Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN THỌ

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT
ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT

Hà Nội, năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN THỌ

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Điêu khắc)
Mã số: 60210102


Khóa 18 (2015 – 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PGS. TS. Bùi Văn Tiến

Hà Nội, năm 2017


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Nxb

: Nhà xuất bản

H

: Hình

NĐK

: Nhà Điêu Khắc

Gs

: Giáo sư

PGs

: Phó Giáo Sư

tr


: Trang


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: ......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu luận văn: ..................................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu: .................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu:.............................................................................. 5
6. Đóng góp của đề tài : .................................................................................... 6
7. Kết cấu đề tài:................................................................................................ 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .............. 8
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài....................................................... 8
1.1.1. Khái niệm nghệ thuật điêu khắc .............................................................. 8
1.1.2. Khái niệm nghệ thuật điêu khắc gỗ ....................................................... 11
1.1.3. Khái quát về hình tượng con người trong điêu khắc ............................ 13
1.2. Khái quát về nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 . 15
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ
THUẬT ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 .................19
2.1. Nội dung phản ánh hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 ..................................................................... 19
2.1.1. Nội dung phản ánh hình tượng con người trong lao động sản xuất ...... 19
2.1.2. Nội dung phản ánh hình tượng con người trong cuộc sống thường
nhật ....................................................................................................... 22
2.1.3. Nội dung phản ánh hình tượng con người gắn với những ký ức về cuộc

kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ..................................................... 25


2.2. Các xu hướng nghệ thuật thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật
điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 ............................................... 29
2.2.1. Xu hướng hiện thực hình tượng con người trong điêu khắc gỗ ............ 29
2.2.2. Xu hướng bán trừu tượng hình tượng con người trong điêu khắc gỗ ... 32
2.2.3. Xu hướng biểu hiện hình tượng con người trong điêu khắc gỗ ............ 34
2.2.4. Xu hướng trừu tượng hình tượng con người trong điêu khắc gỗ.......... 37
Chương 3: THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA NGHỆ THUẬT ĐIÊU
KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 TRONG THỂ HIỆN
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI ..................................................................... 42
3.1. Thành công nghệ thuật điêu khắc gỗ về hình tượng con người Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015 ..................................................................................... 42
3.2. Hạn chế sự thể hiện hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2015 với giai đoạn trước đó ................................................. 47
3.3. Đóng góp của nghệ thuật điêu khắc gỗ hình tượng con người giai đoạn
2000 -2015 đối với nghệ thuật điêu khắc đương đại Việt Nam ...................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 57
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................... 59
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................... 68


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 có nhiều thay
đổi trong tạo hình, có hình thức phong phú và đa dạng về nội dung phản ánh.

Hình tượng con người luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tạo nghệ
thuật và là đề tài mà nhiều nghệ sĩ đã khai thác trong các sáng tác điêu khắc.
Vào những năm đầu thế kỷ XXI , cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội,
nghệ thuật thể hiện hình tượng con người trong điêu khắc gỗ cũng phát triển
mạnh mẽ với sự phong phú về phong cách sáng tác như hiện thực, trừu tượng,
biểu hiện... khiến cho những quan niệm mang tính quy chuẩn, hàn lâm trước
đây ít nhiều bị phá vỡ. Trong nghệ thuật tạo hình chất liệu gỗ, người ta dần
nhận ra dấu ấn của các trường phái, phong cách sáng tác của từng tác giả.
Gỗ là một chất liệu truyền thống có kết cấu bền vững, màu sắc đa dạng,
thuận lợi trong việc tạo hình, tạo chất, phù hợp với việc biểu đạt ý tưởng nghệ
thuật. Nghệ thuật điêu khắc từ chất liệu gỗ không chỉ mang lại giá trị nghệ
thuật thẩm mỹ, hướng người xem vào những giá trị nghệ thuật và tính nhân
văn sâu sắc khiến cho những chất liệu tưởng chừng như vô tri vô giác qua bàn
tay tài hoa của các nghệ sĩ điêu khắc đã tạo nên những hình ảnh sống động,
độc đáo, chuyển tải được những thông điệp của thực tại cuộc sống. Ở Việt
Nam, trong giai đoạn từ năm 2000 - 2015, nghệ thuật tạo hình trên chất liệu
gỗ chủ yếu khai thác các đề tài xã hội thông qua hình tượng con người từ
nhiều góc độ khác nhau xuất phát từ các đề tài thực tế mà người nghệ sĩ bắt
gặp trong cuộc sống, tạo nên những tác phẩm mang tính triết lý thời đại trong
bối cảnh của một đất nước yên bình đang trong quá trình xây dựng những giá
trị mới của cuộc sống.
Trong giai đoạn 2000 - 2015, bên cạnh những chất liệu khác được sử
dụng trong nghệ thuật điêu khắc như sắt, đồng gò, đá, composite…, chất liệu
gỗ đã có những đóng góp quan trọng vào thành công của nghệ thuật điêu


2

khắc. Có thể nói, trong giai đoạn này, các nhà điêu khắc đã cho ra đời nhiều
tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ với nhiều phong cách sáng tác và đề tài

phong phú về hình tượng con người. Các tác phẩm này với ngôn ngữ tạo hình,
cách tạo khối, bố cục, hình thức diễn đạt, thể hiện cảm xúc trên chất liệu đã
thể hiện được một không khí cuộc sống hạnh phúc, bình an của con người,
mang tính nhân văn sâu sắc. Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc gỗ trong giai
đoạn này cũng bộc lộ những hạn chế trong xây dựng hình tượng, trong phong
cách biểu đạt, trong kỹ thuật thể hiện, v.v…
Cho đến nay, đã có những nghiên cứu về những vấn đề khác nhau của
nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu đó còn chưa
mang tính hệ thống và nhất là chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về hình tượng
con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ tại Việt Nam ở giai đoạn cụ thể này.
Vì vậy, em mạnh dạn chọn vấn đề “Hình tượng con người trong nghệ thuật
điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015” làm đề tài nghiên cứu trong
luận văn tốt nghiệp. Em hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có
phần nào đó đóng góp vào việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc phản ánh hình tượng con người bằng nghệ thuật điêu khắc gỗ ở Việt
Nam trong giai đoạn quan trọng này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài ở Việt
Nam, những công trình nghiên cứu, sách báo, giáo trình... trong nước đã tổng
hợp hệ thống kiến thức, lý thuyết theo quá trình lịch sử, theo phương pháp
phân tích và tổng hợp hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2015.
Một số tài liệu, tác giả sau đã có cái nhìn tổng quan về hình tượng con
người trong điêu khắc gỗ Việt Nam:


3

Tài liệu sách
- Phạm Thị Chỉnh – Trần Tiểu Lâm (2008), Giáo trình Mỹ thuật học,

Nxb Đại học Sư Phạm. Cuốn sách này có đề cập điêu khắc và chất liệu trong
điêu khắc, cụ thể là chất liệu gỗ nhưng cũng chỉ mang tính chất giới thiệu.
- Trong cuốn Các thể loại và loại hình mỹ thuật của tác giả Nguyễn Trân
(Nxb Mỹ thuật, 2005) đã chỉ ra các loại hình cơ bản của điêu khắc và chất liệu
gỗ.
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Dũng (2013), Tìm hiểu về ngôn ngữ điêu khắc,
tạp chí Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm: Bài viết đề cập đến các ngôn
ngữ nghệ thuật điêu khắc như: đường nét, khối hình và không gian. Sự kết
hợp của các ngôn ngữ đó không chỉ thể hiện độ hiểu biết của tác phẩm mà còn
làm tăng thêm tính biểu cảm cho tác phẩm điêu khắc vốn tự thân khô cứng
của các chất liệu.
- Nghiêm Thị Thanh Nhã, (2011) Vài nét về hình tượng con người trong
điêu khắc trên tạp trí văn hóa - Trường Đại học văn hóa cũng nêu khá rõ hình
tượng con người trong điêu khắc.
- Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, tác giả Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ
biên) (Đại học Mỹ thuật Việt Nam – Viện Mỹ thuật, (2005). Cuốn sách có
phân tích khái quát một số tác giả tác phẩm chất liệu gỗ như: NĐK Tạ Quang
Bạo, NĐK Đinh Rú…
- Quang Phòng, Trần Tuy (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập đến hội họa và điêu khắc từ khi thành lập
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1925 đến những năm cuối thế
kỷ XX, từ đó cung cấp cái nhìn rõ nét về sự chuyển biến của mỹ thuật Việt
Nam hiện đại.
- Chu Quang Trứ (2001), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc
dân tộc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, đề cập đến nghệ thuật tạo hình tượng cổ Việt
Nam trong đó có điêu khắc tượng gỗ trong các chùa tiêu biểu như chùa Tây


4


Phương (Hà Nội), chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Mía (Hà Nội). Cuốn sách cung
cấp cái nhìn khái quát về điêu khắc gỗ truyền thống Việt Nam.
Các tài liệu báo, kỷ yếu hội thảo
- Một số bài viết tại các triển lãm mỹ thuật, điêu khắc toàn quốc trong nước,
một số bài báo như Chất liệu gỗ của Emile Van Der Kruk trong Điêu khắc
đương đại của tác giả Lê Thị Hiền (Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng
9/2015) đã có phân tích về những tạo hình trên chất liệu gỗ.
- Nhóm tác giả (2007), Kỷ yếu hội thảo khoa học 20 năm Mỹ thuật Việt
Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. Kỷ yếu đã cung cấp những
thông tin về mỹ thuật Việt nam trong giai đoạn đổi mới từ năm 1986 – 2006.
Đây là một giai đoạn có nhiều chuyển biến, thay đổi của mỹ thuật Việt Nam,
từ đó cung cấp thông tin cho nghiên cứu đề tài.
- Nhóm tác giả (2014), Kỷ yếu hội thảo Triển lãm Điêu khắc toàn quốc
lần thứ 5(2003 – 2013) và điêu khắc Việt nam trong giai đoạn hiện nay, Công
ty cổ phần in Savina, Hà Nội. Kỷ yếu đã đề cập đến nhiều vấn đề về điêu khắc
giai đoạn 2003 – 2013, nhiều bài viết nghiên cứu về điêu khắc giai đoạn này
đã cung cấp thêm thông tin, nhìn nhận và so sánh về nghệ thuật điêu khắc giai
đoạn này so với những giai đoạn trước.
Các công trình nghiên cứu:
- Đoàn Văn Bằng (200 ) Hình tượng nhân vật trong tác phẩm điêu khắc (
Luận văn Thạc sĩ Mỹ thuật )
- Điêu khắc Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003, Trần Thị Biển, (2007), đề
tài cơ sở (Tư liệu thư viện Viện Mỹ thuật Việt Nam), đã khái quát về điêu
khắc Việt nam giai đoạn 1993 – 2003.
- Nguyễn Thành Hiếu (2002) Chất liệu gỗ trong tác phẩm điêu khắc Việt
Nam, khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Bài viết có đề
cập đến vấn đề chất liệu gỗ trong tác phẩm điêu khắc và đưa ra được thành
công, hạn chế của tác phẩm, bên cạnh đó vấn đề chất lượng gỗ khi thực hiện.



5

- Nguyễn Hồng Phong (2012) Điêu khắc gỗ Việt Nam từ 1986 đến nay
(Luận văn Thạc sỹ Mỹ thuật)
3. Mục đích nghiên cứu luận văn
- Luận văn nghiên cứu đặc điểm, xu hướng, hình thức và nội dung thể
hiện hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn
2000 - 2015.
- Nghiên cứu sự chuyển biến về mặt tạo hình, sự sáng tạo trong tạo hình
điêu khắc gỗ về hình tượng con người trong giai đoạn 2000 – 2015.
- Tìm ra những thành công, hạn chế trong tạo hình điêu khắc hình tượng
con người giai đoạn 2000 – 2015 và những đóng góp cho sự phát triển của
nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng: Hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Triển lãm Điêu khắc Toàn quốc lần thứ 4 (2003).
Triển lãm 10 năm điêu khắc toàn quốc lần thứ 5 (2003 – 2013); một số Triển
Mỹ thuật Toàn quốc (2005, 2010, 2015) định kỳ trong nước và một số triển
lãm mỹ thuật khác.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2000 - 2015
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thực địa
Trực tiếp quan sát, chụp ảnh, sử dụng những tài liệu từ các phương tiện
thông tin đại chúng, sách báo và Internet. Đây là phương pháp quan trọng,
bước đầu của việc nghiên cứu hình tượng con người trong điêu khắc gỗ.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu



6

Phân tích tài liệu: Tiếp cận, tổng hợp có hệ thống, các hệ thống tư liệu
ảnh, văn bản về những vấn đề liên quan đến hình tượng con người trong nghệ
thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. Trên cơ sở đó tiến hành
chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu để từ đó thấy được giá trị nghệ thuật, nét
đặc sắc trong sáng tác hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ
Việt Nam, việc xử lý thông tin đảm bảo được tính khách quan và chính xác.
Phương pháp diễn dịch
Sử dụng phương pháp diễn dịch để trình bày và làm rõ các vấn đề đặt ra.
Phương pháp so sánh
Tiến hành so sánh hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 với một số triển lãm khác trong nước và
nước ngoài cùng giai đoạn, nhằm khai thác giá trị nghệ thuật về hình thức thể
hiện, đề tài, nội dung, cách tạo hình tượng con người trong nghệ thuật điêu
khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Có thể nói rằng đến thời điểm này, chưa có công trình
này đi sâu nghiên cứu về hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc gỗ
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. Do vậy, tính mới của đề tài có ý nghĩa bước
đầu trong việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về ngôn ngữ tạo hình, xu
hướng sáng tác, kỹ thuật thể hiện tác phẩm điêu khắc gỗ về hình tượng con
người trong giai đoạn này.
- Về mặt thực tiễn: Dự kiến đóng góp của đề tài một phần nào làm rõ
được những đặc điểm ngôn ngữ tạo hình con người trên gỗ, như: Thể hiện chủ
đề nội dung, bố cục, xử lý khối, màu sắc, tính biểu cảm và cảm xúc chất liệu
gỗ. Qua đó cho ta thấy được giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân văn
và những đóng góp của nghệ thuật điêu khắc gỗ vào việc làm phong phú đời
sống văn hóa của nhân dân ta hiện nay.



7

7. Kết cấu đề tài
Luận văn có dung lượng 89 trang. Ngoài phần Mở đầu (7 trang), kết luận (2
trang), tài liệu tham khảo (2 trang), phụ lục ảnh (30 trang), theo quy định nội dung
chính (48 trang) của luận văn được chia làm ba chương
Chương 1: Tổng quan chung về đề tài nghiên cứu (11trang)
Chương 2: Sự thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc
gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 (23 trang)
Chương 3: Thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015 trong thể hiện hình tượng con người. (14 trang)


8

NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài
1.1.1. Khái niệm nghệ thuật điêu khắc
Trong nghệ thuật tạo hình, điêu khắc hình thành và phát triển rất sớm.
Trải qua nhiều giai đoạn của xã hội loài người, ngày nay nền điêu khắc đang
phát triển với muôn màu muôn vẻ khác nhau. Điêu khắc từ trước tới nay, hình
thức và cách xử lý chất liệu chúng giữ vai trò rất quan trọng trong tác phẩm
điêu khắc vì nó ảnh hưởng đến tính biểu cảm trong tác phẩm. Khác với chủ
quan tồn tại trong suy nghĩ, ý nghĩa về mặt hình thức cùng với chất liệu ở tác
phẩm được sử dụng ở nghệ thuật điêu khắc nằm trong một kết cấu đặc biệt.
Nó có thể mang thông điệp tự thân ở tác phẩm khi nhà điêu khắc sáng tạo, để

làm rõ hơn về khái niệm nghệ thuật điêu khắc, được chia thành hai ý chính:
- Khái niệm “ Nghệ thuật”
Cuốn Từ điển Mỹ thuật phổ thông của tác giả Đặng Thị Bích Ngân (chủ
biên) (2002) đưa ra định nghĩa:
Nghệ thuật là các phương pháp tiến hành để làm ra các sản phẩm chứng
tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng, cảm xúc và sự sáng tạo của con
người. Với quan niệm hiện đại, định nghĩa nghệ thuật thường phản ánh những
tiêu chuẩn thẩm mĩ trong văn học – xã hội… Nghệ thuật phản ánh các tiêu
chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo. Đặc biệt, nghệ thuật thường khai thác sự đối lập
giữa các yếu tố để sáng tạo. Người nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các yếu tố
khác nhau trong nội dung, trong kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác
phẩm nghệ thuật. [7; tr.101]


9

Cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học như sau đưa ra hai
định nghĩa cho danh từ nghệ thuật:
“Nghệ thuật (danh từ). 1 Hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình
tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư
tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng hình tượng nghệ thuật trong
tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu tính sáng tạo”. [21,
tr.865]
Như vậy trên cơ sở các định nghĩa thì nghệ thuật là sự sáng tạo ra sản
phẩm, tạo ra cái mới, cái đẹp mang lại cho người xem có nhiều cảm xúc và
chính tác phẩm còn mang lại giá trị nhân văn, giá trị tư tưởng và giá tri tinh
thần.
- Khái niệm “Điêu khắc”
Theo từ điển Tiếng Việt, “Điêu khắc” là một loại hình nghệ thuật thể
hiện hoặc gợi tả sự vật trong không gian bằng cách sử dụng những chất liệu

khắc nhau như: Đất sét, đá, gỗ, kim loại, gốm, nhựa, giấy, tổng hợp... để tạo
thành những hình thù nhất định.
Cuốn Từ điển Tiếng Việt của tác giả Văn Tân thì đưa ra định nghĩa:
“Điêu khắc là sự biểu thị tình cảm, tư tưởng bằng những hình trong không
gian tạo bằng những chất liệu như đất, đá, gỗ, thạch cao, kim loại… nhằm
một mục đích thẩm mỹ.” [12, tr.298]
Theo Từ điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông (2002), điêu khắc là:
Nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều (tượng
tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp,
gắn… những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… Điêu khắc còn là
nghệ thuật nặn tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay khéo léo của người
nghệ sĩ, đồng thời là nghệ thuật đúc tượng thông qua việc đổ khuôn. [7, tr.65]
Vậy có thể hiểu rằng: Điêu khắc là một nghệ thuật tạo hình, tồn tại trong
không gian 3 chiều để thể hiện ý tưởng của tác giả ngôn ngữ của điêu khắc cơ


10

bản là mảng khối. Điêu khắc còn là hình thức đắp nổi hoặc khoét lõm với
chiều dài, rộng là thực còn phần nổi mang tính ước lệ về khối. Điêu khắc gồm
hai thể loại chính đó là phù điêu, tượng tròn.
Tượng tròn: Là tượng có khối ba chiều và chiếm chỗ trong không gian
ba chiều, có đa hướng nhìn, người xem có thể quan sát được nhiều hướng
khác nhau. Việc giải quyết không gian tượng đóng một vai trò quan trọng.
Một số tượng tròn dựa và một nền tường hay một phong cảnh nào đó. Các yếu
tố đi của người xem được xem xét như một yếu tố biểu đạt. Những khối tượng
được tính toàn các hướng nhìn, tầm nhìn chính phụ khác nhau. Mặt chính,
hướng chính, cận chính được được ưu tiên và nhấn mạnh. Chủ đề cũng như ý
tưởng nghệ thuật được thể hiện ở hướng chính và cũng là trọng tâm của nội
dung và hình thức tác phẩm.

Phù điêu: Là những chạm khắc hay đắp nổi lên một bề mặt hai chiều. có
một hướng nhìn chính duy nhất là chính diện, đôi khi có thể nhìn từ hai phía
nhưng không thấy được nội dung toàn bộ bức phù điêu. Phù điêu có mấy loại
chính:
Phù điêu nổi cao: Tức là được đắp cao hơn phần nền, phần đắp lồi ra
phía trước như hình thức làm tượng tròn.
Phù điêu thấp: Được đắp thấp cách mặt phẳng vừa phải, hợp lý, thuận
mắt, các lớp xử lý không cách xa nhau.
Phù điêu chìm: (khối âm) khác với hai hình thức trên, phù điêu chìm
được làm âm hay khoét lõm, đục thủng xuống thấp hơn mặt phẳng đã có sẵn
hình được và có hiệu quả tranh khắc đồ họa.
Phù điêu hai mặt: Là hình thức thực hiện hình tượng hay bố cục hai mặt
giống nhau, người xem có thể quan sát ở nhiều hướng.
Trong điêu khắc, màu sắc cũng là một yếu tố không thể thiếu trong nghệ
thuật tạo hình trên gỗ, người ta dùng màu sắc để biểu lộ tình cảm, tả chất,
không gian, thời gian, và cảm xúc của người nghệ sĩ trước tác phẩm. Trong


11

điêu khắc gỗ màu sắc tự nhiên, người nghệ sĩ biết kết hợp màu sắc công
nghiệp để tạo hiệu quả cho tác phẩm.
Màu trong nghệ thuật điêu khắc, luận văn thạc sĩ mỹ thuật Mai Thu Vân
có đề cập đến.
“Khi việc sử dụng màu trong điêu khắc không còn là điều gây hoài nghi,
thì việc sử dụng màu như thế nào mới là điều đáng nói. Những thể loại tác
phẩm nào thường làm cho nhà điêu khắc nảy sinh ra ngẫu hứng sử dụng màu
sắc? Các tác phẩm theo phong cách hiện thực thường ít được thể nghiệm màu
trên đó bởi sự lệ thuộc vào cách nhìn đã quen với cái có thực”[16, tr.37].
Bố cục được hiểu là sự sắp xếp kích thước và tương quan của những

đường nét, hình dáng và màu sắc các vật thể trong một tác phẩm. Trong một
tác phẩm người nghệ sĩ phải tính toán, khéo léo những mảng khối sao cho phù
hợp và thống nhất ngôn ngữ tạo hình trên chất liệu gỗ.
Nhịp điệu trong điêu khắc cũng rất kết hợp đường cong và khối nổi, khối
âm làm cho tác phẩm có hiệu quả khi ánh sáng tác động vào.
Chất cảm là phương tiện tạo hình tác động trực tiếp trên mắt người
thưởng ngoạn. Người xem không chỉ xem cái đẹp ở hình tượng con người mà
người nghệ sĩ dùng kỹ thuật tạo chất phù hợp với môi trường, không gian.
Bên cạnh đó kích thước, tỉ lệ, màu sắc sẽ tạo ra tương tác giữa tác phẩm và
công chúng.
1.1.2. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc gỗ”
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt của hội Khoa học – Xã hội – Nhân văn
thì nghệ thuật được định nghĩa là:
“Nghệ thuật (danh từ) là công việc là có đường lối, phương pháp, để tỏ ý
thức, tình cảm hay lý tưởng của mình trên ba điểm: Chân, thiện và mĩ. Người ta
đã thống nhất ý chí về nghệ thuật và sắp xếp chúng theo thứ tự: 1. Âm nhạc; 2.
Vũ điệu; 3. Hội họa; 4. Điêu khắc; 5. Kiến trúc; 6. Ca kịch; 7. Điện Ảnh” [5;
tr.844]


12

Nghệ thuật điêu khắc gỗ là một trong những hình thức của nghệ thuật
điêu khắc, được phân chia theo chất liệu cấu thành. Vậy nên, nghệ thuật điêu
khắc gỗ cũng mang đầy đủ những tính chất cơ bản của nghệ thuật điêu khắc.
Như vậy có thể hiểu nghệ thuật điêu khắc gỗ là một loại hình nghệ thuật tạo
hình trong không gian hai chiều, đa chiều. Các tác phẩm điêu khắc gỗ được
tạo nên qua quá trình xử lý khối, đường nét, màu sắc trên chất liệu mang lại
hiệu quả và giá trị thẫm mỹ cho tác phẩm.
Gỗ có rất nhiều ưu điểm như: cách điện, cách nhiệt, ngăn ẩm, nhiệt giản

nở bé. Gỗ là chất liệu mềm nên có thể dùng máy móc, dụng cụ cưa để xẻ, bào,
khoan, tách chẻ với vận tốc cao nhưng vẫn chịu lực tốt. Bên cạnh đó, gỗ lại dễ
ghép nối bằng đinh, mộng, keo dán nên có thể dễ dàng sử dụng trong nhiều
công việc khác nhau. Ngoài ra, gỗ lại có vân thớ đẹp, dễ muộn màu, dễ trang
trí nên được dùng nhiều trong trang trí nhà cửa, trang trí nội thất.
Bên cạnh những ưu điểm, gỗ cũng có nhiều nhược điểm như: khi trồng
cây thân gỗ để lấy gỗ thì mất rất nhiều thời gian bởi gỗ là loại cây sinh trường
chậm, đường kính thân gỗ có hạn, có nhiều khuyết tật tự nhiên, dễ mục, dễ bị
sinh vật (mối, mọt…) phá hoại.
Tương ứng với các tính chất của chất liệu, kỹ thuật tạo tác chất liệu gỗ
cũng có có những sự tương thích: Sử dụng các công cụ: dao, đục…trực tiếp
tạo hình trên khối chất liệu; vận dung phương pháp: cưa, cắt, đục, đẽo, gọt,
mãi nhẵn…
Cho đến nay, nghệ thuật điêu khắc gỗ đang hình thành và phát triển
nhiều xu hướng mới, nhiều loại hình, ngôn ngữ, hình thức, nội dung…Bằng
những tư duy phá cách, tìm tòi, đặc biệt là tiếp thu những trào lưu nghệ thuật
thế giới đã làm cho nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
có nhiều thành tựu đáng kể trong sáng tạo nghệ thuật. Bên cạnh những chất
liệu mới, hiện đại, nhiều thử nghiệm mới thì nghệ thuật điêu khắc gỗ mang


13

trong mình một bản sắc riêng với chất liệu truyền thống nhưng vẫn tạo được
cho người xem có cảm xúc trước những tác phẩm được tạo hình từ gỗ.
1.1.3. Khái quát về hình tượng con người trong điêu khắc
Trải dài quá trình lịch sử mỹ thuật, từ thời kỳ sơ khai cho đến Ai Cập Cổ
đại hay Hy Lạp Cổ Đại, hình tượng con người trong điêu khắc làm chủ đề
chính xuyên suốt về mặt tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng… Ở Việt Nam hình
tượng con người trong tạo hình nghệ thuật được khai thác rất nhiều ở các tác

phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian khắp các vùng miền trên cả nước.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, cuối thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển đỉnh cao
của nghệ thuật điêu khắc kiến trúc đình làng Việt. Hình tượng con người
trong điêu khắc gỗ được trang trí trong đình làng giai đoạn này là một điểm
nhấn độc đáo, không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà còn đa dạng về
thủ pháp nghệ thuật diễn đạt. Nghệ thuật đã phát triển lên một trình độ mới,
thể hiện ý thức về cuộc sống tinh thần của người dân đương thời. Hình tượng
con người không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà còn đa dạng về thủ
pháp nghệ thuật diễn đạt và chiếm một vị trí trang trọng trong đình. Có thể
chia theo hai nội dung chính:
- Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại, ước lệ được thể hiện ở
những mảng trạm khắc theo các chủ đề: “Vũ nữ thiên thần” “người cưỡi rồng,
phượng, hạc”, “táng mả Hàm Rồng” “Người cưỡi hổ”
- Với hình tượng con người phản ánh cuộc sống xã hội đương thời được
thể hiện ở cảnh ”Đấu vật”, “uống rượu”; “đánh cờ”; “mẹ con”; “cưỡi ngựa”,
“chọi gà, lễ hội”, “nam nữ tình tự”, “thiếu nữ tắm hồ sen”, “chèo thuyền”, “đi
săn”.
Với hình tượng con người mang yếu tố thần thoại nổi bật với những hình
tượng vũ nữ thiên thần có cánh và không có cánh. Tượng vũ nữ ở vị trí ván gió
cánh gà thường chạm chính diện với khuôn mặt trái xoan, mũi thấp, môi mỏng,


14

cổ cao thanh tú. Có khi tượng vũ nữ lại có những đặc điểm chung là ngực nở
bụng thon, cánh tay dài với những ngón tay búp măng mềm mại.
Bên cạnh đó còn rất nhiều hình tượng con người khác như những đạo sĩ
ngồi bó gối trầm tư (đình Hạ Hiệp), người bắt lợn (đình Hạ Hiệp, đình Hương
Canh...), chồng nụ, chồng hoa, thôn nữ ngồi trên đầu rồng, đá cầu (đình Hạ
Hiệp, đình Hương Canh), cưỡi ngựa, cưỡi voi, quản tượng... Với hàng trăm

con người đã vẽ lên bức tranh làng quê xưa: có điều thiện và tội ác, có hạnh
phúc và khổ đau, có nụ cười và nước mắt, có khát vọng, lạc quan và bi luỵ,
đau thương... Tuỳ từng đề tài mà cách diễn đạt, mô tả, nhấn mạnh từng đặc
điểm khác nhau. Đạo sĩ thường có khuôn mặt đăm chiêu (đình Hạ Hiệp), cảnh
đấu vật, đi săn.. thì nhấn mạnh các bắp thịt cuồn cuộn của nhân vật chính
(đình Hạ Hiệp, Đại Phùng, Hoàng Xá), cảnh nam nữ tình tự, cảnh thiếu nữ...
lại chú ý diễn tả khuôn mặt vui vẻ, viên mãn; các cô gái được diễn tả với
khuôn ngực căng tròn, đầy sức sống (đình Phù Lão); Người nông dân thường
có đặc điểm: đầu tròn, to, cạo trọc; đàn bà thường có khuôn mặt đầy đặn,
phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc búi thành búi lớn trên đỉnh. Nói chung hình
ảnh con người đa phần đều mang những nét cơ bản của người bản địa, thuộc
chủng tộc Nam á, với những đặc điểm: người thấp, đậm, mặt tròn, mũi to,
sống mũi thấp, môi dày, mắt to... Cũng có một vài mảng chạm người đàn ông
có vóc dáng khá cao lớn, mũi cao, và đặc biệt dựa vào trang phục (áo dài,
chân đi ủng, đầu đội mũ phớt rộng vành...), có thể đó là những người phương
Tây đến nước ta buôn bán trong giai đoạn này; Những bức chạm mô tả người
đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn, táng mả hàm rồng... thường có thân
hình vạm vỡ, ngực nở, đôi khi các cơ bắp được phóng đại lên quá mức. Nhìn
chung, hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng thế kỷ XVII
thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ, chỉ bằng 1/3.
Ngay từ khi xuất hiện nghệ thuật chạm khắc dân gian, đề tài con người
đã luôn được các nghệ nhân quan tâm và phản ánh dưới nhiều góc độ khác


15

nhau như cảnh vui chơi sinh hoạt, lao động sản xuất, cảnh chiến đấu để bảo
vệ xóm làng... Dẫu rằng lịch sử có nhiều khúc quanh tác động đến hoa văn,
nhưng ta vẫn nhận thấy mỗi thời kỳ hình tượng con người lại được phản ánh
bởi những nét đặc trưng riêng.

Trong bài viết Vài nét về hình tượng con người trong điêu khắc, của
Nghiêm Thị Thanh Nhã, (2011) tạp chí nghiên cứu văn hóa, Trường Đại học
Văn Hóa, có đề cập đến hình tượng con người nhưng chỉ mang tính chất tổng
quan của bài nghiên cứu.
Như vậy hình tượng con người trong điêu khắc nói riêng và nghệ thuật
nói chung. Luôn là đề tài mà các nghệ sĩ khai thác, phản ánh, ca ngợi vẻ đẹp
của con người và mang lại cho nền mỹ thuật Việt Nam thêm phong phú về
nội dung và hình thức.
1.2. Khái quát về nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
Trong vòng một thế kỷ trở lại đây, phạm vi sử dụng các chất liệu trong
điêu khắc đã làm nên một cuộc cách mạng không chỉ về về sự đa dạng về chất
liệu, mà xa hơn là những phương cách truyền đạt thông tin của tác phẩm điêu
khắc một cách chủ động từ chính chất liệu tạo nên tác phẩm. Trong điêu khắc,
việc làm nổi bật được ưu điểm của chất liệu, sẽ góp phần mang lại giá trị
phẩm mỹ cũng như giá trị về thời gian.
Trong mỹ thuật đương đại việc sử dụng ngôn ngữ tự thân của chất liệu
không ngừng trở nên phức tạp và bất ngờ hơn trong ứng dụng và cân nhắc
trong sáng tác điêu khắc. Các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc theo xu hướng
mới không nhất thiết phải theo những mô phạm nhất định mà với những hình
thức, chủ đề và bối cảnh mới, cộng với quan điểm nghệ thuật được mở rộng
hơn đã thôi thúc các nghệ sỹ chú ý tới ngôn ngữ tự thân của chất liệu với ý
thức cân nhắc và chủ động hơn trong sáng tạo, mở ra những thay đổi trong
cách giải quyết những nội dung, hình dáng, hay các đề tài mới. Nghệ thuật bắt
đầu từ rất xa xưa khi con người hình thành ý thức, cảm nhận về cái xấu, cái


16

đẹp xung quanh cuộc sống. Con người nguyên thủy đã biết sử dụng những vật
dụng hàng ngày, như đá, ngà voi…vv để làm trang sức, đồ dùng sinh hoạt cho

cá nhân của họ. Chính vì thế nghệ thuật đã xuất hiện từ rất xa xưa ở những thế
kỷ sơ khai của con người và cho đến ngày nay, nghệ thuật không ngừng phát
triển mà còn đi đến những thành quả khá ấn tượng. Có thể nói rằng 100 năm
trở lại đây nghệ thuật nói chung và nghệ thật tạo hình nói riêng đã phát triển
một cách nhanh chóng, với những trào lưu nghệ thuật, xu hướng, trường phái
được ra đời từ những tác phẩm điêu khắc, hội họa mang nhiều phong cách
vừa cổ điển vừa hiện đại.
Những năm đầu thế kỷ XX tình hình phát triển xã hội của những nước
phương Tây nghệ thuật tạo hình bằng chất liệu gỗ ra đời ra đời và phát triển
mạnh mẽ, những quan niệm quy chuẩn, hàn lâm trước đây ít nhiều đã bị phá
vỡ. Nghệ thuật tạo hình từ chất liệu gỗ đã tạo nên luồng sinh khí mới cho các
trào lưu hiện đại như Pop Art, Trừu tượng, Installation, Contemporary Arts,
Composition ... chất liệu sử dụng làm tác phẩm dùng để tạo hình có tiếng nói
bởi chính ngôn ngữ tự thân của gỗ, những tác phẩm điêu khắc từ chất liệu gỗ
đã dần dần hình thành các trường phái, phong cách cho từng trào lưu và tác giả.
Năm 1925 trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập nay là
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam là sự khởi đầu của mỹ thuật Việt Nam
hiện đại, nối tiếp những giá trị tạo hình truyền thống, một số nghệ sĩ đã tiếp
thu với nề điêu khắc hiện đại trên thế giới và có nhiều xu hướng mới, phong
cách khá rõ nét. Tuy nhiên cùng với việc tiếp thu nghệ thuật phương Tây
những giá trị mới, bên cạnh những tác phẩm Việt Nam chỉ là những kiến thức
cơ bản , hàm lâm. Ở giai đoạn này nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam cũng có
nhiều biến đổi so với giai đoạn trước, nhiều nghệ sĩ đã thành công có cái nhìn
nghệ thuật chuẩn mật, gần gũi cuộc sống hằng như nhà điêu khắc Đinh Rú,
Ngô Kông Chuẩn, Lê Bá Đảng, Lưu Thanh Lan, Trần Tía.. họ đã tạo ra nghệ


17

thuật điêu khắc gỗ ở thời kỳ nghệ thuật bắt đầu hình thành chất liệu chủ đạo

trong sáng tác điêu khắc.
Cùng trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế, mỹ thuật nói chung
và nghệ thuật điêu khắc gỗ nói riêng đã luôn đi đầu và bước những bước tiến
khá nhanh. Nghệ thuật điêu khắc gỗ đã phát triển mạnh thành nhiều xu hướng
tạo hình khác nhau như: Biểu hiện, trừu tượng, hiện thực, cuộc sống thường
nhật... và vô số các phong cách cá nhân tự do, đa dạng. Bên cạnh đó, những
thay đổi táo bạo mới mẻ về chất liệu và kỹ thuật cũng góp phần tạo nên sự
phong phú cho ngôn ngữ bề mặt và cách biểu cảm của chất liệu gỗ mang lại
trong thời kỳ hội nhập, tạo nên những bước ngoặt, những đột phá trong lịch
sử mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật điêu khắc gỗ hiện đại chủ yếu tập trung
vào ngôn ngữ, sử dụng khối đơn giản, phóng khoán, tự do, khái quát hình
tượng con người trong nội dung bố cục cụ thể, khác với điêu khắc gỗ hàn lâm,
thường được các nghệ sĩ thể hiện hình tượng con người cụ thể, rõ ràng, thể
hiện vẻ đẹp con người, chú ý đến tỷ lệ chuẩn, trang phục và biểu cảm sắc thái
nhân vật mang lại giá trị nghệ thuật nhân văn sâu sắc.
Có thể nói nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam 2000 - 2015 được tiếp nối
những thành tựu, trào lưu mới của thế giới qua những cuộc triển lãm toàn
quốc, triển lãm trẻ thường kỳ, triển lãm 10 năm điêu khắc… Xu hướng các
nghệ sĩ sử dụng chất liệu gỗ ngày nhiều so với giai đoạn trước, đa dạng về nội
dung, phong phú hình thức đã để lại nhiều tác phẩm mới, tư duy mới về ngôn
ngữ, phối hợp màu sắc để tạo tình cảm trên bề mặt tác phẩm. Nghệ thuật điêu
khắc gỗ giai đoạn 2000 - 2015 nhiều bức phá, những quan điểm, thông điệp
và phong cách khẳng định tên tuổi của mình. Các tác phẩm ở giai đoạn này rất
ít thể hiện bó hẹp trong giới hạn mà họ đã tạo ra một luồn sinh khí mới, tác
giả dùng những khối dương, khối âm tạo cảm giác độ nông sâu cho tác phẩm.
Cách nhìn những tác phẩm điêu khắc gỗ không còn nhẵn mịn, trau chuốt mà
thay vào đó là sự sần sùi, thô rát của bề mặt, không gian của tượng gỗ, cảnh


18


quan xung quanh, khí hậu… mỗi tác phẩm điêu khắc gỗ đều có thông điệp
tương tác đến người thưởng ngoạn.
Nghệ thuật ở giai đoạn này chủ yếu khai thác hình tượng con người dưới
nhiều góc độ khác nhau, thể hiện ngôn ngữ khác nhau, như chủ đề về con
người thường nhật, tình yêu mẫu tử, chủ đề lao động, chủ đề tái hiện lại quá
khứ…Tác phẩm “Cầu mưa” (H.28, tr.74) của tác giả Minh Tuấn. “ Nhớ rừng”
(H.12, tr.65) của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng. “Em đi hội làng” (H.12, tr.65)
của Nguyễn Văn Nhâm. "Đuốc sống" (H.23, tr.72) của Nguyễn Chí Đức.
“Tấm áo miền xuôi” (H.37, tr.72) của Nguyễn Hồng Dương … tác giả đã tạo
hình nhân vật thanh thoát, nhẹ nhàn, bố cục hình trụ chắc chắn, sử dụng khối
kỹ hà đơn giản, khối căn tròn nhưng vẫn lột tả được đặc điểm nhân vật, đặc
điểm vùng miền.
Tiểu kết
Nội dung của chương một giải quyết những vấn đề lý thuyết mang tính
tổng quan để triển khai đề tài. Nó đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về khái niệm
“hình tượng con người trong điêu khắc gỗ” cùng với các thuộc tính của nó.
Trong chương này, hình tượng con người trong điêu khắc gỗ được giới
thiệu một cách khái quát, khái niệm về điêu khắc gỗ, những đặc điểm, màu
sắc, nhịp điệu, ngôn ngữ và những xu hướng sáng tác hình tượng con người,
đặc biệt giai đoạn này chủ đề hình tượng người phụ nữ được khai thác nhiều
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các đề tài ở đây có đặc điểm chung là tuân theo những quy tắc của mỹ
thuật Việt Nam, tuy có chịu sự ảnh hưởng của nền mỹ thuật phương Tây,
nhưng vẫn mang những yếu tố dân tộc ở trong hình tượng con người. Bên
cạnh đó cũng khái quát sự hình thành điêu khắc gỗ qua từng giai đoạn và có
cái tổng quan hình tượng con người, vai trò con người trong điêu khắc gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015. Trên cơ sở những vấn đề lý thuyết đồng thời là
tiền đề, là cơ sở cho những nội dung nghiên cứu của chương 2.



19

Chương 2
SỰ THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT
ĐIÊU KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015
2.1. Nội dung phản ánh hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc
gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
Trong nghệ thuật tạo hình nội dung và hình thức là một phần quan trọng
trong tác phẩm, nội dung còn là phần cốt lõi, diễn tả, phản ánh hiện thực xã
hội hiện tại, tương lai. Khi nhìn vào nghệ thuật người ta có thể thấy, hiểu rõ
về một dân tộc, một xã hội, một quốc gia, một nền văn minh ở những giai
đoạn phát triển mạnh mẽ. Qua đó nội dung trong tác phẩm, đặc biệt nội dung
phản ánh hình tượng con người trong điêu khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 2015 có nhiều sự bức phá trong hình thành các đề tài về hình tượng con người
trong điêu khắc Việt Nam.
2.1.1. Nội dung phản ánh hình tượng con người trong lao động sản xuất
Trong thời kỳ Cổ đại trên các hang động có những bức vẽ mô tả cảnh đi
săn, hái quả… là một quá trình lao động cơ bản nhất của con người, đồng thời
lao động giúp con người cũng có ý thức về việc làm của mình, những hành
động, trong đó có ý thức về cái đẹp của nó. Vì đó là thành quả sáng tạo, họ tái
hiện lại những cuộc đi săn, khai phá nương rẫy, là những đề tài ca ngợi của
nghệ thuật hoan sơ. Ở Việt Nam đề tài lao động được đề cao, vì giá trị bảo tồn
sự sống rất rõ ràng, trên trống đồng Ngọc Lũ được tái hiện bằng những hình
ảnh lao động, giã gạo, săn bắt, nhảy múa, đánh trống, chèo thuyền và ăn
mừng những thành quả mà chính con người lao động mà có được.
Khi xã hội phát triển thì trình độ văn hóa con người được nâng lên, trong
đó nghệ thuật tạo hình cũng phát triển theo, tư tưởng của con người thể hiện
sức mạnh qua nghệ thuật. Thời Vua chúa là thời tư bản con người tư sản thoạt
đầu tiến bộ sau đó trở nên tha hóa, lạc hậu. Nghệ thuật xã hội chủ nghĩa là



20

nghệ thuật của một thời đại, nghệ thuật do con người tạo ra, nói về chính bản
thân cuộc sống của họ. Vì vậy, mỗi đặc trưng cơ bản nào của bất cứ nền nghệ
thuật xã hội chủ nghĩa nào là sự thể hiện lao động và con người lao động theo
xu hướng đề cao, cơ ngợi con người, tái hiện lại những hình ảnh ở hiện tại,
trong quá khứ.
Trong thời bình hay trong chiến tranh, người chiến sĩ luôn đứng ở phía
trước, trong thời bình người lao động là những người xung kích, nhanh nhẹn.
Hơn nữa chỉ trong xây dựng hòa bình khi mà cơ sở hạ tầng kinh tế nước ta
hình thành phát triển thì con người thực sự ra đời trong xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy hình tượng con người trong xã hội là thể hiện con người lao động trong
mối quan hệ xã hội với chính họ. Trong lịch sữ mỹ thuật nước ta, ở tranh,
tượng dân gian và đình làng thì hình tượng con người có khác với xã hội hiện
tại. Nhân vật chính ở đây là những người lao động, tuy nhiên trong quan niệm
thẩm mỹ dân gian, hình tượng con người lao động không phải lao động tự do,
họ bị thống trị bởi một giai cáp khác, ngược lại là sự cưỡng bức, ép buộc.
Trong bất cứ một xã hội nào đều được coi là hoạt động cao quí nhất, trở
thành niềm vui, hạnh phúc, tự do là thành quả mang lại. Hình tượng con
người trong lao động sản xuất là một hình tượng đẹp, chủ đề mà từ trước đến
nay luôn mang lại nhiều ý nghĩa, nhiều thành công trong sáng tạo nghệ thuật
của nghệ sĩ nước nhà.
Niềm vui của người nông dân, công nhân được thể hiện khá rõ qua
những tác phẩm tạo hình điêu khắc gỗ như tượng: “Công nhân vét cống”
(H.8, tr.63) của tác giả Nguyễn Hữu Thiện. “Dưới lòng thành phố” (H.9,
tr.64) của Lương Văn Nghĩa. “Mùa gặt” (H.21, tr.70) NĐK Lê Quốc Tiến. “
Mùa gặt” (H.32, tr.76) tác giả Nguyễn Hữu Thiện. Những hình ảnh mà các
nghệ sĩ tạo hình những người nông dân, công nhân thể hiện qua niềm vui
hăng say trên những hoạt động của đời sống khi họ đào cống, thu hoạch lúa

mà lao động cảm nhận được.


×