Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Một số biện pháp phát triển thị trường của công ty Bảo hiểm Nhân thọ Daiichi Life Việt Nam tại Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.83 KB, 124 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành, thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn rất mới mẻ và nhiều tiềm năng chưa khai
thác. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, bảo hiểm nhân
thọ càng có điều kiện phát triển. Do Việt Nam phát triển muộn hơn so với các
nước khác trong khu vực và trên thế giới nên càng có nhiều cơ hội tiếp thu
những thành tựu đã đạt được của hoạt động bảo hiểm nhân thọ. Cùng với sự
tham gia thị trường của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và
nước ngoài, các công ty đều mong muốn tìm cho mình một chỗ đứng vững
chắc trên thị trường, do đó các hoạt động cạnh tranh để khai thác và chiếm
lĩnh thị trường diễn ra rất quyết liệt. Tính cạnh tranh mạnh mẽ thể hiện trên tất
cả các mặt như : thu hút khách hàng, thu hút đại lý, sản phẩm, dịch vụ, địa
bàn hoạt động, quảng cáo…nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Và trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ việc khai thác bảo
thị trường – thực hiện công tác tiếp cận với mỗi khách hàng đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Đây là khâu quyết định kết quả của hoạt động kinh doanh của
công ty, để có được kết quả kinh doanh như mong muốn đòi hỏi công tác khai
thác phải không ngừng được cải tiến và hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu
thực tế của thị trường. Trước thực trạng trên, công ty Bảo hiểm Nhân thọ
Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng cũng đã đưa ra rất nhiều chính sách và
biện pháp nhằm hoàn thiện hơn về tất cả các mặt nhằm cung cấp những dịch
vụ chất lượng nhất đến với tất cả khách hàng một cách tốt nhất, tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế cần khắc phục.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về thị trường bảo hiểm nhân thọ Hải
Phòng cùng với một số kinh nghiệm của bản thân về lĩnh vực này, em lựa

1



2

chọn đề tài “ Một số biện pháp phát triển thị trường của công ty Bảo hiểm
Nhân thọ Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích chung
Xây dựng và đưa ra một số biện pháp hiệu quả thúc đẩy mở rộng, phát
triển thị trường kinh doanh của công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Life
Việt Nam tại Hải Phòng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và thích nghi của
doanh nghiệp trong môi trường, bối cảnh mới của thị trường bảo hiểm nhân
thọ tại Hải Phòng hiện nay.
2.2. Mục đích cụ thể
- Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty Bảo hiểm
Nhân thọ Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng nhằm tìm ra một số biện pháp
phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ của công ty Bảo hiểm Nhân thọ
Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình hoạt động kinh doanh
và các chính sách nhằm phát triển thị trường của công ty Bảo hiểm Nhân thọ
Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về bảo hiểm nhân
thọ và thị trường bảo hiểm nhân thọ, tình hình hoạt động kinh doanh và các
chính sách nhằm mở rộng và phát triển thị trường của công ty Bảo hiểm
Nhân thọ Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng.
+ Về không gian: Hoạt động công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Life
Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hải Phòng.


2


3

+ Về thời gian: Giới hạn trong hoạt động của Văn phòng công ty
Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng từ năm 2009- 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu trong đề tài này là kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp khảo sát và điều tra thực tế
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp chuyên gia
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn đi sâu nghiên cứu và tổng hợp cơ sở lý luận
về bảo hiểm nhân thọ và thị trường của các công ty bảo hiểm nhân thọ hoạt
động kinh doanh tại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đi sâu phân tích đánh giá thực trạng thị
trường bảo hiểm nhân thọ của công ty Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng
giai đoạn 2009 - 2014. Qua đó phát hiện những mặt hạn chế trong quá trình
phát triển và mở rộng thị trường của công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Life
Việt Nam tại Hải Phòng nhằm đưa ra một số đề xuất để nâng cao hiệu quả
trong công tác phát triển thị trường góp phần xây dựng thương hiệu và nâng
cao năng lực cạnh tranh của công ty thích nghi với bối cảnh thị trường mới.
6. Kết cấu luận văn
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, ngoài các phần mở đầu,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm:
Chương 1: Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.


3


4

Chương 2: Thực trạng thị trường của công ty Bảo hiểm Nhân thọ
Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng giai đoạn 2010-2014.
Chương 3: Phương hướng và một số biện pháp phát triển thị trường
của công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Life Việt Nam tại Hải Phòng.

4


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triền bảo hiểm nhân thọ
- Bảo hiểm được cho là đã hình thành từ trước Công nguyên nhưng chỉ
được ghi nhận chính từ thời Trung Cổ (từ khoảng năm 1000 – 1450 sau Công
Nguyên). Vào thời gian ấy, người ta chỉ quan tâm đến việc bảo hiểm những
tài sản có giá trị lớn mà chưa nghĩ đến bảo hiểm con người. Vì vậy ngành bảo
hiểm phi nhân thọ đã ra đời trước tiên tại nước Anh và ở Châu Âu để phục vụ
ngành Hàng Hải [7].
- Cuối thế kỷ XV, khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới
Châu Á và Châu Mỹ bằng đường biển đã mở đường cho “cuộc cách mạng
thương mại”. Những thương vụ vượt đại dương đã mang lại cho nhiều người
những lợi nhuận hấp dẫn. Tuy nhiên, lợi nhuận đôi khi được đánh đổi bằng

chính sinh mạng của những thương nhân và thủy thủ. Ý thức được vai trò trụ
cột cũng như trách nhiệm bảo vệ gia đình, rất nhiều người tham gia đi biển đã
yêu cầu các công ty bảo hiểm phi nhân thọ bán bảo hiểm cho chính sinh mạng
của họ với mong muốn rằng vợ con họ sẽ không lâm vào hoàn cảnh bi đát nếu
không may họ qua đời sớm. Công ty bảo hiểm không khỏi ngạc nhiên về lời
đề nghị này, nhưng để làm hài lòng khách hàng, họ đã đồng ý. Từ những yêu
cầu thiết thực của nhiều người mà các công ty bảo hiểm nhân thọ lần lượt
được thành lập [7].
- Đầu thế kỷ XIX, công ty bảo hiểm nhân thọ Pennsylvania thuộc tiểu
bang Philadelphia yêu cầu khách hàng khám sức khỏe khi muốn mua bảo
hiểm. Đây là một chuyển biến lớn trong ngành bảo hiểm nhân thọ [7].
- Cuối thế kỷ XIX, các công ty bảo hiểm không bán bảo hiểm cho
những khách hàng có chiều cao, cân nặng bất thường, hoặc có bệnh tiểu

5


6

đường, vì tuổi thọ của họ thường không cao. Điều này làm nản lòng nhiều
khách hàng. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, những người này được mua bảo
hiểm nếu họ đồng ý đóng thêm tiền bù đắp cho nguy cơ qua đời sớm của họ.
Hai nhân vật lịch sử đã nghĩ ra cách tăng phí này là nhà tính phí Arthur
Hunter và bác sĩ y khoa Oscar Rogers [7].
- Ngày nay, bảo hiểm nhân thọ thực sự trở thành một nhu cầu lớn tại
các nước phát triển đặc biệt với những nước đang phát triển vì nó là công cụ
hữu hiệu để thu hút tiền “nhàn rỗi” trong xã hội cho việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng của quốc gia. Bằng các tính toán khoa học chính xác nhất kết hợp với
phương thức quản lý và kinh doanh hiệu quả, bảo hiểm nhân thọ là giải pháp
tốt nhất để phòng chống những tổn thất từ những rủi ro trong cuộc sống. Để

minh chứng cho lập luận này, xin trích dẫn nhận xét của Quốc hội Anh vào
năm 1825: “Để đối phó với tai họa, phương án đơn giản và ít tốn kém nhất là
hãy đoàn kết lại, cùng nhau mỗi người góp một số tiền. Nếu tai họa xảy đến,
mỗi người sẽ chịu thiệt hại một chút. Điều này có ý nghĩa là những người
không gặp rủi ro sẽ chia sẻ một phần tài chính của mình cho những người gặp
tai họa, đổi lại họ sẽ được sống trong sự bình an và thanh thản tâm hồn. Trong
khi đó, những người chịu rủi ro sẽ nhận được số tiền đóng góp của những
người may mắn hơn và có thể tiếp tục cuộc sống mới mà lẽ ra họ bị mất trắng
vì gặp tai họa” [7].
- Ở Việt Nam, người dân chỉ mới bắt đầu biết đến bảo hiểm nhân thọ từ
cuối năm 1996 với sự hình thành của một công ty bảo hiểm nhân thọ trực
thuộc nhà nước và sau đó là sự xuất hiện của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Với số dân hơn 80 triệu người và là một nước
có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và tương đối ổn định, Việt Nam được các
nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng để phát triển
ngành bảo hiểm nhân thọ [7].

6


7

1.1.2. Một số nội dung cơ bản về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ
1.1.2.1.Bảo hiểm:
- Khái niệm bảo hiểm:
Trong cuộc sống dù muốn hay không các rủi ro vẫn luôn xảy ra, nó tồn
tại và chi phối đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình mỗi doanh nghiệp
và toàn xã hội. Có thể nói chính sự tồn tại của các loại rủi ro là nguồn gốc
phát sinh các loại dự trữ bảo hiểm. Rủi ro là biến cố gây thiệt hại và không
mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ.Bảo

hiểm là một phương thức hạn chế tổn thất khi gặp phải rủi ro [2].
+ Dưới góc độ tài chính người ta cho rằng: “Bảo hiểm là một hoạt động
dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong
đợi”[2,tr10].
+ Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là
một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một
khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho
một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một
khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu
trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống
kê” [2.tr10].
+ Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo
hiểm thương mại trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế,
theo cơ chế này một người một doanh nghiệp, hay một tổ chức chuyển
nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được
bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại
giữa tất cả những người được bảo hiểm” [2.tr10].
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): “Kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo

7


8

đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ
sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm” [3].
- Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một

số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt
động dựa trên Quy luật số đông (the law of large numbers) [14].
- Phân loại bảo hiểm [14]:
Có nhiều tiêu thức và cách thức để phân loại bảo hiểm. Phân loại
nghiệp vụ bảo hiểm theo đối tượng bảo hiểm được sử dụng rộng rãi và rất có
ý nghĩa thực tiễn. Theo tiêu thức này, các nghiệp vụ bảo hiểm được chia làm 3
loại : bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người
+ Bảo hiểm tài sản: Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng
bảo hiểm là các tài sản và những lợi ích liên quan.
Những loại bảo hiểm tài sản phổ biến :
* Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu; bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
trong nước
* Bảo hiểm Tàu biển; Bảo hiểm thân tàu, thuyền khác
* Bảo hiểm Máy bay và Bảo hiểm tổn thất hệ quả
* Bảo hiểm thiệt hai vật chất xe cơ giới
* Bảo hiểm Công trình xây dựng và lắp đặp
* Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt
* Bảo hiểm Máy móc thiết bị; thiết bị điện tử
* Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh
* Bảo hiểm Vật nuôi, cây trồng

8


9

* Bảo hiểm Tín dụng, xuất khẩu
* Bảo hiểm tiền, trộm cắp
* Bảo hiểm Công trình ngoài khơi, giàn khoan, đường ống,…trong
thăm dò khai thác dầu khí

+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm
có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm
phát sinh theo quy định về trách nhiệm dân sự của pháp luật.
Phổ biến nhất là các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự sau:
* Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu biển; Bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ tàu và thuyền khác
* Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không;
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người khai thác máy bay
* Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
* Bảo hiểm trách nhiệm chủ sử dụng lao động
* Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm
* Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp đặt
* Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động tư vấn đầu tư,
xây dựng
* Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ vật nuôi
* Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số nghề nghiệp đặc
thù như : môi giới bảo hiểm; môi giới chứng khoán; tư vấn pháp luật; tư vấn
tài chính, kiểm toán; nghề y
+ Bảo hiểm con người: Bảo hiểm con người bao gồm những nghiệp vụ
bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khỏe, khả năng lao động và

9


10

tuổi thọ của con người. Bảo hiểm con người được chia thành: Bảo hiểm nhân
thọ và Bảo hiểm sức khỏe (Bảo hiểm con người phi nhân thọ).
- Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm [2], [14].
1/ Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn

(Fortuity not certainty): Chỉ bảo hiểm một rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên,
ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra.
2/ Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao
dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực
tuyệt đối. Cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều phải trung thực
trong tất cả các vấn đề.
3/ Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest):
Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn
liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo
hiểm. Nguyên tắc này chỉ ra rằng người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm
phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi
đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm.
Hay nói cách khác hợp đồng bảo hiểm chỉ được xác lập khi bên mua
bảo hiểm chứng minh được quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền tài sản, quyền nhân thân của mình. Nhằm mục đích:
- Không thể mua bảo hiểm cho tài sản không chính chủ
- Không thể mua bảo hiểm cho đối tượng không có quan hệ hôn nhân,
huyết thống
- Không thể mua bảo hiểm cho đối tượng không có hợp đồng thuê
mướn lao động.
4/ Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi
có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm

10


11

bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy
ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.

5/ Nguyên tắc thế quyền (subrobgation): Theo nguyên tắc thế quyền,
người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay
mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách nhiệm bồi thường
cho mình.
- Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ:
Thông thường khi tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, có thể mua
kèm các sản phẩm bổ sung vào hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chính. Các sản
phẩm bổ sung này có đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ nhưng lại thuộc về
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nên rất khó để đưa ra so sánh chi tiết. Căn cứ
theo nhận thức thực tế về sản phẩm của hai nghiệp vụ bảo hiểm, có điểm khác
nhau cơ bản như sau :
Bảng 1.1. Bảng so sánh điểm khác nhau của bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ

Tiêu chí so sánh

Bảo hiểm nhân thọ

Bảo hiểm phi nhân thọ

- Đối tượng bảo hiểm

- Tính mạng (Con

- Các đối tượng còn lại

chính trong hợp đồng

người).


(Tài sản, trách nhiêm dân

bảo hiểm.

sự..…).

- Thời hạn hiệu lực

- Có thể liên tục suốt cả

- Hiệu lực ngắn hạn và

hợp đồng.

đời người. Thấp nhất là

trung hạn: Khoảng từ 1-5

5 năm.

năm.

- Thời gian đóng phí

- Đóng phí trong: 4 – 20 - Đóng phí trong: 1 năm.

của hợp đồng.

năm.


11


12

- Khi không có rủi ro

- Được nhận lại: khoản

- Mất hoàn toàn phí đóng

xảy ra.

tiền+ lãi chia (nếu có).

(nên phí đóng rất thấp).

- Tổng số tiền tối đa

- Bồi thường tất cả hợp

- Không vượt quá giá trị

bồi thường khi tham

đồng khi rủi ro xảy ra

tài sản dù có mua nhiều

gia nhiều hợp đồng


(vì tính mạng là vô giá).

hợp đồng.

bảo hiểm cùng lúc.
(Nguồn: )
1.1.2.2. Bảo hiểm nhân thọ:
- Khái niệm bảo hiểm nhân thọ:
“Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có
liên quan đến tuổi thọ của con người” [2.tr 431].
- Những đặc điểm cơ bản của bảo hiểm nhân thọ [2], [14].
+ Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm
nhân thọ với bảo hiểm phi nhân thọ, tham gia bảo hiểm nhân thọ người mua
có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm cho người bảo hiểm theo định kỳ đồng thời
người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (số tiền bảo hiểm)
cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến
một độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm
tử vong trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt
tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
+ Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của
người tham gia bảo hiểm.
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một
mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp

12



13

rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia, thì bảo hiểm
nhân thọ do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được
nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ
trong từng sản phẩm bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đôi khi
còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm
gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm
giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho
vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty bảo hiểm (tất nhiên số tiền
cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm).
+ Các hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp.
Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thể
hiện ở ngay các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có
nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có các
hợp đồng 5 năm, 10 năm, 20 năm... Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác
nhau, lại có sự khác nhau về số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí, độ tuổi
của người tham gia… Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa các
bên cũng rất phức tạp. Khác với bản hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ trong
mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 bên tham gia: Người bảo hiểm,
người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi
bảo hiểm.
+ Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì
vậy quá trình định phí khá phức tạp.
Theo tác giả Jean-Claude Harrari: “sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không
gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đẩy đủ để đưa sản phẩm đến công
chúng” [2.tr 435]. Để đưa được sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đến với người
tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao
gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng… Tuy nhiên những chi phí


13


14

đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí bảo hiểm nhân thọ, còn phần chủ
yếu là phụ thuộc vào:
* Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
* Tuổi thọ bình quân của con người
* Số tiền bảo hiểm
* Thời hạn tham gia bảo hiểm
* Phương thức thanh toán
* Lãi suất đầu tư
* Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
……
+ Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế
xã hội nhất định.
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng
cũng có những quốc gia chưa triển khai được bảo hiểm nhân thọ mặc dù
người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này
được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ yếu để bảo hiểm nhân thọ ra
đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
- Những điều kiện về kinh tế bao gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến
một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức
trung bình trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định
để không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng
được những nhu cầu cao hơn.


14


15

+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin
tưởng mà đầu tư vào bảo hiểm nhân thọ.
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động.
Một xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những
kế hoạch trung và dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời
và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi
tình hình đất nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao
cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là
những ngành mới như bảo hiểm.
- Vai trò của bảo hiểm nhân thọ [2].
Bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển và giữ vai trò quan trọng trong
mỗi nền kinh tế, mỗi tổ chức, mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Điều này được thể
hiện rất rõ thông qua tác dụng của bảo hiểm nhân thọ.
+ Đối với người tham gia bảo hiểm:
* Bảo hiểm nhân thọ góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và
gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm.
Mặc dù trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao,
nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá
nhân và gia đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia
đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật vĩnh
viễn. Khi đó gia đình phải chi phí mai táng chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc

men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi.
Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa
kịp hoàn thành như : trả nợ, phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi dạy con cái ăn

15


16

học…Dù rằng hệ thống bảo trợ xã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó
khăn, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được lâu
dài về mặt tài chính. Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ phần nào giải quyết được
những khó khăn đó.
* Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần nâng cao sức khoẻ cho những
người tham gia bảo hiểm nhân thọ thông qua dịch vụ kiểm tra sức khoẻ của
phòng chăm sóc sức khoẻ khách hàng.
Dịch vụ này thường được tiến hành định kỳ 1,2 năm/ lần tại các trung
tâm y tế do công ty bảo hiểm nhân thọ chỉ định hoặc tại phòng chăm sóc sức
khoẻ khách hàng tại công ty. Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi ro
như ốm đau, phẫu thuật, tai nạn…công ty bảo hiểm cũng trả một số tiền để họ
phục hồi sức khoẻ một cách nhanh chóng.
* Bảo hiểm nhân thọ đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để
vay vốn hoặc bảo hiểm nhân thọ tín dụng thường được bán cho các đối
tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục
đích cá nhân khác…
+ Đối với nền kinh tế.
Thông qua dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, các nhà bảo hiểm thu được
phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục
đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu
tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư của các

công ty bảo hiểm nhân thọ thường rất lớn, vì hoạt động bảo hiểm nhân thọ
mang tính dài hạn, do đó nguồn vốn bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị
trường cũng là nguồn vốn dài hạn, thường là từ 5,10 năm trở lên. Nếu được
đầu tư phát triển các vùng kinh tế chiến lược, xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ rất
phù hợp và có hiệu quả. Ở Đài Loan, năm 1987 chính phủ bắt đầu mở cửa
cho các công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động. Từ đó đến nay, các
công ty này đã cung cấp vốn cho thị trường Đài Loan hàng năm từ 500-800

16


17

triệu USD. Ở Mỹ, năm 1970 số vốn các công ty bảo hiểm nhân thọ cung
cấp chỉ là 9 tỷ đô la, trong khi đó cung cấp vốn qua hệ thống ngân hàng để
đầu tư là 37 tỷ đô la. Nhưng đến năm 1991 số vốn do các công ty bảo hiểm
nhân thọ đầu tư là 90,2 tỷ đô la, trong khi hệ thống ngân hàng cung cấp đầu
tư trong nước chỉ có 85,7 tỷ đô la [2].
* Bảo hiểm nhân thọ góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh
cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao
động và người sử dụng lao động:
Tuỳ theo đặc điểm ngành nghề kinh doanh, các chủ doanh nghiệp
thường mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tập thể,…cho người làm công và
những người chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống
và tạo ra sự lôi cuốn, gắn bó ngay cả trong lúc doanh nghiệp gặp khó khăn,
tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về tài chính khi mất người làm công chủ
chốt. Những người làm công chủ chốt thường là những kỹ sư trưởng, những
tay thợ lành nghề, những chuyên viên điều hành mạng internet,…Nếu doanh
nghiệp bị mất họ thì khả năng thu lợi sẽ bị giảm và công việc điều hành gặp
nhiều khó khăn. Do vậy, mua bảo hiểm nhân thọ cho họ, có thể đảm bảo cho

doanh nghiệp khỏi sự thua thiệt tài chính vì những tai nạn rủi ro gây nên mà
vẫn có được những chi phí bù đắp thay thế.
* Bảo hiểm nhân thọ còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những
nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành
tiết kiệm, góp phần chống lạm phát. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân
dân ngày càng cao, sẽ xuất hiện nhu cầu tiết kiệm hoặc đầu tư số tiền mặt tạm
thời nhàn rỗi. ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, thường thiếu các
công cụ để đáp ứng nhu cầu này, vì vậy bảo hiểm con người mà đặc biệt là
bảo hiểm nhân thọ ra đời đã giúp các tổ chức và cá nhân thực hiện nhu cầu
một cách có hiệu quả. Do đối tượng rộng, lại vừa mang tính tiết kiệm, vừa
mang tính rủi ro, hơn nữa do cơ chế và cách thức đóng phí thuận lợi, cho nên

17


18

bảo hiểm nhân thọ có nhiều ưu điểm hơn hẳn gửi tiền tiết kiệm. Vì thế, việc
thực hành tiết kiệm từ chi tiêu ngân sách gia đình để mua bảo hiểm nhân thọ
sẽ dễ dàng hơn, điều này không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với từng gia đình
mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế xã hội.
* Bảo hiểm nhân thọ còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã
hội như : tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho
việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch,…khi tổ
chức các dịch vụ bảo hiểm con người mà trước hết là bảo hiểm nhân thọ, luôn
cần một mạng lưới nhân viên và tư vấn tài chính khai thác, cộng tác viên rất
lớn vì đối tượng và phạm vi của bảo hiểm nhân thọ là rất rộng. Nghề nhân
viên và tư vấn tài chính bảo hiểm nhân thọ đã thực sự trở thành một nghề có
tính chuyên nghiệp và thu nhập cao, được xã hội thừa nhận. Vì đối tượng và
phạm vi rộng, thời gian dài, cho nên phát triển dịch vụ này sẽ tạo thêm công

ăn việc làm cho đông đảo người lao động.
Bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển và giữ vai trò quan trọng trong
mỗi nền kinh tế, mỗi tổ chức, mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Điều này được thể
hiện rất rõ thông qua tác dụng của bảo hiểm nhân thọ.
- Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Những nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm [4]:
- Bảo hiểm trọn đời
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ
- Bảo hiểm hỗn hợp
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ
- Bảo hiểm liên kết đầu tư
- Bảo hiểm hưu trí

18


19

Trong đó:
- Bảo hiểm trọn đời: Là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp
người được bảo hiểm tử vong vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời
của người đó. Loại hình này đem lại sự bảo đảm trọn đời cho người được bảo
hiểm trên phí bảo hiểm định kỳ cố định [14].
- Bảo hiểm sinh kỳ: Là loại hình bảo hiểm nhân thọ có quyền lợi bảo
hiểm được chi trả một lần vào cuối thời hạn hợp đồng (ngày đáo hạn) nếu
người được bảo hiểm còn sống. Thời gian đáo hạn điển hình thường là 10, 15,
20 năm hoặc đến một giới hạn tuổi nhất định [14]
- Bảo hiểm hỗn hợp: Là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ
và bảo hiểm tử kỳ. Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm nhân thọ có

quyền lợi bảo hiểm được chi trả một lần vào cuối thời hạn hợp đồng (ngày
đáo hạn) hoặc khi người được bảo hiểm tử vong. Thời gian đáo hạn điển hình
thường là 10, 15, 20 năm hoặc đến một giới hạn tuổi nhất định [14].
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thừa hưởng theo
thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm [14].
- Bảo hiểm liên kết đầu tư: Là loại bảo hiểm nhân thọ có khả năng đáp
ứng đồng thời nhu cầu chuyển giao hậu quả tài chính của rủi ro và nhu cầu
đầu tư của người mua bảo hiểm. Với loại hình này khoản phí bảo hiểm và
khoản đầu tư được người tham gia lựa chọn một cách linh hoạt linh hoạt và
minh bạch [14].
- Bảo hiểm hưu trí: Người được bảo hiểm đạt đến độ tuổi xác định
được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm [14].

19


20

1.2. Thị trường bảo hiểm nhân thọ
1.2.1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ
Theo thuật ngữ bảo hiểm: Thị trường bảo hiểm là nơi mua và bán các
sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm đặc biệt, là sản
phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu sắc …
sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ độc quyền, là sản phẩm
người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình để được bồi
thường hay trả tiền bảo hiểm (trả bảo hiểm hưu trí, …) [7].
Thị trường bảo hiểm nhân thọ ra đời là một tất yếu của nền kinh tế thị

trường khi mà sản xuất hàng hoá đạt đến trình độ phát triển cao. Hàng hoá cần
mua và bán trên thị trường này là sự chia sẻ những rủi ro của một số ít người
cho số đông người, do đó không thể có thị trường bảo hiểm nhân thọ nếu như
không có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm [14].
1.2.2. Đặc trưng thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
- Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cung và cầu luôn
biến động.
Cung của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam: Các doanh nghiệp
tham gia kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam đang tăng dần qua từng năm cho thấy tiềm năng phát triển của thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là không nhỏ. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ ngày
một nhiều và ngày càng được hoàn thiện và đổi mới cùng với sự phát triển
của nền kinh tế- xã hội Việt Nam và mức sống của người dân Việt với nhu cầu
ngày càng phong phú đa dạng.
Cầu của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ngày càng được tăng
lên. Khi nền kinh tế - xã hội phát triển đời sống vật chất, tinh thần của dân cư
cũng được cải thiện... do đó nhu cầu đa dạng về dịch vụ bảo hiểm nói chung và
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ nói riêng cũng tăng lên. Những năm đầu khi bảo

20


21

hiểm nhân thọ mới ra đời và phát triển, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
mới chỉ có vài chục sản phẩm nhưng đến nay con số này đã lên tới hàng trăm
sản phẩm và ngày càng đi sâu vào nhu cầu cụ thể của mọi tầng lớp dân cư.
- Giá cả của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đa dạng và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố.
Trên thị trường bảo hiểm, giá cả của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính

là phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở số tiền bảo hiểm, số
năm của hợp đồng, tuổi của người tham gia bảo hiểm, lãi suất kỹ thuật mà các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ dùng để tính phí bảo hiểm…
- Cạnh tranh và liên kết luôn diễn ra trên thị trường bảo hiểm nhân thọ
Việt Nam.
Giống như các thị trường khác, trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để tranh giành khách
hàng, thu lợi nhuận cũng diễn ra liên tục, gay go và quyết liệt. Bởi lẽ sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ là không có bảo hộ bản quyền và dễ bắt chước cho
nên các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thường tập trung vào kinh doanh các
sản phẩm được thị trường chấp nhận bằng cách cải tiến, hoàn thiện sản phẩm
đó hơn các doanh nghiệp khác, và quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút
khách hàng, ...
Bên cạnh đó, cùng với sự cạnh tranh là sự liên kết giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm với nhau, hoặc liên kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
với các ngân hàng, các công ty bưu chính viễn thông như: Manulife liên kết
với đối tác là ngân hàng Sacombank, Dai-ichi life liên kết với ACB, AIA liên
tiếp phát triển ra hai sản phẩm mới liên kết với ngân hàng ANZ, Prudential –
Maritime Bank… Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết
còn là nhu cầu đối với thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam mới hình thành
và phát triển khi thị trường thế giới đã ổn định và liên kết cũng là xu hướng
tất yếu của hội nhập và toàn cầu hoá.

21


22

- Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam luôn thay
đổi.

Thị phần càng lớn chứng tỏ vị thế của doanh nghiệp càng cao, sức cạnh
tranh và hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp càng lớn. Nói đến thị phần là
nói đến thị trường cạnh tranh không còn mang tính độc quyền. Trên thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội như nhau,.
Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam luôn thay đổi do số lượng
các doanh nghiệp tham gia vào thị trường bảo hiểm thay đổi, do chiến lược
kinh doanh thay đổi...
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam chịu sự tác động trực tiếp
của những điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí và mức sống của các
tầng lớp dân cư.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có dung lượng khách hàng rất
lớn.
Khách hàng của thị trường bảo hiểm nhân thọ là: người được bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm. Khách hàng có thể ở các lứa tuổi khác nhau
không phân biệt nam, nữ, dân tộc, quốc tịch....Tuỳ theo nhu cầu và khả năng
tài chính, một người có thể tham gia nhiều loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
khác nhau, và một loại sản phẩm có thể ký kết nhiều hợp đồng ở nhiều công
ty bảo hiểm nhân thọ cùng một lúc nên dung lượng khách hàng của thị trường
bảo hiểm nhân thọ là rất lớn.
- Đến cuối năm 2013, dân số trung bình của Việt Nam lên tới
89.708.900 người [19]. Trong đó người lao động từ 15 tuổi trở lên là
53.245.600 người [19]. Thế nhưng số người tham gia bảo hiểm nhân thọ mới
khoảng 5 triệu người. Đây chính là tiền đề cho thấy bảo hiểm nhân thọ còn rất
tiềm năng ở Việt Nam [14].
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ là thị trường dịch vụ tài chính

22


23


Khác với các loại hình bảo hiểm khác, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ thường rất dài (tối thiểu là 5 năm), nên chịu sự tác động rất
lớn của yếu tố lạm phát. Theo quy luật chung, khi nền kinh tế phát triển ổn
định, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, thì quá trình phát triển của thị trường
sẽ rất ổn định. Ngược lại, nếu lạm phát cao thì thị trường sẽ chịu sự tác động
lớn. Bởi khác với bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ có yếu tố tiết
kiệm, trong khi đó thời hạn bảo hiểm dài nên người dân rất quan tâm tới vấn đề
lạm phát. Trong những thời kỳ nền kinh tế kém phát triển, lạm phát cao người
dân ít quan tâm đến việc tham gia bảo hiểm nhân thọ.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là thị trường dịch vụ tài chính,
nên thị trường bảo hiểm nhân thọ còn chịu sự kiểm tra và giám sát rất chặt
chẽ của Nhà nước. Nhà nước Việt Nam không những quyết định sản phẩm
bảo hiểm nhân thọ được phép kinh doanh trên thị trường, mà còn kiểm tra,
giám sát rất chặt chẽ việc trích lập dự phòng phí bảo hiểm nhân thọ, quản lý
số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển thị trường bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam
Về mặt lý luận và thực tiễn thị trường bảo hiểm nhân thọ được coi như
một tổng thể. Nên các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường rất phong phú và đa
dạng. Để phân tích các nhân tố tác động đến thị trường bảo hiểm nhân thọ cần
phân loại các nhân tố này theo những tiêu chí thích hợp.
Trên sự tác động của các lĩnh vực và thị trường có thể phân thành các
nhân tố: kinh tế, chính trị - văn hoá, tâm sinh lý….
1.2.3.1. Nhân tố kinh tế
Đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với thị trường bảo
hiểm nhân thọ. Bởi khi một nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập của
người dân được nâng cao, khi đó người ta mới nghĩ đến hình thức tiết kiệm và
các hình thức khác để đảm bảo cuộc sống và họ tìm đến các sản phẩm bảo


23


24

hiểm nhân thọ với mục đích góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn
về tài chính khi gặp các rủi ro, đảm bảo cho con cái có thể đi học, có nguồn
thu nhập khi về già. Thực tế cũng cho thấy hầu hết các nước có nền kinh tế
phát triển là những nước có ngành bảo hiểm nhân thọ phát triển. Cụ thể là 05
thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất hiện nay: Mỹ, Nhật, Đức, Anh và Pháp.
- Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tuy không cao nhưng đã có chuyển
biến tích cực, đúng hướng, kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định hơn. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,32% và năm 2010 đạt 6,78%, năm 2011 chỉ đạt
5,89%, năm 2012 đạt 5.03%, năm 2013 đạt 5,42%, năm 2014 đạt 5,98%, thu
nhập bình quân đầu người được cải thiện trong những năm gần đây, lạm phát
được duy trì ở mức thấp hơn 10%, người dân đã bắt đầu có tích luỹ và yên
tâm sử dụng tiền tích luỹ để đầu tư trở lại nền kinh tế trong đó bảo hiểm nhân
thọ. Đây chính là những yếu tố quan trọng và là cơ sở cho sự phát triển tổng
cầu bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như những
năm về sau.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh
và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Thống kê của Cục Quản lý,
giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) cho thấy, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn
thị trường năm 2013 đạt 47.010 tỷ đồng, tăng trưởng 14% trong đó nhân thọ
đạt 22.650 tỷ đồng tăng trưởng 23% chiếm 0,632% GDP Việt Nam năm 2013
(trong khi đó GDP Việt Nam năm 2013 tính theo giá hiện hành đạt 3.584.261
tỷ đồng, tương đương 170,4 tỷ USD). Năm 2014 tổng doanh thu phí bảo hiểm
toàn thị trường đạt 52.680 tỷ đồng, tăng 12,06% so với năm 2013. Trong đó
doanh thu phí BH nhân thọ tăng 17,9%( khoảng 26.704,35 tỷ đồng) và chiếm
khoảng 3,3% GDP năm 2014 (GDP năm 2014 mục tiêu tăng trưởng 5,98%

tương đương khoảng 798.599,81 tỷ đổng) [16]. Trong khi ở các nước trong
khu vực doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ thường ổn định ở mức 5-6% tổng
GDP. Với chiến lược hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thì việc tham gia bảo
hiểm nhân thọ đã không còn là xa lạ. Người Việt Nam đầu tư bảo hiểm cho

24


25

mình 300 USD/người/năm, trong khi người Singapore chi tới 1.200
USD/người/năm và người Nhật là 3.000 USD/người/năm [14]. Đây là một
trong những lý do khiến Việt Nam thu hút được nhiều công ty Bảo hiểm nhân
thọ lớn đầu tư và tham gia kinh doanh tại thị trường Việt Nam
1.2.3.2. Nhân tố chính trị - văn hoá
- Các nhân tố này ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm nhân thọ thông
qua các chủ trương chính sách của nhà nước về chính trị, trình độ văn hoá của
nhân dân và cả thói quen của người dân.
- Các chủ trương chính sách của nhà nước có thể là chính sách đối nội,
đối ngoại, chính sách mở cửa kinh tế, chính sách hội nhập … các chính sách
này có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển hay thu hẹp thị trường bảo hiểm
nhân thọ của nước đó.
Trong suốt thời kỳ từ 1965 đến 1993, Nhà nước thực hiện độc quyền về
kinh doanh bảo hiểm với một doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất là Bảo Việt,
vừa tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vừa thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về bảo hiểm. Hiện nay, Nhà nước và Chính phủ đã quan tâm hơn
đến việc khuyến khích phát triển ngành bảo hiểm Việt Nam. Chính phủ Việt
Nam cam kết xây dựng một môi trường kinh doanh bảo hiểm công bằng và
chặt chẽ với việc cải cách hệ thống pháp lý. Điều này được thể hiện qua việc:
+ Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000

tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá X, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát
triển lành mạnh và bền vững của thị trường bảo hiểm Việt Nam, phù hợp với
xu thế hội nhập quốc tế [ 3].
+ Các văn bản pháp quy mới ban hành có hiệu lực đã tác động tăng
trưởng đến thị trường bảo hiểm. Nâng mức khấu trừ gia cảnh (9 triệu
đồng/người có thu nhập, 4,8 triệu đồng/người phải nuôi dưỡng) có hiệu lực từ
01/7/2014, phí bảo hiểm nhân thọ do người sử dụng lao động mua cho người
lao động không tính vào thuế TNDN và thuế TNCN (người được bảo hiểm

25


×