nhận của người Việt, đặc biệt là người Việt tại Nam Bộ, trên cơ sở miêu tả
những đặc điểm đặc thù trong tri nhận sông nước.
Thứ hai, làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ - tư duy và văn
hóa trong tri nhận của người Việt trên lĩnh vực sông nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nói trên, luận án tập trung giải quyết các
vấn đề chính, đó là:
- Tìm hiểu ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể là một số vấn đề lí thuyết có
liên quan đến khoa học tri nhận, như: bức tranh ngôn ngữ, phạm trù tỏa tia,
miền nguồn và miền đích, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm, v.v.
3


- Tìm hiểu về miền ý niệm sông nước và trên cơ sở đó đi vào thế giới tư
duy của người Việt trong phạm trù sông nước.
- Mô tả và phân tích miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt.
- Chỉ ra đặc điểm chuyển di ngữ nghĩa của miền ý niệm sông nước
trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu nghĩa biểu trưng các miền ý niệm về sông nước trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa bộ ba ngôn ngữ - tư duy và văn hóa của
người Việt được thể hiện trong bức tranh ngôn ngữ về sông nước.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi sẽ tiến hành
nghiên cứu bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người Việt, cụ

thể luận án bàn đến là: định danh nước, phạm trù tỏa tia của sông nước, biểu
trưng sông nước, các miền ý niệm, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm về sông nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát phạm vi nguồn cứ liệu chính trong ca dao, thành ngữ,
tục ngữ (nhất là tại Nam Bộ) có liên quan đến phạm trù sông nước. Bên cạnh
đó, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ đời sống bao giờ cũng sinh động hơn nhiều
so với từ điển. Và theo lí thuyết, ẩn dụ ý niệm về sông nước tồn tại khắp mọi
nơi trong cuộc sống đời thường, không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy
và hành động.
Do vậy, để phục vụ nghiên cứu bức tranh ngôn ngữ về sông nước,
chúng tôi còn tiến hành khảo sát ngữ liệu rút ra từ lời ăn tiếng nói hàng ngày,
các website, các trang mạng xã hội, các báo điện tử, các tạp chí, tác phẩm văn
học, đặc biệt là ngữ liệu được thu thập tại Nam Bộ. Vì đây là vốn văn hóa
phản chiếu những kinh nghiệm từ đời sống hàng ngày của cả cộng đồng bản
ngữ, là nguồn tư liệu phong phú để có thể nhận rõ đặc thù tư duy - văn hóa dân tộc làm nên linh hồn bên trong ngôn ngữ của dân tộc.
4


Lựa chọn phạm vi nguồn cứ liệu như vậy mục đích là để có các căn cứ
khảo sát và bao quát toàn cảnh bức tranh ngôn ngữ về sông nước trong tri
nhận của người Việt, chúng tôi đặc biệt chú ý đến những ẩn dụ/hoán dụ ý
niệm về sông nước trong tiếng Việt, nhất là tiếng Việt tại Nam Bộ.
3.3. Nguồn ngữ liệu
Luận án trích dẫn nguồn từ các ngữ liệu sau đây:
[1*] Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị
(1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM.
[2*] Ngân Hà (tuyển chọn), (2009), Nguyễn Khuyến – Thơ, Nxb. VHTT.
[3*] Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hương,
Nguyễn Luân (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt (tập 1 và 2), Nxb. VHTT.
[4*] Bảo Ninh (2005), Thân phận của tình yêu, Nxb. Hội Nhà văn.

[5*] Hoàng Phê (chủ biên), (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển
Bách khoa.
[6*] Trịnh Công Sơn (1998), Tuyển tập những bài ca không năm tháng,
Nxb. Âm nhạc.
[7*] Thơ tình Xuân Diệu tuyển chọn (2008), Nxb. Thanh niên.
[8*] Truyện ngắn 5 cây bút nữ (2004), Nxb. Hội Nhà văn.
[9*] Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (2001), Nxb. Phụ nữ.
[10*] Lê Ngọc Tú (2006), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn, Nxb.
KHXH.
[11*] Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1993),
Từ điển thành ngữ Việt Nam, Nxb. Văn hóa.
Cùng một số website, các trang báo điện tử, các trang mạng xã hội, v.v.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các thủ pháp và phương pháp
nghiên cứu sau:

5


- Thủ pháp thống kê, phân loại: đây là thủ pháp giúp chúng tôi tập hợp
và phân loại các miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt trên cơ
sở các ngữ liệu được khảo sát, từ đấy rút ra những nhận xét, hữu quan.
- Phương pháp miêu tả: đây là phương pháp chính cùng với phương
pháp phân tích ý niệm để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ nguồn ngữ
liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa
và nghĩa biểu trưng của từ thuộc miền ý niệm “sông nước” trong tiếng Việt.
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3.
- Phương pháp phân tích ý niệm: luận án tiến hành phân tích các biểu
thức ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh cụ thể, hướng đến tìm hiểu các đặc trưng văn
hóa tư duy ẩn sau chúng, được thể hiện rõ nhất trong chương 3.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: luận án kết hợp tri thức của các
ngành khoa học khác cùng với tri thức ngành ngôn ngữ học để tìm hiểu thấu
đáo hơn về đặc trưng văn hóa – tư duy của dân tộc. Phương pháp này được sử
dụng ở chương 2 và chương 3 của luận án.
5. ĐÓNG GÓP MỚI
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu và khảo sát toàn diện bức tranh
ngôn ngữ về sông nước trong tri nhận của người Việt. Vì vậy, luận án có thể
có những đóng góp sau:
Thứ nhất, luận án góp phần giải quyết được một số vấn đề quan trọng
liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận trên sự khoanh vùng ngữ
liệu nhất định – phạm trù “sông nước”.
Thứ hai, luận án có những đóng góp mới trong việc mô tả các miền ý
niệm trong bức tranh ngôn ngữ về sông nước, đồng thời miêu tả và phân tích
bức tranh ấy trong tâm thức của người Việt.
Thứ ba, kết quả luận án có thể ứng dụng vào thực tiễn dạy học Ngữ
văn, nghiên cứu tiếng Việt nói chung và tiếng Việt tại Nam Bộ nói riêng.

6


6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Về lí luận, góp phần về mặt phương pháp nghiên cứu sông nước trong
ngôn ngữ và văn hóa người Việt, góp phần tìm hiểu về các cách thức tri nhận
sông nước của người Việt, từ đó nhận thức rõ hơn về “bức tranh ngôn ngữ
sông nước” có tính chất qui ước xã hội, có tính chất văn hóa, có tính chất môtíp của cộng đồng người Việt.
Ngoài ra, thông qua khảo sát, luận án cũng góp phần giải thích tính
tương tác giữa con người với tư cách là chủ thể kinh nghiệm với thiên nhiên
sông nước với tư cách là khách thể hiện thực. Bởi vì, trong quá trình cộng
sinh, hiện thực sông nước không thể không ảnh hưởng đến cách thức tư duy
của con người và ngược lại, con người không thể không phóng chiếu hình

bóng của chính mình lên hiện thực.
Về thực tiễn, góp phần tìm hiểu vấn đề tri nhận sông nước trong tiếng
Việt trên cơ sở lí thuyết tri nhận, đồng thời góp phần tìm hiểu qui luật sử dụng
ngôn ngữ trong việc diễn đạt các ý niệm có liên quan đến “sông nước” của
người Việt. Từ đó nêu lên một số gợi ý về phân tích, giảng dạy các chủ đề
liên quan đến sông nước.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm ba chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chương này bao gồm phần tổng quan về tình hình nghiên cứu sông
nước trong tiếng Việt cũng như các nội dung lí thuyết liên quan trực tiếp đến
những vấn đề cụ thể mà luận án sẽ đề cập như: bức tranh ngôn ngữ, phạm trù
tỏa tia, miền ý niệm, miền nguồn và miền đích, ẩn dụ/hoán dụ ý niệm, v.v.
Chương 2: Đặc điểm chuyển di ngữ nghĩa của miền ý niệm sông
nước trong tiếng Việt

7


Trình bày sự phân lập các dạng của nước, liệt kê và phân tích hai kết
cấu có liên quan đến “nước”: mô hình “X + nước” và mô hình “nước + X”.
Vận dụng lí thuyết phạm trù tỏa tia của Lee (2001), Evan & Green (2006) để
tìm hiểu sự chuyển di ý niệm từ miền sông nước sang các miền ý niệm khác,
cũng như bước đầu mô tả một số biểu thức sông nước có giá trị biểu trưng
trong tiếng Việt.
Chương 3: Miền ý niệm sông nước trong tâm thức của người Việt
Tập trung nghiên cứu vai trò, chức năng và sự chi phối trong suy nghĩ
cũng như hành động của người Việt đối với sông nước với tư cách là miền ý
niệm nguồn cũng như hệ thống ánh xạ một số vấn đề trừu tượng trong miền ý

niệm đích.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. Từ góc độ văn hóa
Lĩnh vực sông nước được đề cập nhiều nhất có lẽ là trong các tài liệu
về văn hóa học, có thể kể: Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (bản dịch) của
Chevalier, Jean & Alain Gheerbrant, 2002 [6]. Trong công trình này, “sông”
và “nước” như là một đặc tính của văn hóa được mô tả thông qua một số nền
văn hóa. Tương tự, Amanach những nền văn minh thế giới, Nxb. Văn hóa
Thông tin, 2006 [1], “sông” và “nước” tuy không phải là chủ đề riêng biệt,
nhưng cũng được đề cập đến, nhiều nhất là trong sinh hoạt, trong giao thông
và cả trong phong thủy.
1.1.1.2. Từ góc độ ngôn ngữ học
Một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu trường nghĩa “nước” như:
Laurel J. Brinton và Donna M. Brinton trong “The Linguistic Structure of
Modern English”, phần nghĩa của từ, bài tập 6.4 về các trường từ, mục (c)
Nước. Các tác giả đã phân trường “nước” thành 5 tiểu trường sau:
(i) các dạng thức tồn tại của nước (forms): băng (ice), nước (water),
hơi nước nóng (steam), hơi nước, hơi sương (vapor), mưa tuyết (sleet), (mưa)
rain, (tuyết) snow, mưa đá (hail).
(ii) không gian chứa nước (bodies of water): hào, rãnh, mương (ditch),
đầm lầy (slough), khu đầm lầy, nơi có nhiều cây cối mọc (swamp), eo nước

(narrows), eo biển (strait), vịnh, lạch (inlet), eo sông, biển (bight), nhánh
sông, biển (bayou), (dùng trong văn chương), vịnh hẹp, cửa sông trong địa
danh Scotland (firth), hồ, vịnh ở Scotland (loch), hồ nhỏ trên núi (tarn), giếng
9


(well), hồ nước tự nhiên hoặc nhân tạo (reservoir), bể bơi (pool), biển (sea),
đại dương (ocean), hồ (lake), ao, hồ tự nhiên và nhân tạo (pond), vịnh (bay),
cửa sông, cửa biển (estuary), vịnh hẹp, nhất là ở Na Uy (fjord), cửa sông, biển
(sound), vịnh (gulf), phá (lagoon), vịnh nhỏ (cove), cảng (harbor).
(iii) nước trong thế vận động (water in motion): lạch biển (creek), sông
(river), sóng (waves), hơi nước (billows), suối (stream), mưa (rain), sông nhỏ
(brook), sông, suối nhỏ (rivulet), sông, suối nhánh (tributary), giếng phun (spring).
(iv) nước đóng băng (frozen water): băng (ice), tuyết (snow), tinh thể
(crystal), mưa tuyết (sleet), mưa đá (hail), nhũ băng (icicle), núi, đảo băng trôi
(iceberg), sự đóng băng (rime), sương muối (hoarfrost), băng hà (băng trôi từ
núi xuống thung lũng) (glacier).
(v) thể khí của nước (gas): hơi nước, hơi sương (vapor), hơi nước nóng
(steam) [95].
Ngoài ra, phân lập trường “nước” và các yếu tố liên quan đến “nước”
còn có thể kể đến công trình của các tác giả ở trường đại học Texas [96].
Trước khi bàn đến bức tranh ngôn ngữ về sông nước, cần thiết phải có cái
nhìn tổng quan về ngôn ngữ học tri nhận. Với tư cách là một khuynh hướng
nghiên cứu mới, ngôn ngữ học tri nhận đã được các học giả nghiên cứu từ những
năm 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, các thuật ngữ như: ngôn ngữ học tri nhận
(cognitive lingguistics), ngữ nghĩa học tri nhận (cognitive semantics), và ngữ
pháp tri nhận (cognitive grammar) thì mới xuất hiện trong một số công trình,
đáng chú ý là Cơ sở của ngữ pháp tri nhận của R. W. Langacker.
Các tác phẩm góp phần đặt nền móng cho ngôn ngữ học có thể kể đến
như: Metaphors we live by của G. Lakoff và M. Jonhson, Chicago - London,

University of Chicago Press, 1980, The Body in the Mind: The Body Basis of
Meaning, Imagination and Reason của M.Johnson, 1987, Chicago, University
of Chicago Press, 1987, Women, fire, and danggerous things của G. Lakoff,

10


Chicago, London, University of Chicago Press, 1987, Foundation of Cognitive
Grammar của R. W. Langacker, Stanford University Press, 1987, v.v.
Trong Metaphors we live by, George Lakoff and Mark Johnson đã bắt
đầu quiển sách của mình bằng quan niệm mới về ẩn dụ rất khác với truyền
thống: “Chúng tôi thấy rằng ẩn dụ tồn tại khắp nơi trong cuộc sống hằng
ngày, không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành động. Hệ thống
khái niệm thông thường của chúng ta - thể hiện qua suy nghĩ cũng như hành
động - về bản chất mang tính ẩn dụ” [102, 3].
Sau đó, ngôn ngữ học tri nhận chính thức ra đời vào năm 1989 tại Hội
nghị khoa học được tổ chức tại Duisbury (Đức). Cũng tại hội nghị, Hội Ngôn
ngữ học tri nhận quốc tế được thành lập và cho phát hành Tạp chí Ngôn ngữ
học tri nhận.
Ngôn ngữ học tri nhận hiện đang rất phát triển trên thế giới, đã có nhiều
công trình nghiên cứu trên cứ liệu nhiều ngôn ngữ được công bố. Ở Trung
Quốc, từ cuối thế kỷ XX, giới ngôn ngữ học của nước này đã bắt đầu quan
tâm đến ngôn ngữ học tri nhận. Không chỉ nghiên cứu về lí thuyết, các học
giả Trung Quốc còn đặc biệt quan tâm đến tính ứng dụng trong giảng dạy
ngoại ngữ, giảng dạy tiếng Hán, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo.
Có thể nói, ngôn ngữ học tri nhận đã đã thúc đẩy sự ra đời của ngành
Từ vựng học tri nhận tiếng Hán. Lĩnh vực ngữ pháp học, Trương Mẫn đã cho
ra mắt quiển Ngôn ngữ học tri nhận và danh ngữ tiếng Hán, Đái Hạo Nhất và
Trương Mẫn với cuốn Ngữ pháp chức năng tri nhận tiếng Hán, Triệu Diễm
Phương với Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận.

Trong công trình sau, đã được dịch ra tiếng Việt, Triệu Diễm Phương
đã giới thiệu một cách tổng quát các thành tựu của ngôn ngữ học tri nhận,
đồng thời trình bày một số nghiên cứu và những kiến giải riêng của mình về
một số vấn đề của khoa học này. Điều đặc biệt là, tác giả đã cố gắng truy tìm
ngọn nguồn của những tư tưởng cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, đồng thời
11


chỉ ra được những ứng dụng của nó đối với việc nghiên cứu và giảng dạy
ngôn ngữ, nhất là ứng dụng nghiên cứu tiếng Hán dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận.
Liên quan trực tiếp đến đề tài đang bàn ở đây, theo quan sát bước đầu của
luận án, ẩn dụ sông nước trong các ngôn ngữ biến hình xuất hiện không nhiều.
Theo Trịnh Sâm (2016), trong văn hóa phương Tây, nó chỉ xuất hiện một vài ẩn
dụ: GIAO THÔNG LÀ MỘT CON SÔNG, VẤN ĐỀ LÀ MỘT CƠ THỂ
NƯỚC/MỘT VŨNG NƯỚC, VẤN ĐỀ LÀ MỘT VẬT CHỨA NƯỚC.
Riêng trong giới học giả Trung Quốc cũng có hai bài bàn về “nước”:
bài của Rong Chen (Water networks, the Chinese radical, and beyond in
Languages and Linguistics, Compendium of cognitive linguistics research,
Thomas Fuyin Li (ed), Nova publishers, New York, 2012) và Y. Nie and R.
Chen (Water metaphors and metonymies in Chinese, A semantics network,
Pragmatics and cognition, volume 16, number 3, 2008). Trong đó, nghiên
cứu về cấu tạo chữ Hán có bộ “thủy” và một số ẩn dụ về nước. Cũng theo
Trịnh Sâm (2016), tuy về mặt văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam có
những đặc điểm gần gũi nhưng tri nhận sông nước rất khác biệt.
Như vậy, nói không quá rằng, với tư cách là một miền nguồn, sông
nước có thể xuất hiện ở một số ngôn ngữ nhưng đậm đặc và phong phú nhất
có lẽ là trong tiếng Việt. Điều này cũng dễ hiểu vì với người Việt Nam từ
Nam chí Bắc sông nước là một thực thể rất thân thuộc và gần gũi.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.2.1. Từ góc độ văn hóa
Ngay từ những năm 70 của thế kỉ XX, Cao Xuân Huy khi đề cập đến
lịch trình tư tưởng dân tộc đã nhắc đến “đặc tính nước” như một biểu tượng
khái quát cho đặc trưng của dân tộc Việt. Ông cho rằng: “Sức sống của nước
là ở nguồn, sức mạnh của nước là ở chỗ rất nhiều hạt nhỏ cấu kết lại với
nhau một cách mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, có thể uốn theo
12


đường cong, đường thẳng, chỗ lồi, chỗ lõm của đối tượng” [34, 363]. Tuy
nhiên, cần thấy tính chất uyển chuyển, mềm mại, linh hoạt, lưu động không có
nghĩa là mềm yếu. Tác giả khẳng định: “Đó không phải là vì nó không có cá
tính. Trái lại, đó là khả năng thích ứng vô hạn của nó mà chính cái khả năng
thích ứng đó là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta” [34, 364].
Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam (1995), Trần Ngọc Thêm đánh giá rất
cao vai trò của “làng nước” trong tâm thức cũng như ứng xử của người Việt.
Tác giả khai thác nhiều tính chất thiên về âm tính của nước. Tuy không biện
giải một cách tường minh, nhưng theo tác giả, nước (chất lỏng) và nước (quốc
gia) trong “đất nước” là cùng một nguồn gốc. Trần Ngọc Thêm cho rằng:
“Nước không chỉ phản ánh điều kiện địa lí và đặc điểm kinh tế, nó còn nói lên
những đặc tính đặc trưng nhất của văn hóa Việt Nam: Đó là thiên về âm tính
(so với đất thì đất dương, nước âm); sự mềm mỏng, linh hoạt (nước luồn lách,
chảy vào khắp mọi nơi, nó không có hình dáng nhất đinh); khả năng thích
nghi cao (chảy vào vật gì thì mang hình dạng của vật đó), v.v.” [73, 161]. Tác
giả nhấn mạnh: “… luôn hướng tới sự thăng bằng, quân bình (nước luôn chảy
về chỗ trũng, bớt chỗ nhiều, bù chỗ thiếu)” [73, 161].
Đáng chú ý hơn cả là cuốn Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ (Trần
Ngọc Thêm chủ biên, 2013). Trong công trình này, nhóm tác giả đã trình bày
hai nội dung có liên quan đến “sông nước”, bao gồm: (i) “Văn hóa ứng xử với
đất và nước của người Việt vùng Tây Nam Bộ” (chương III), (ii) “Tính sông

nước” (chương V). Trong chương III, nhóm tác giả nhấn mạnh vấn đề tận
dụng nước trong buôn bán, cư trú và sinh hoạt của người Việt vùng Tây Nam
Bộ. Trong chương V, khi nói về “tính sông nước”, nhóm tác giả cho rằng:
“Tính sông nước – hay nói đầy đủ hơn là “tính hòa hợp cao với thiên nhiên
sông nước” – là một đặc trưng tính cách văn hóa xuất hiện ở những vùng văn
hóa có mạng lưới sông nước dày đặc chi phối toàn bộ cuộc sống vật chất và
tinh thần của con người và con người thì biết khai thác tối đa lợi thế của thiên
13


nhiên sông nước trong khi chỉ đối phó với nó ở mức tối thiểu và đối phó mà
không xung đột với nó” [76, 647]. Có thể nói công trình đã tổng kết, kế thừa
được thành tựu nghiên cứu về văn hóa sông nước của nhiều thế hệ.
1.1.2.2. Từ góc độ ngôn ngữ
Trước đây, Nguyễn Kim Thản (1993), trong lúc đi tìm các cứ liệu để
chứng minh cho nhận định “môi trường sống thời xa xưa cũng để lại những
dấu ấn trong vốn từ vựng tiếng Việt” cũng cho rằng: “nước có nghĩa là quốc
gia, tổ quốc là từ cùng gốc với nước với nghĩa là chất lỏng, không màu,
không mùi, không vị, có công thức H20” và cũng thừa nhận rằng hai yếu tố
“đât” và “nước” có một tầm quan trọng rất to lớn trong đời sống của ngươi
Việt” [67, 33].
Trần Thị Ngọc Lang (1982, 1995), trong khi nghiên cứu về phương ngữ
Nam Bộ đã dành riêng một chương để mô tả về nhận thức khá chi tiết nhóm
từ có liên quan đến sông nước trong phương ngữ Nam Bộ. Tác giả cung cấp
khá đầy đủ về bức tranh phân cắt hiện thực của người Nam Bộ trên ba nhóm
từ chỉ: địa hình, sự vận động của dòng nước, sự vận động của con người trên
sông nước và các phương tiện dùng cho hoạt động này. Những tư liệu cung
cấp ở chương này là rất lí thú và bổ ích, nhất là khi so sánh đối chiếu với các
phương ngữ khác.
Luận án của Trương Thị Nhàn (1995) với đề tài “Sự biểu đạt bằng ngôn

ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian trong ca dao” (luận án phó tiến sĩ). Tác
giả đã đề cập đến một số biểu trưng như biển, sông, cầu, thuyền, v.v. nói
chung là những từ chỉ không gian (không gian khung chứa, không gian tọa
độ, không gian vật thể).
Luận án của Hồ Văn Tuyên (2013) với đề tài “Định danh sự vật liên
quan đến sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong phương ngữ Nam
Bộ” [84] đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lí thuyết về định danh, thúc
đẩy sự phát triển của các bộ môn như Phương ngữ học, đặc biệt là các bộ môn
14


Danh học, Ngôn ngữ học xã hội đồng thời làm rõ thêm mối quan hệ giữa
ngôn ngữ - tư duy và văn hóa được thể hiện qua định danh ngôn ngữ.
Luận án của Nguyễn Văn Thạo (2015) với đề tài “Trường nghĩa “lửa”
và “nước” trong tiếng Việt” [68]. Trong công trình này, tác giả đã hệ thống
hóa những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài như các nghiên cứu về nghĩa
của từ, về trường nghĩa, về trường nghĩa “lửa”, trường nghĩa “nước” và các
nghiên cứu về biểu trưng. Luận án tiến hành thống kê, xác lập và phân tích
được hệ thống các tiểu trường, các tiểu trường bậc hai và các nhóm từ thuộc
hai trường nghĩa. Bên cạnh đó, tác giả còn thống kê, xác lập và phân tích ngữ
nghĩa của các nghĩa chuyển, nghĩa chuyển trường của hai trường nghĩa cũng
như nghĩa biểu trưng của “lửa” và “nước” (cùng các từ thuộc hai trường nghĩa
này) trong tiếng Việt. Luận án trình bày tính hệ thống, tính tầng bậc và tính
giao thoa trong lòng mỗi trường. Đồng thời nêu được đặc trưng văn hóa của
dân tộc trong việc sử dụng từ thông qua hai trường nghĩa “lửa” và “nước”.
Bên cạnh đó, kết quả đối chiếu một số tiểu trường với tiếng Anh cũng đã làm
rõ hơn đặc trưng văn hóa của dân tộc chi phối cách định danh (phạm vi biểu
vật của từ) trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu đã góp phần khẳng định về
mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, có thể kể đến luận án của Ly

Lan (2012) với đề tài “Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các từ biểu đạt tình
cảm trong tiếng Anh (có liên hệ với tiếng Việt)” [39]. Luận án tập trung so
sánh về cách thức mà người bản ngữ tiếng Anh và người bản ngữ tiếng Việt
qui chiếu tới các bộ phận điển hình của cơ thể người để biểu tưng tình cảm
theo khế ước cộng đồng mỗi người bản ngữ. Luận án nghiên cứu về cách mà
con người xây dựng các ý niệm về tình cảm và mối quan hệ giữa tình cảm với
nhận thức để vận dụng vào việc giảng dạy cũng như việc chuyển dịch ra tiếng
Việt các cấu trúc tiếng Anh có chứa đựng các từ chỉ bộ phận cơ thể người
mang ý nghĩa biểu trưng cho tình cảm. Tác giả cho rằng: “theo cách biểu
15


trưng tình cảm của người Việt, có thể thấy người Việt thiên về lối tư duy duy
tình, khác hẳn với tư duy duy lí của người Anh”.
Luận án của Trần Bá Tiến (2012) “Nghiên cứu thành ngữ biểu thị tâm
lí tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận”
[78]. Luận án đã hệ thống hóa và định vị khái niệm thành ngữ, đưa ra danh
sách các thành ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình cảm trong tiếng Anh và tiếng
Việt, xác định cơ chế biểu hiện một số bình diện tâm lí tình cảm của con
người được biểu đạt trong thành ngữ của hai ngôn ngữ, đặc điểm ngữ nghĩa
của thành ngữ chỉ trạng thái tâm lí tình cảm dưới ánh sáng của ngôn ngữ học
tri nhận cũng như chỉ ra những nét phổ quát và đặc thù ngôn ngữ, văn hóa của
thành ngữ. Ngoài ra, luận án còn tìm ra những tương đồng và khác biệt của
các yếu tố tri thức, ngôn ngữ và văn hóa tác động đến việc hình thành và sử
dụng thành ngữ trong hai ngôn ngữ Anh – Việt.
Luận án của Nguyễn Thị Bích Hạnh (2014) nghiên cứu mang tính chất
chuyên sâu đầu tiên về ngôn ngữ trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn [26]. Tác
giả dùng các mô hình ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận để lí giải các thao tác
và lược đồ tư duy trong ca từ Trịnh Công Sơn, luận án đặc biệt đi sâu lí giải
các cơ chế ánh xạ giữa các miền không gian dựa trên hiệu ứng điển dạng và

các mô hình văn hóa để làm rõ tính chất bộ phận, vô thức và đơn tuyến của
ánh xạ ẩn dụ, từ đó khẳng định rằng, các mô hình tri nhận nhấn mạnh vào bản
chất tinh thần, kinh nghiệm tri giác và nhận thức khoa học của con người. Bên
cạnh đó, luận án nỗ lực gắn phân tâm học và đưa các triết đề của triết Hiện sinh
phương Tây vào lí giải các mô hình ý niệm để nghiên cứu những mạng lưới
liên tưởng trong ngôn ngữ và hình ảnh được thể hiện trong thế giới nhạc ngữ
của Trịnh Công Sơn. Điều đó giúp khám phá ra những ám ảnh mà nhạc sĩ luôn
ôm ấp trong đời sống cũng như trong những giấc mơ giữa đời thường của
mình. Tất cả những ám ảnh này làm nên con người vô thức của tác giả, làm nên
“huyền thoại cá nhân” của nghệ sĩ.
16


Cũng theo hướng tri nhận, luận án của Phạm Thị Hương Quỳnh (2015)
nghiên cứu “Ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Quỳnh” [55] Tác giả tập trung nghiên
cứu đặc điểm của ẩn dụ tri nhận, các mô hình tri nhận của ẩn dụ ý niệm trong thơ
Xuân Quỳnh, những ý niệm tiêu biểu trong thơ Xuân Quỳnh. Luận án góp phần
tích cực vào sự phát triển việc nghiên cứu theo đường hướng ngôn ngữ học tri
nhận tại Việt Nam, cụ thể là về thi pháp học tri nhận, góp phần vào nghiên cứu thơ
Xuân Quỳnh - nữ thi sĩ tiêu biểu trên thi đàn văn học Việt Nam.
Luận án của Nguyễn Thị Bích Hợp (2015) nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm
phạm trù “đồ ăn” trong tiếng Việt” [32]. Tác giả đã tìm hiểu khá thấu đáo và
chi tiết về miền ý niệm “đồ ăn” từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận. Luận
án đã xây dựng thành công cấu trúc “miền đồ ăn”, bao gồm 5 nhóm lớn cùng
với 5 điển mẫu tương ứng, gồm có: (1) thực thể - cơm; (2) đặc điểm – mặn;
(3) đồ dùng – bát; (4) cảm giác – đói; (5) hoạt động – ăn. Tác giả luận án cho
rằng thông qua các điển mẫu, sự vận động ý niệm “đồ ăn” được hình thành,
các thành tố nghĩa mới có sự biến chuyển xa dần nghĩa trung tâm, chuyển
nghĩa theo kiểu hoán dụ hoặc chuyển miền ý niệm tạo nên ẩn dụ.
Luận án của Huỳnh Ngọc Mai Kha (2015) “Nghiên cứu đối chiếu thành

ngữ có từ chỉ “Nước” và “Lửa” trong tiếng Việt và tiếng Anh từ lí thuyết ẩn
dụ tri nhận” [36]. Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thành ngữ có từ chỉ
“Nước”, “Lửa” và các hiện tượng có liên quan trong tiếng Việt và tiếng Anh.
Tác giả đã chỉ ra được những đặc trưng văn hóa – dân tộc của người Anh và
người Việt trong cách tri nhận thế giới khách quan để phục vụ cho việc tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giảng dạy tiếng Anh và tiếng
Việt như một ngoại ngữ, luận án đã miêu tả ẩn dụ tri nhận trong các thành
ngữ có từ chỉ “Nước”, “Lửa” và các hiện tượng có liên quan trong tiếng Việt
và tiếng Anh; so sánh - đối chiếu để chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt
về ẩn dụ tri nhận trong thói quen sử dụng ngôn ngữ và tư duy được thể hiện
qua các thành ngữ có từ chỉ “Nước”, “Lửa” và các hiện tượng có liên quan
trong tiếng Việt và tiếng Anh.
17


×