Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

skkn rèn luyện kĩ năng giải bài tập dạng oxit axit phản ứng với dung dịchkiềm dành cho học sinh giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.34 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM
TRƯỜNG THCS HƯƠNG MỸ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP DẠNG OXIT
PHẢN ỨNG VỚI DUNG DỊCH KIỀM CHO HỌC SINH KHÁ GIỎI

Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: Giảng dạy
Họ và tên người thực hiện: Nguyễn Thanh Tùng
Chức vụ: Tổ Trưởng - Giảng dạy môn Hóa học
Sinh hoạt tổ chuyên môn: Sinh - Hóa

Mỏ Cày Na m, tháng 02/2012

1


PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI :
Mục đích của việc dạy học môn Hóa học không chỉ dừng lại ở việc truyền
thụ cho học sinh những kiến thức, những kĩ năng hóa học cơ bản, phổ thông, mà
còn phải đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng cho học sinh năng lực suy nghĩ độc
lập, sáng tạo, năng lực năng lực giải quyết vấn đề để tạo ra những kiến thức mới,
những phương pháp lĩnh hội mới một cách nhạy bén, hiệu quả, nhất là đối với học
sinh có năng khiếu.
Giúp học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức lí thuyết, hiểu rõ bản chất phản
ứng hóa học, rèn luyện kĩ năng giải bài tập Hóa học, yêu thích bộ môn, yêu chân lí
khoa học, góp phần nâng cao chất lượng học sinh giỏi.
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :


Nhằm phát huy tốt năng lực học tập của học sinh ở bộ môn Hóa, giúp các
em có đủ kiến thức tham dự các kỳ thi học sinh giỏi của Trường, Huyện, Tỉnh.
Trong môn hoá học thì bài tập hoá học có một vai trò quan trọng, nó là
nguồn cung cấp kiến thức mới, vận dụng kiến thức lí thuyết, giải thích các hiện
tượng trong đời sống, các quá trình của phản ứng hoá học, giúp tính toán các đại
lượng: lượng chất tạo thành sau phản ứng khi biết lượng chất tham gia phản ứng và
ngược lại... Việc giải bài tập sẽ giúp học sinh củng cố kiến thức lí thuyết đã được
học, vận dụng linh hoạt vào bài làm.
Để giải được bài tập hóa học đòi hỏi học sinh không chỉ nắm vững các tính
chất hoá học của các chất đã học, định dạng được bài tập và đưa ra hướng giải phù
hợp và chính xác.. Nhưng đối với nhiều dạng bài tập thì nếu học sinh không nắm
được bản chất của các phản ứng thì việc giải bài toán hóa học sẽ gặp rất nhiều
khó khăn và thường là giải sai như dạng bài tập: Phản ứng của oxit axit với dung
dịch kiềm, một trong những chuyên đề quan trọng trong nội dung bồi dưỡng Học
sinh giỏi.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy đây là dạng bài tập tương đối khó,
thường gặp trong các bài toán hóa học, và học sinh gặp không ít khó khăn khi làm
2


bài. Chính vì thế tôi chọn đề tài : “ Rèn luyện kĩ năng giải bài tập dạng oxit axit
phản ứng với dung dịch kiềm dành cho Học sinh giỏi ”
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Đề tài áp dụng cho giáo viên dạy môn Hóa trường trung học cơ sở trong việc
hình thành kiến thức kĩ năng cơ bản đến nâng cao, từ đó giúp học sinh có khả năng
tư duy sáng tạo trong việc định hướng và giải bài toán hóa học nói chung và dạng
bài tập Phản ứng của oxit axit với dung dịch kiềm nói riêng.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Giúp học sinh nắm vững bản chất phản ứng của oxit axit với dung dịch
kiềm, từ đó khắc sâu kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo giải bài tập Hóa học mà

trong giờ học chính khóa các em không có điều kiện tiếp cận.
Phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh trong học tập, đặc biệt
học sinh chủ động hơn trong việc thực hành bài tập, tạo niềm say mê, yêu thích bộ
môn.
Đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp trong giảng dạy nói chung, đối với
bộ môn Hóa nói riêng.
Là tài liệu cần thiết cho việc ôn tập và bồi dưỡng học sinh giỏi và giúp giáo
viên hệ thống hoá được kiến thức, phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy – học Hóa học, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh năng
khiếu.
V. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
Giáo viên có thể giúp học sinh giải quyết vấn đề một cách linh hoạt và
nhanh nhất, phát huy tính tư duy sáng tạo, đáp ứng chuẩn kiến thức, chuẩn kỹ năng
của môn học.
Học sinh nắm được bản chất của phản ứng nên các em cảm thấy dễ hiểu,
hiểu sâu sắc vấn đề giải thích được nguyên nhân dẫn đến các trường hợp của bài
toán.
Có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh : học sinh đại trà trên lớp, áp
dụng cho đối tượng học sinh khá giỏi.
3


Tài liệu này giúp ôn tập, bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9, dùng cho các học
sinh khối trung học phổ thông hoặc giáo viên có thể tham khảo.

PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN :
Hóa học là bộ môn khoa học tự nhiên mà học sinh được tiếp cận muộn nhất,
nhưng lại có vai trò quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn Hóa học cung
cấp một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về Hóa học,

rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo và khả năng trực quan nhanh nhạy. Vì
vậy giáo viên cần hình thành ở các em một kĩ năng cơ bản, thói quen học tập và
làm việc khoa học, làm nền tảng để các em phát triển nhận thức và năng lực hành
động. Hình thành cho các em những phẩm chất cần thiết như kiên trì, chính xác,
yêu thích khoa học ...
Học hóa học không những học sinh học lí thuyết mà còn đòi hỏi học sinh
vận dụng lí thuyết được học vào giải quyết các bài tập.
Đối với việc giải được một bài toán hoá học (tính theo phương trình hoá
học) thì bước đầu tiên học sinh phải viết được chính xác các phương trình hoá học
rồi mới tính đến việc làm tới các bước tiếp theo (xác định đề bài, xây dựng hướng
giải...) và một khi nếu viết sai phương trình phản ứng thì việc tính toán không đem
lại kết quả.
Mặt khác kĩ năng giải toán hóa học chỉ được hình thành khi học sinh nắm
vững lí thuyết (tính chất hóa học của các chất ...) biết vận dụng kiến thức vào giải
bài tập, kèm theo đó là phải hình thành ở học sinh thói quen phân tích đề bài và
định hướng được cách làm đây là một kỹ năng rất quan trọng đối với việc giải một
bài toán hóa học.
Do đó để hình thành được kĩ năng giải bài tập dạng Oxit axit phản ứng với
dung dịch kiềm, ngoài việc giúp học sinh nắm được bản chất của phản ứng thì giáo
viên phải hình thành cho học sinh một mô hình giải (các cách giải ứng với từng
trường hợp ) bên cạnh đó rèn luyện cho học sinh tư duy định hướng khi đứng trước
một bài toán và khả năng phân tích đề bài.
4


Chính vì vậy việc cung cấp cho học sinh các cách giải bài toán Oxit axit
phản ứng với dung dịch kiềm, đặc biệt là xây dựng cho các em phương pháp giải
và các kỹ năng phân tích đề để định hướng đúng khi làm bài tập là điều rất cần
thiết, nó giúp học sinh có tư duy khoa học khi học tập hoá học nói riêng và các
môn học khác nói chung nhằm nâng cao chất lượng trong giảng dạy và học tập của

giáo viên và học sinh.
Dựa trên đặc điểm của tâm lí lứa tuổi học sinh, các em hay thích tìm tòi
khám phá những điều mới bằng chính năng lực của mình.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ :
Đối với dạng bài tập : Phản ứng của Oxit axit với dung dịch kiềm thường
gặp trong các bài về tính chất hóa học của oxit axit (CO 2, SO2), tính chất hóa học
của dung dịch bazơ (NaOH, Ca(OH)2), hay tính chất hóa học của axit cacbonic,
muối cacbonat, và với bản chất của phản ứng giải thích được nhiều hiện tượng
trong tự nhiên ( sự hình thành các thạch nhũ trong các hang động, sự vững chãi của
bức tường thành xây bằng vữa vôi...) nhưng trong chương trình chính khóa chỉ
dừng lại ở mức độ cơ bản ( oxit axit + dd Bazơ  Muối + H2O), hoặc không có
điều kiện để mở rộng thêm kiến thức. Chính vì thế học sinh còn lúng túng và khó
khăn khi gặp phải những bài toán dạng này trong các kì thi Học sinh giỏi.
Việc học tập của học sinh chủ yếu ở giờ học chính khóa, nên thời gian ôn
tập, củng cố và hướng dẫn cho học sinh không có.
Đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh khắc sâu được kiến thức, tạo
niềm say mê, hứng thú với môn học của giáo viên còn chậm hoặc ít quan tâm nên
làm cho các em gặp bài tập dạng này cảm thấy trở nên “ khó nuốt ”.
Với bản chất của phản ứng, để viết được phương trình hoá học chính xác,
học sinh phải hiểu được phản ứng diễn ra theo cơ chế nào? Khi một oxit axit phản
ứng với dung dịch kiềm thì có thể tạo ra muối trung hoà, muối axit hoặc hỗn hợp
cả hai muối. Điều khó đối với học sinh là phải biết xác định sản phẩm của phản
ứng, từ đó mới viết được phương trình hoá học chính xác và định ra hướng giải
của bài toán.
5


Trên cơ sở đó, việc rèn luyện kĩ năng giải bài tập dạng phản ứng của oxit
axit với dung dịch kiềm là rất cần thiết, giúp học sinh đủ kiến thức, tự tin trong các
kì thi, góp phần nâng cao số lượng và chất lượng Học sinh giỏi.

III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
III.1. Bản chất trung hòa của phản ứng oxit axit (CO2,SO2) với dung dịch
kiềm hoá trị I (NaOH, KOH...) hay kiềm hoá trị II (Ca(OH)2 , Ba(OH)2) :
Ta biết rằng CO 2,SO2 là hai anhidric của hai axit H2CO3 , H 2SO3 , do đó khi
hai oxit này gặp nước chúng nhanh chóng biến thành hai axit tương ứng :
CO2 + H2O



H2CO3

,

SO 2 + H2O

 H2SO3

Nhưng hai axit này rất yếu và không bền trong môi trường trung tính, và
nhất là trong môi trường axit, chúng nhanh chóng bị phân hủy thành CO 2, SO2 bay
lên. Nhưng khi ta sục hai khí này vào dung dịch kiềm ( chứa nhóm –OH) thì hai
axit này bắt buộc thể hiện tính axit để trung hòa bazơ theo sơ đồ :
H (axit) + OH (bazơ)  H2O.
Tùy theo số mol của bazơ (OH) mà axit có thể giải phóng 1 hay 2 mol H
(axit) để trung hòa OH theo sơ đồ :
OH
CO2 + H2O  H2CO 3 
H +

OH
HCO 3 

2H +

CO 3

x(mol)

x(mol)

x(mol)

x(mol)

x(mol)

2x(mol)

Qua sơ đồ ta thấy ngay : x(mol) khí CO2 sục vào dung dịch kiềm thì tùy theo
số mol OH mà CO2 “phóng” ra từ x đến tối đa 2x (mol) H để triệt tiêu OH.
Mặt khác, ta cũng dễ thấy : n mol NaOH (KOH) thì có chứa n mol OH :
nOH = nNaOH = nKOH
Và n mol Ca(OH)2 (Ba(OH)2) thì có chứa 2n mol OH :
nOH = 2n Ca(OH )2 = 2n Ba(OH )2
Như vậy : qua sơ đồ trên và các kết quả, ta rút ra các hệ quả quan trọng sau :
Hệ quả 1 :
* Nếu nOH  x thì phản ứng chỉ tạo muối HCO3 (nếu xảy ra dấu “=” ) và tạo muối
HCO3 và còn dư CO2 (nếu xảy ra dấu “<”). Khi đó ta có phương trình phản ứng :
CO2 + H2O




H2CO3 (1)
6


 NaHCO3 + H2O (2)

H2CO3 + NaOH

Vì (1) và (2) xảy ra liên tục nên ta viết gộp và đơn giản thành :
 NaHCO 3

CO2 + NaOH
Hay

2CO2 + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2

Và khi tính số mol muối axit thì phải tính theo số mol chất kiềm
* Nếu nOH  2x thì phản ứng chỉ tạo muối trung hòa (nếu xảy ra dấu “=” ) và tạo
muối trung hòa và còn dư chất kiềm (nếu xảy ra dấu “>”). Khi đó ta có phương
trình phản ứng:
CO2 + H2O



H2CO3 (1’)

H 2CO3 + 2NaOH

 Na2CO 3 + H 2O (2’)


Vì (1’) và (2’) xảy ra liên tục nên ta viết gộp và đơn giản thành :
CO2 + 2NaOH
Hay

 Na2CO3 + H2O

CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H 2O

Và khi tính số mol muối trung hòa thì phải tính theo số mol CO2 hay SO 2
* Nếu x < nOH < 2x : thì phản ứng tạo ra cả hai muối. Khi đó phải viết cả hai phản
ứng : CO2 + 2NaOH
CO2 + NaOH
Hay

 Na2CO3 + H2O
 NaHCO 3

CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H 2O
2CO2 + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
Hệ quả 2 :

Khi phản ứng đã có tạo ra muối trung hòa (dù rất ít) cũng không được nói CO2 dư
mà chỉ có thể lượng CO2 mà ta tưởng là dư đó đã biến thành muối axit :
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
CO2 dư + CaCO3 + H2O  Ca(HCO3)2
Hệ quả 3 :
Sục V(lít) khí CO2 vào dung dịch có chứa n(mol) kiềm mà ta chỉ thu được n’(mol)
muối trung hòa (Với n’tưởng là dư đó đã biến ra muối axit. Như thế sẽ có hai giá trị của V:
Trường hợp 1: CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O

7


Trường hợp 2 : CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
2CO2 + Ca(OH)2 dư  Ca(HCO3)2
Hệ quả 4 :
Thể tích dung dịch kiềm tối thiểu để hấp thụ hết một lượng khí CO2 hay SO 2 cho
trước chính là thể tích dung dịch kiềm vừa đủ để biến toàn bộ lượng khí CO 2 hay
SO 2 đó thành muối axit.
Tóm lại :
Khi cho oxit axit (CO 2 , SO 2) vào dung dịch kiềm hoá trị I (NaOH, KOH) có các
trường hợp sau xảy ra:
Nếu biết thể tích hoặc khối lượng của oxit axit và dung dịch kiềm thì trước hết ta
phải tính số mol của cả 2 chất tham gia rồi lập tỉ số.
1
n

NaHCO3 và Na2CO3

2

(NaOH,KOH)
n
(CO 2 ,SO 2 )

NaHCO3
n

Nếu :


(NaOH,KOH)
≤ 1 (Tạo muối axit ) (xảy ra cả hai phản ứng)
n
(CO 2 ,SO 2 )

+ 2NaOH  Na2CO3 +

CO2

CO2 dư +
n

Nếu:

Na2CO3

Na2CO3 hết +

H2O.

H2O  2NaHCO 3.

(1)
(2)

(NaOH,KOH)
≥ 2(không quá 2,5 lần) Tạo muối trung hòa (xảy ra một
n
(CO 2 ,SO 2 )


phản ứng)
CO2

+ 2NaOH  Na2CO3 +
n

Nếu : 1 <

H2O

(NaOH,KOH)
< 2 )  Tạo ra hai muối : muối trung hòa và muối axit
n
(CO 2 ,SO 2 )

CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
CO2 + Na2CO 3 + H2O  2NaHCO3.
Hoặc :
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
CO2 + NaOH  NaHCO 3

8


Khi cho oxit axit (CO2,SO 2) vào dung dịch kiềm hoá trị II (Ca(OH)2, Ba(OH)2)
có các trường hợp sau xảy ra:
1

CaCO 3 và Ca(HCO3)2


2

n

n

CO 2
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

CaCO 3

Ca(HCO3)2

n

Nếu :

n

CO 2
≤ 1  Tạo muối trung hòa
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

+ Ca(OH)2  CaCO3 + H2O

CO2

n

Nếu :


n

CO 2
≥ 2 (không quá 2,5 lần)  Tạo muối axit
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

2CO2 + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
Hoặc :

CO2

+ Ca(OH)2

 CaCO 3 + H2O

CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO 3)2
n

Nếu : 1<

n

CO 2
< 2  Tạo ra hai muối : muối trung hòa và muối
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

axit
CO2


+ Ca(OH)2

 CaCO 3 + H2O

CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO 3)2 tan

III.2. Bài tập áp dụng :
Bài 1: Sục khí CO 2 từ từ vào cốc đựng dung dịch nước vôi chứa no mol cho đến
dư. Mô tả hiện tượng xảy ra. Viết PTHH minh họa.

Hướng giải :
- Khi mới sục CO 2 vào, do nCO2< nCa(OH)2 tạo thành muối trung hòa : nước vôi hóa
đục
CO2

+ Ca(OH)2

 CaCO 3 + H2O (1)

no

no

no (mol)
9


- Lượng khí CO2 càng tăng thì lượng CaCO3 càng tăng nên dung dịch càng đục và
trở nên đục nhất khi toàn bộ lượng no mol Ca(OH)2 hoàn toàn biến thành no mol
CaCO 3

- Nếu tiếp tục sục khí CO 2 vào thì CO 2 tiếp tục phản ứng với CaCO3 tạo ra muối
axit Ca(HCO 3)2 tan ( dung dịch trong dần trở lại)
- Dung dịch sẽ trở nên trong suốt khi toàn bộ no mol CaCO 3 biến thành no mol
Ca(HCO 3)2
- Nếu tiếp tục sục khí CO 2 vào thì CO 2 dư không phản ứng nữa, dung dịch trong
suốt vì đó là dung dịch chứa no mol Ca(HCO3)2
CaCO 3 + CO2 + H2O  Ca(HCO 3)2 tan (2)
Vì (1),(2) xảy ra liên tục, nên ta viết gộp và đơn giản thành :
CO2

 Ca(HCO3)2

+ Ca(OH)2

Như vậy : Khi sục khí CO 2 vào dung dịch nước vôi có thể xảy ra 1 trong 2 phản
ứng sau:
CO2

+ Ca(OH)2

 CaCO 3 + H2O

CO2

+ Ca(OH)2

 Ca(HCO3)2

Bài 2: Sục 5,6 lít khí CO2 (đkc) vào 200ml dung dịch KOH 2M
a. Tính số mol chất sau phản ứng

b. Thể tích dung dịch KOH trên có thể hấp thụ tối đa bao nhiêu lít khí SO2(đkc)
n

Nhận xét : Dựa vào tỉ lệ mol

KOH
( vì biết nKOH và nCO2) để xác định muối nào
n
CO 2

được tạo thành.
Hướng giải :
n

Và 1<

Ta có : n CO2 

KOH
 1, 6 < 2
n
CO 2

5, 6
 0, 25(mol ) , n KOH  0, 2.2  0, 4(mol ) ,
22, 4

( Hoặc nhẩm 0,25 < 0,4 < 0,5)  Tạo 2 muối

CO2 + 2KOH  K2CO3 + H 2O.

0,2
0,4
0,2
CO2 + K2CO3 + H2O  2KHCO3.
(0,25- 0,2) (0,25 - 0,2)
2(0,25 - 0,2)
Vậy n K 2CO3 = 0,2 – (0,25 – 0,2) = 0,15(mol)
10



n KHCO3 = 0,1(mol)


Thể tích dung KOH để hấp thụ tối đa một lượng khí SO2 chính là thể tích dung
dịch KOH vừa đủ để biến toàn bộ lượng khí SO2 đó thành muối axit.
 KHSO3

SO 2 + KOH
0,4

0,4

0,4

Vậy : nSO = 0,4.22,4 = 8,96 (lít)
2

Bài 3: Sục V lít khí CO2 (đkc) vào 4 lít dung dịch Ca(OH)2 0,02M, ta thu được
một kết tủa trắng nặng 5 gam. Tính giá trị của V.

Nhận xét : Bài toán chỉ cho biết thể tích hoặc số mol của một chất , ta phải xét các
trường hợp : tạo muối trung hòa, muối axit hoặc cả hai muối trung hòa và muối
axit
Hướng giải :

Ta có n CaCO3 

5
 0, 05( mol ) , n Ca (OH ) 2  4.0, 02  0, 08(mol )
100

Như vậy ta thấy n CaCO3 < n Ca(OH )2  có hai trường hợp :
Trường hợp 1 :

Tạo muối trung hòa

CO2

+ Ca(OH)2

0,05

0,05

 CaCO 3 + H2O
0,05

Khi đó V CO2 (đkc) = 0,05.22,4 = 1,12 (lít) (dư Ca(OH)2 0,03 mol)
Trường hợp 2 :


Tạo muối trung hòa và muối axit

CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
0,05

0,05

2CO 2

+

0,05
Ca(OH)2

2(0,08 – 0,05)



Ca(HCO3)2

(0,08 – 0,05)

Khi đó VCO2 = (0,05 + 0,06) .22,4 = 2,464 (lít)
Bài 4 : Sục V lít khí CO2 (đkc) vào 200 ml dung dịch NaOH 2M. Sau khi phản
ứng hoàn toàn ta cô cạn dung dịch và thu được 24,3 gam muối. Tính giá trị của V.
Nhận xét : Bài toán trên sẽ vô định nếu NaOH dư hay CO 2 dư, và bài toán chỉ có
nghiệm khi CO2 và NaOH phản ứng hết. Vì không biết được lượng CO2 nên không
n

xét được tỉ số mol


NaOH
để xác định muối nào được tạo thành, nên ta dùng
n
CO 2

“phương pháp biện luận”
Hướng giải :

Ta có : nNaOH = 0,2.2 = 0,4 (mol)
11


Trường hợp 1 : (Tạo muối trung hòa) :
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O
0,4

(1)

0,2

Khi đó m Na2CO3 = 0,2.106 = 21,2 g < 24,3 g (loại)
Trường hợp 2 : (Tạo muối axit) :

CO2 + NaOH

 NaHCO 3 (2)

0,4


0,4

Khi đó m NaHCO3 = 0,4.84 = 33,6 g > 24,3 g (loại)
Trường hợp 3 : Vậy phải có cả hai phản ứng (1) và (2) :
CO2

+ 2NaOH  Na2CO3 +

x

2x

(1)

x
 NaHCO 3

CO2 + NaOH
y

H2O

y

(2)

y

Gọi x, y (mol) lần lượt là số mol CO2 tham gia phản ứng (1) và (2)
Ta có :


106x + 84y = 24,3

x = 0,15

2x + y = 0,4

y = 0,1

Vậy V CO2 (đkc) = (0,15 + 0,1).22,4 = 5,6 (lít)

Bài 5 : Người ta dẫn 2,24 lít khí CO2 (ở đktc) qua bình đựng dung dịch NaOH. Khí
CO2 bị hấp thụ hoàn toàn. Sau phản ứng muối nào được tạo thành với khối lượng
là bao nhiêu gam?
Nhận xét : Bài tập chỉ cho biết số mol của một chất (CO2) .Vì vậy muốn biết muối
nào được tạo thành ta phải xét các trường hợp xảy ra:
Hướng giải : Ta có : nCO 2 =

2,24
= 0,1 (mol)
22,4

Trường hợp 1 : (Tạo muối trung hòa) : CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O (1)
0,1
Khi đó

m

0,1


Na2CO3 = 0,1 . 106 = 10,6 (g)

Trường hợp 2 : (Tạo muối axit) :

CO2 + NaOH
0,1
12

 NaHCO 3
0,1

(2)


m

Khi đó

NaHCO3 =0,1 . 84 = 8,4

(g)

Trường hợp 3 : Sản phẩm tạo thành là hỗn hợp hai muối (NaHCO3 và Na2CO3).
CO2

+ NaOH

CO2

+


 NaHCO 3

(3)

 Na2CO3 + H2O

2NaOH

Khối lượng hỗn hợp hai muối : 8,4 (g) <

(4)

m

NaHCO3 +

m

Na2CO 3 < 10,6 (g)

Bài 6 : Hấp thụ hoàn toàn 4,48 Lít CO2 vào 500 ml dung dịch NaOH thu được
17,9gam muối.Tính CM của dung dịch NaOH.
Để tính CM(NaOH) ta phải tính được nNaOH. Khi cho CO2 hấp thụ

Nhận xét :

hoàn toàn vào dung dịch NaOH chưa biết số mol. Để xác định sản phẩm phải xét
cả 3 trường hợp xảy ra
4,48

= 0,2 (mol)
22,4

Hướng giải : Ta có nCO2 =
Trường hợp 1 : nCO 2 ≥
CO2

n

NaOH  Tạo muối axit : NaHCO3

 NaHCO 3

+ NaOH

n

17,9
= 0,2 ( mol).
84

Theo (1)

n

NaHCO 3 =

(1)

CO2 = nNaOH = 0,2 (mol)


Khi đó : CM(NaOH) =

0,2
= 0,4M
0,5

Trường hợp 2 : nNaOH ≥ nCO 2  Tạo muối trung hòa
với

n

Na2CO3 =

17,9
= 0,17 (mol)
106

+ CO 2  Na2CO3 + H2O

2NaOH

0,17

(2)

0,17

Vậy nCO 2 dư = 0,2 – 0,17 = 0,03 (mol) sẽ phản ứng với sản phẩm phản ứng (2)
CO2 + N a2CO3

0,03

+ H2O  2NaHCO3

0,03

(3)

0,06

n

Na2CO 3 dư còn lại trong dung dịch sau phản ứng (3) là : 0,17 – 0,03= 0,14 ( mol )
Vậy

m

Na2CO3 = 0,14 . 106 = 14,84 (g)

Và theo (3) mNaHCO3 = 0,06.84 = 5,04 (g)
13


Khi đó khối lượng của hai muối :
(Na2CO3,NaHCO3) = 5,04 + 14,84 = 19,88 (g) > 17,9 (g). Vậy trường hợp 2 (loại)
Trường hợp 3 : Tạo ra hai muối (NaHCO3 và Na2CO3)
CO2

+ NaOH


 NaHCO 3

x

x

x
CO2 +

 Na2CO3 + H2O

2NaOH

y

(4)

2y

(5)

y

Gọi x, y (mol) lần lượt là số mol CO2 tham gia phản ứng (4) và (5)
Ta có :

84x + 106y = 17,9

x = 0,15


x + y = 0,2

y = 0,05

Vậy nNaOH = (0,15 + 2.0,05) = 0,25 (mol). Khi đó CM(NaOH) =

0,25
= 0,5 (mol)
0,5

Bài 7 : Cho biết (X) là hợp chất hữu cơ chứa 2 hoặc 3 nguyên tố C, H, O
Trộn 2,688 lít CH4(đkc) với 5,376 lít khí (X) ở đkc thu được hỗn hợp khí (Y) có
khối lượng 9,12 gam.
Đốt cháy hoàn toàn hỗn hợp (Y). Cho sản phẩm cháy hấp thụ hết vào dung dịch
chứa 0,48 mol Ba(OH)2 thu được 70,92 gam kết tủa.
Xác định công thức phân tử và công thức cấu tạo của (X)
Nhận xét : Để xác định CTPT của (X) phải biết M(X) và số mol nguyên tử C trong
(X)(có trong số mol nguyên tử C của CO2 khi đốt cháy hỗn hợp (Y).Từ phản ứng
CO2 + Ba(OH)2 ( Với Ba(OH)2 dư) ta tính được nCO 2
Hướng giải :
Ta có

n

CH4 =

2, 688
= 0,12 (mol) Và n(X) =
22,4


n

BaCO3 =
CH4

5, 376
= 0,24 (mol) ( X: CxH yO z)
22,4

70, 92
= 0,36 (mol) Và nBa(OH)2 = 0,48 (mol)
22,4

+ 2O2

0,12
CxHyOz +

o

t



CO2 + 2H2O

(1)

0,12
(x 


y z
 ) O2
4 2

0,24

o

t



xCO2 +
(0,24)x

14

y
H 2O
2

(2)


Mặt khác : CO2 + Ba(OH)2  BaCO3 + H2O
0,36

0,36


2CO 2

+

Vậy  nCO2

(1)(2)

0,36
Ba(OH)2 dư

2(0,48 – 0,36)

(3)



Ba(HCO3)2

(4)

(0,48 – 0,36)

=  nCO 2

(3)(4)

= 0,12 + (0,24)x = 0,36 + 2(0,48 – 0,36)

Hay x = 2 (*)

Ta lại có : mCH4 + mCxHyO z = 9,12
Vậy

M

CxH yOz = 30

Hay 0,12.16 + 0,24. MCxH yOz = 9,12

Hay : 12x + y + 16z = 30 (**)

Từ (*) (**) ta có : x = 2, z = 0, y = 6 . Vậy CTPT : C2H6 và CTCT : CH3-CH3

IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :
Những kinh nghiệm trên được bản thân áp dụng trong quá trình giảng dạy có
hiệu quả thiết thực. Với hướng đi là từ trang bị lí thuyết đến các bài tập minh họa
nhằm giúp học sinh dễ hiểu và định dạng được hướng giải từ đó có cách làm phù
hợp.Vì thế, từ những định hướng trên tôi đã chọn lọc và trang bị đến từng đối
tượng học sinh tiếp nhận một cách vừa sức. Với mục đích lớn nhất là giúp các em
hiểu rõ hơn về bản chất của phản ứng thông qua việc làm các dạng bài tập. Cho
nên với các học sinh đại trà và học sinh giỏi các em đều biết được cách làm chung
và nâng cao ở dạng bài tập này.Vì vậy trong các bài kiểm tra định kì ở các lớp, các
em đều hoàn thành tốt các dạng bài tập mà đề bài yêu cầu. Đặc biệt, ở đội tuyển
học sinh giỏi Hoá của trường bản thân đã áp dụng những kinh nghiệm đó trong
việc bồi dưỡng, giúp các em phát huy tính tích cực, sáng tạo, giải quyết vấn đề
nhanh nhạy hơn. Từ đó kích thích được sự hứng thú với môn học ở trong mỗi học
sinh ,nâng cao chất lượng học sinh đại trà, học sinh giỏi ở các cấp Huyện , Tỉnh.
Năm học

Số HS giỏi câp Huyện


Số HS giỏi câp Tỉnh

2009 - 2010

2 ( 1giải 1, 1 giải 3)

1(giải 3)

2010 - 2011

2 ( 1giải 1, 1 giải 2)

1( KK)

2011 -2012

4 (1giải 3 , 3 giải KK)

2 (1giải 3, 1 KK)

15


PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Bản thân đã triển khai lý thuyết dạng bài tập trong các tiết luyện tập, ngoại
khoá.
Tuy nhiên việc áp dụng từng nội dung của đề tài tùy thuộc vào đối tượng
học sinh, giáo viên cần có tính linh hoạt sáng tạo áp dụng cho phù hợp :

Đối với các lớp đại trà nên chỉ rèn luyện cho các em dạng bài tập với trường
hợp đơn giản (chỉ cho ra 1 muối hoặc cả hai muối nhưng với điều kiện có thể lập
được tỉ số mol giữa kiềm và oxit axit, hoặc cho biết một trong hai chất dư, giải
thích và mô tả những hiện tượng đơn giản thường gặp trong cuộc sống).
Đối với đội tuyển học sinh giỏi, tôi đã kết hợp giữa dạy lý thuyết và bài tập
giúp các em hiểu rõ và khắc sâu được bản chất của phản ứng, đi từ bài tập tổng
quát, sau đó mới đưa ra các dạng bài tập từ cơ bản đến nâng cao. Từ đó các em
không còn lúng túng khi giải các dạng bài tập này, hiểu thấu đáo vấn đề ở những
góc độ khác nhau của phản ứng giữa oxit axit với kiềm, hình thành được kĩ năng
giải bài tập, biết phân tích bài toán và đưa ra hướng giải chính xác.
Hoá học là môn khoa học thực nghiệm vì vậy để khắc sâu kiến thức cho học
sinh, giáo viên thường xuyên làm các thí nghiệm chứng minh, cho học sinh thực
hành thí nghiệm.
Kiến thức của học sinh chỉ bền vững khi kĩ năng được thiết lập, mà để hình
thành những kĩ năng cho học sinh thì không có gì khác ngoài quá trình rèn luyện,
bồi dưỡng thường xuyên cho các em.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :
Đánh giá được tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc thực hành bài
tập, tạo lòng say mê khoa học, yêu thích bộ môn.
Đánh dấu được tính năng động sáng tạo của giáo viên khi đổi mới phương
pháp trong giảng dạy Hóa học
Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy – học Hóa học, nhất là công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi.
16


III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI :
Để áp dụng đề tài này vào công việc dạy và học Hóa học, giáo viên và học
sinh cần phải xác định được những nhiệm vụ của mình.
Đối với Giáo viên : phải thường xuyên trau dồi kiến thức, nâng cao kỹ năng

giải toán hóa học, đặc biệt phải nắm chắc bản chất của phản ứng giữa oxit axit với
kiềm.
Tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức và phân loại các bài tập dạng này trong
các tài liệu: SGK, SBT, sách tham khảo, các đề thi HS giỏi …( theo yêu cầu của đề
bài, theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp).
Lưu ý sau khi giải bài tập: khắc sâu những vẫn đề trọng tâm, những điểm
khác biệt. Nhắc lại, giảng lại một số phần mà HS hay nhầm, khó hiểu
Đối với Học sinh : phải nắm chắc kiến thức, có khả năng phân tích từ những
bài tập đơn giản mở rộng ra các bài tập khó hơn, không ngừng học hỏi, học ở thầy,
học ở bạn, học ở sách vở.
Sáng kiến kinh nghiệm có thể triển khai cho giáo viên môn Hóa trong nhà
trường, giúp giáo viên hệ thống hoá được kiến thức, phương pháp dạy học.
Là tài liệu cho việc ôn tập và bồi dưỡng học sinh năng khiếu vì Phản ứng
của oxit axit với dung dịch kiềm là một trong những chuyên đề quan trọng trong
nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT :
Phạm vi nghiên cứu của đề đài chỉ là một dạng bài tập trong chương trình
hoá học, nhưng hi vọng nó sẽ giúp ích cho các em học sinh và các đồng nghiệp
trong việc giảng dạy phần kiến thức này, giúp các em và thầy cô có cách nhìn tổng
quát hơn và là tài liệu cho việc ôn luyện học sinh giỏi .
Vì đây là kinh nghiệm cá nhân rút ra trong quá trình giảng dạy nên không
tránh khỏi hạn chế, rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của đồng nghiệp.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên đề bồi dưỡng Hóa học THCS – Vũ Anh Tuấn- Phạm Tuấn Hùng
2. 400 bài tập Hóa học 9 – Ngô Ngọc An
3. Tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Hóa học

4. Các đề thi Học sinh giỏi cấp Huyện, Tỉnh

18


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I

Bối cảnh của đề tài

Trang 1

II

Lý do chọn đề tài

Trang 1

III

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Trang 2

IV

Mục đích nghiên cứu

Trang 2


V

Điểm mới trong nghiên cứu

Trang 2

PHẦN NỘI DUNG
I

Cơ sở lí luận

Trang 3

II

Thực trạng của vấn đề

Trang 4

III

Các biện pháp giải quyết vấn đề

Trang 5

IV

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


Trang 14

PHẦN KẾT LUẬN
I

Những bài học kinh nghiệm

Trang 15

II

Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 15

III

Khả năng ứng dụng triển khai

Trang 16

IV

Kiến nghị , đề xuất

Trang 16

19




×