Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác quản lý lao động nước ngoài trong các khu công nghiệp bắc ninh, giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.47 KB, 64 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN BÌNH DƯƠNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP BẮC NINH GIAI
ĐOẠN 2016 - 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNHTRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP BẮC NINH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện: NGUYỄN BÌNH DƯƠNG
Lớp: B14-15
Chức vụ: Phó Chánh Thanh tra
Đơn vị công tác: Ban quản lý các KCN Bắc Ninh

HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2016



LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Chính trị
khu vực I và toàn thể các thầy giáo, cô giáo phụ trách, giảng dạy Lớp cao
cấp lý luận chính trị B14-15, đặc biệt xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn
Thị Thúy Hà - Trưởng khoa Quan hệ quốc tế đã tận tình truyền đạt những
kiến thức kinh nghiệm quý báu, hướng dẫn nghiên cứu để tôi hoàn thành đề
án tốt nghiệp này. Trong thời gian làm việc với Cô,, tôi đã nhận được nhiều
kiến thức bổ ích và học được tinh thần làm việc, thái độ nghiên cứu khoa học
nghiêm túc, hiệu quả.
Tôi xin gửi lời cảm ơn các đồng chí lãnh đạo địa phương, lãnh đạo cơ
quan nơi công tác, cảm ơn sự quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ của Tỉnh ủy,
Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Ban quản lý
các Khu công nghiệp Bắc Ninh,, cùng các anh chị học viên trong lớp, đồng
nghiệp và gia đình đã giúp tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu thực tế,
cũng như quá trình thực hiện Đề án tốt nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do những điều kiện chủ quan và
khách quan nên bản đề án không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy, cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tên tiếng Anh

BQL


Ninh
Bộ Luật Lao động năm 2012
Doanh nghiệp

BLLĐ
DN
FDI
GKSK
GPLĐ
GTSXCN
KCN
LĐNN
LLTP
NNN
UBND

Tên tiếng Việt
Ban quản lý các Khu công nghiệp Bắc

Foreign Direct
Investment

Đầu tư nước ngoài
Giấy khám sức khỏe
Giấy phép lao động
Giá trị sản xuất công nghiệp
Khu công nghiệp
Lao động nước ngoài
Lý lịch tư pháp
Người nước ngoài

Uỷ ban nhân dân

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................4
2. Mục tiêu của đề án...................................................................................3
2.1. Mục tiêu chung.....................................................................................3
2.2. Mục tiêu cụ thể......................................................................................3


3. Giới hạn..................................................................................................4
1. Cơ sở xây dựng đề án...............................................................................5
1.1. Cơ sở khoa học.....................................................................................5
1.3. Cơ sở thực tiễn....................................................................................14
2. Nội dung thực hiện đề án........................................................................16
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án......................................................................16
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về công tác quản lý lao động nước
ngoài hoạt động trong các doanh nghiệp KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh......18
3. Tổ chức thực hiện đề án..........................................................................39
3.1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án..................................................39
3.2. Tiến độ thực hiện đề án........................................................................40
3.3. Kinh phí thực hiện đề tài......................................................................43
4. Dự kiến hiệu quả của đề án.....................................................................45
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án..................................................................45
4.2. Đối tượng hưởng lợi của đề án..............................................................45
4.3. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án; tính khả thi của đề án..46
C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN.......................................................................48
1. Kiến nghị...............................................................................................48
1.1. Đối với Chính phủ..........................................................................48
1.2. Đối với UBND tỉnh Bắc Ninh.........................................................50
1.3. Đối với Ban quản lý các KCN........................................................50

2. Kết luận.................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................54


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế,
những năm vừa qua hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển.
Mỗi năm, Việt Nam đã đưa hàng chục nghàn lao động trong nước ra nước
ngoài làm việc, cùng với đó chúng ta cũng tiếp nhận số lượng đông đảo lao
động nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam. Sự có mặt của lao động nước
ngoài tại Việt Nam là một thực tế mang tính tất yếu khách quan trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Bắc Ninh nằm ở cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay
Quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh. Bắc Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua,
nối liền tỉnh với các Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc,
Việt Nam.Với vị trí địa lý thuận lợi gần Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế
Nội Bài (40 km), gần cảng nước sâu Cái Lân (90 km) 1, chính quyền tỉnh Bắc
Ninh đã xác định hình thành các Khu công nghiệp tập trung để phát triển công
nghiệp là mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh.
Tính đến hết năm 2015, Bắc Ninh có 15 khu công nghiệp tập trung
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổng diện tích đất quy hoạch 6.847 ha.
Trong đó có 09 KCN đi vào hoạt động, Ban quản lý các KCN đã cấp 899
Giấy chứng nhận đầu tư (trong nước là 334, FDI là 565) với tổng vốn đầu tư
đạt 12 tỷ USD (trong nước 1,4 tỷ USD, FDI là 10,6 tỷ USD). Đã có 537
doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (trong đó có trên 350

doanh nghiệp FDI), giá trị sản xuất công nghiệp 328.797 tỷ đồng, tổng giá trị

1

Cục thống kê Bắc Ninh (2000).


2

xuất khẩu 20,6 tỷ USD, Thu hút 204.873 lao động, trong đó 2.507 lao động
nước ngoài2.
Ban quản lý các KCN Bắc Ninh được thành lập theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, hiện nay là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh, thực hiện
chức năng quản lý trực tiếp đối với các KCN tập trung trên địa bàn tỉnh theo
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ. Nội dung quản
lý nhà nước về lao động trong KCN trong đó có nhiệm vụ cấp giấy phép lao
động cho người nước ngoài và thực hiện công tác quản lý lao động nước
ngoài theo ủy quyền. Việc thay đổi những quy định cấp giấy phép lao động
cho người nước ngoài làm cho nhiều doanh nghiệp KCN có sử dụng lao động
nước ngoài gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thủ tục
xin cấp phép lao động cho NNN. Khó khăn này ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến môi trường đầu tư
của địa phương. Ngoài ra, cùng với sự tăng lên về số lượng người nước ngoài
là sự nảy sinh những phức tạp trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước
với đối tượng này; người nước ngoài lợi dụng những sơ hở thiếu sót trong
công tác quản lý của các cơ quan chức năng để cố tình vi phạm những quy
định của pháp luật Việt Nam về cấp giấy phép lao động, về xuất nhập cảnh,
về cư trú để đạt mục đích cá nhân; đã có nhiều trường hợp vi phạm những
lỗi như: làm giả hồ sơ để xin cấp giấy phép lao động, làm việc không có
giấy phép lao động hoặc không đúng với vị trí được cấp trong giấy phép

lao động, tạm trú quá thời hạn thị thực, không khai báo tạm trú… dẫn đến
khó khăn trong quản lý lao động nước ngoài, ảnh hưởng đến mục tiêu của
địa phương khi thu hút và sử dụng lao động nước ngoài, ảnh hưởng đến
công tác đảm bảo an ninh quốc gia và an toàn xã hội.

2

Ban quản lý các KCN Bắc Ninh (2014).


3

Từ thực tiễn công tác tại Ban quản lý các KCN Bắc Ninh, tác giả lựa
chọn, nghiên cứu xây dựng đề án “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về công tác quản lý lao động nước ngoài trong các khu công nghiệp Bắc
Ninh, giai đoạn 2016-2020” làm đề án tốt nghiệp. Đề tài này nghiên cứu
những bất cập trong những quy định về cấp giấy phép lao động cho người
nước ngoài làm việc trong các KCN Bắc Ninh; nêu thực trạng công tác
quản lý nhà nước đối với người nước ngoài theo chức năng nhiệm vụ được
phân cấp, ủy quyền; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước tại
địa phương để thực hiện toàn diện nội dung quản lý nhà nước đối với người
nước ngoài làm việc trong các khu công nghiệp Bắc Ninh.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Ban quản lý các KCN Bắc
Ninh đối với lao động nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp trong các
KCN Bắc Ninh trong thời gian tới nhằm tạo lập tốt môi trường đầu tư đồng
thời đảm bảo hiệu quả của công tác quản lý lao động nước ngoài trong các
KCN góp phần phục vụ công tác đối ngoại, tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, đạt mục tiêu đề ra khi thu hút lao động nước ngoài, duy trì

môi trường ổn định kinh doanh, ổn định xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Thực hiện nghiêm Bộ Luật Lao động Việt Nam năm 2012 về quản
lý lao động nước ngoài.
- Rà soát, kiến nghị sửa đổi bổ sung, ban hành các văn bản phù hợp
với quy định hiện hành về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài tại
Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ quy định chi


4

tiết thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm
việc tại Việt Nam.
- Rà soát việc phân cấp, ủy quyền các lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ
quản lý lao động nước ngoài của Chính phủ cho các cơ quan quản lý nhà
nước tại địa phương. Qua đó đề xuất, kiến nghị thay đổi, hoàn thiện công
tác phân cấp, ủy quyền về quản lý lao động nước ngoài phù hợp với các cơ
quan quản lý nhà nước tại tỉnh Bắc Ninh.
- Hoàn thiện và đề xuất giải pháp thực hiện cơ chế phối hợp của các cơ
quan quản lý nhà nước về lao động nước ngoài tại địa phương trong việc thực
hiện cấp giấy phép lao động; thanh kiểm tra về lao động nước ngoài; tiếp
nhận, thống kê, lưu trữ và khai thác thông tin số liệu về lao động nước ngoài.
3. Giới hạn
- Đối tượng nghiên cứu: công tác quản lý nhà nước đối với người
nước ngoài trong các doanh nghiệp KCN Bắc Ninh do Ban quản lý các KCN
Bắc Ninh thực hiện
- Về không gian: Đề án được thực hiện trên phạm vi các KCN trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh
- Về thời gian: giai đoạn 2016 – 2020



5

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Khái niệm người nước ngoài
Mặc dù khái niệm "người nước ngoài" (NNN) ở các nước trên thế
giới được quy định có sự khác nhau, nhưng đều có điểm chung là người đó
không phải là công dân của nước đó và mang quốc tịch nước khác hoặc
không có quốc tịch.
Đối với các nước như Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, ... trong
Luật xuất nhập cảnh không nêu khái niệm về NNN nhưng tại các văn bản
pháp luật về quốc tịch lại quy định NNN là những người không có quốc tịch
của nước họ.
Trong thực tế, công tác quản lý NNN còn xuất hiện hai trường hợp:
người không có quốc tịch và người có từ hai quốc tịch trở lên (người đa quốc
tịch). Hầu hết các nước trên thế giới đều công nhận người không có quốc tịch
là NNN và trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với họ
được áp dụng như NNN. Một số ít nước tuy không khẳng định người không
có quốc tịch là NNN nhưng trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư
trú cũng sử dụng các quy định đối với NNN để điều chỉnh đối tượng này.
Nhìn chung, pháp luật quốc tịch ở các nước trên thế giới hiện nay có
hai xu hướng: áp dụng nguyên tắc một quốc tịch như CHLB Đức, Séc, Lào ...;
áp dụng nguyên tắc đa quốc tịch như Hoa Kỳ, Anh, Cộng hòa Pháp, Úc...
Người có một quốc tịch chỉ được cấp một hộ chiếu của nước mang
quốc tịch, khi nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại nước mà họ không phải là công
dân thì áp dụng quy định quản lý là NNN.
Người đa quốc tịch sẽ được cấp nhiều hộ chiếu của các quốc gia mà

người đó được công nhận có quốc tịch. Người đa quốc tịch khi nhập cảnh,


6

xuất cảnh, cư trú tại nước mà người đó không phải là công dân thì áp dụng
quy định quản lý là NNN phụ thuộc vào hộ chiếu mà người đó sử dụng và
nước cấp hộ chiếu. Vì vậy, khi người đa quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, cư
trú thì việc áp dụng chế định pháp luật đối với công dân trong nước hay đối
với NNN hoàn toàn phụ thuộc vào loại hộ chiếu mà người đó sử dụng. Cụ thể
là khi người đó sử dụng hộ chiếu của nước mà người đó có quốc tịch để nhập
cảnh thì được điều chỉnh bởi pháp luật áp dụng đối với công dân của nước cấp
hộ chiếu; trường hợp sử dụng hộ chiếu do nước ngoài cấp để nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú thì được điều chỉnh bởi pháp luật áp dụng đối với NNN.
Ở Việt Nam, Khoản 1 - Điều 3 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008
quy định ''công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam". Điều đó cũng
có nghĩa là người không có quốc tịch Việt Nam không phải là công dân Việt
Nam mà là NNN và khẳng định nguyên tắc một quốc tịch. Tuy nhiên, thực
hiện hội nhập quốc tế và chính sách thu hút cộng đồng người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, Điều 15 - Luật Quốc tịch (năm 2008) quy định điều khoản
chuyển tiếp "cho phép những người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được
nước ngoài cho nhập quốc tịch nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam hoặc
chưa bị tước quốc tịch Việt Nam nếu có nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam
thì được đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam". Với quy định này, cộng đồng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhất là đối với những người định cư ở những
nước cho phép mang nhiều quốc tịch có thể vừa mang quốc tịch của quốc gia
đang sinh sống vừa mang quốc tịch Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 1 - Điều 3 của Pháp lệnh nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú của NNN tại Việt Nam thì "NNN là người không có quốc tịch
Việt Nam". Như vậy, người không có quốc tịch nếu cư trú tại Việt Nam cũng

được điều chỉnh bởi pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của NNN tại
Việt Nam như đối với những NNN.


7

Ngoài ra, vấn đề xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú với loại đối tượng này,
pháp luật Việt Nam còn áp dụng nguyên tắc nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú trên
cơ sở sử dụng hộ chiếu do nước nào cấp. Theo đó, đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam bằng hộ chiếu
do nước ngoài cấp thì áp dụng như NNN; trường hợp nhập cảnh, xuất cảnh,
cư trú tại Việt Nam bằng hộ chiếu Việt Nam thì áp dụng giống như công dân
Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của NNN làm việc tại Việt Nam
Những cơ hội do đối tượng lao động này mang lại:
Một là, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao
năng suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Hai là, tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam và cho chính doanh nghiệp nội địa có nhu cầu sử dụng
lao động trình độ chuyên môn cao hay những chuyên gia kỹ thuật kinh
nghiệm lâu năm.
Ba là, tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động
nước ngoài.
Bốn là, góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu.
Không thể phủ nhận có những NNN khi vào Việt Nam đã mang theo cả
những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và phong cách làm việc chuyên
nghiệp, hiện đại do được đào tạo, hình thành từ nền đại công nghiệp mà nhiều
người lao động trong nước chưa có khái niệm.
Bên cạnh những cơ hội, lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
kéo theo nhiều tác động tiêu cực, nhiều thách thức như:

Một là, làm giảm thu nhập yếu tố thuần (NX) trong tổng thu nhập quốc
gia (GNI). Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập
và được chuyển về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu


8

nhập yếu tố thuần trong tổng thu nhập quốc gia; kết quả là làm giảm tổng thu
nhập quốc gia.
Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần
phong, mỹ tục của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá
truyền thống. Một số lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang
theo văn hoá của dân tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh,
hiện đại; đồng thời họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù
hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Ba là, công tác đảm ảo an ninh chính trị, an toàn xã hội. Một số đối
tượng vào Việt Nam không vì mục đích làm việc mà có thể có mục đích khác
như chống phá nhà nước, gián điệp kinh tế, trốn tránh truy nã, gây mất an
ninh trật tự….
1.1.3. Nội dung quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
QLNN là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước, do các
cơ quan Nhà nước sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã
hội và hành vi hoạt động của con người. QLNN ra đời cùng với sự xuất hiện
của Nhà nước, là một yêu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia. QLNN là
sự chỉ huy, điều hành để thực thi quyền lực Nhà nước; là tổng thể về thể chế,
pháp luật, quy tắc, về tổ chức và cán bộ của bộ máy có trách nhiệm quản lý
công việc hằng ngày của Nhà nước do tất cả các cơ quan Nhà nước (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) có tư cách pháp nhân tiến hành bằng các văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Nhà
nước đã giao cho trong việc tổ chức, điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi

của công dân.
Theo nghĩa rộng, QLNN là toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước,
bao gồm tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, là hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền, sử dụng


9

quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của con
người nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước. Theo nghĩa
hẹp, QLNN là hoạt động quản lý của cơ quan hành pháp, mà bản chất là hoạt
động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Trong các quy định của pháp luật Việt Nam không quy định riêng nội
dung QLNN về lao động nước ngoài, tại điều 235 - Bộ Luật lao động Việt
Nam năm 2012 có quy định nội dung QLNN về lao động, theo đó:
QLNN về lao động bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về lao động;
2. Theo dõi, thống kê, cung cấp thông tin về cung cầu và sự biến động
cung cầu lao động; quyết định chính sách, quy hoạch, kế hoạch về nguồn
nhân lực, dạy nghề, phát triển kỹ năng nghề, xây dựng khung trình độ nghề
quốc gia, phân bố và sử dụng lao động toàn xã hội. Quy định danh mục những
nghề chỉ được sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề hoặc có chứng chỉ kỹ
năng nghề quốc gia;
3. Tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động, thống kê,
thông tin về lao động và thị trường lao động, về mức sống, thu nhập của
người lao động;
4. Xây dựng các cơ chế, thiết chế hỗ trợ phát triển quan hệ lao động hài
hòa, ổn định và tiến bộ;
5. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về lao động; giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật;

6. Hợp tác quốc tế về lao động.
Lao động nước ngoài khi vào làm việc tại Việt Nam phải chấp hành đầy
đủ các quy định về pháp luật lao động tại Việt Nam, vì vậy, điều 235 của Bộ
Luật lao động cũng là nội dung QLNN đối với lao động nước ngoài


10

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Chính phủ là cơ quan hành pháp,
thực hiện chức năng QLNN bằng pháp luật (Điều 7 - Luật số 32/2001/QH10
Luật của Quốc hội về tổ chức Chính phủ); Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan
của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN đối với ngành hoặc lĩnh vực công
tác trong phạm vi cả nước (Điều 22 - Luật số 32/2001/QH10 Luật của Quốc
hội về tổ chức Chính phủ); Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan
của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực lao động trong phạm
vi cả nước (Điều 1 - Nghị định số 106/2012/NĐ-CP của Chính phủ). Theo
phân tích trên thì Bộ LĐ TB&XH là cơ quan trực tiếp làm công tác QLNN về
lao động nước ngoài, có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành khác (Bộ
Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao…) để đạt hiệu quả trong công tác quản
lý NNN. 06 nội dung về quản lý lao động nước ngoài trình bày trên có thể do
Bộ trực tiếp thực hiện hoặc phân cấp, ủy quyền cho các cơ quan ở địa phương
thực hiện.
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về công tác quản lý
lao động nước ngoài gồm:
- Nâng cao các mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực do NNN mang lại.
- Kiểm soát lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, không chấp
nhận lao động giản đơn, lao động phổ thông.
- Khuyến khích lao động nước ngoài chuyển giao công nghệ, kỹ năng
bằng việc đào tạo người Việt Nam thay thế.
- Người nước ngoài thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của

pháp luật Việt Nam.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Tình hình thế giới đã và đang diễn biến sâu sắc, khó lường. Xu thế hòa
bình, hợp tác cùng phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế; xu thế


11

toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, nền kinh tế tri thức đã và đang định hình cục diện chính trị thế
giới. Điều đó tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện đường lối chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng ta
tại Đại hội XI, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của
Đại hội XII khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong phương châm đối ngoại của Đại
hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”. Về hội nhập
quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được
thông qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với
chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà
mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và
văn hóa-xã hội....
Trong xu thế mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam, lao
động là NNN vào nước ta làm việc cũng là một xu thế tất yếu và phù hợp với
chủ trương, đường lối đối ngoại mới của Đảng và Nhà nước. Chúng ta phải
mở cửa đối với lao động nước ngoài vì đó là xu thế tất yếu, tuy rằng còn

những tác động tiêu cực nhưng những tác động tích cực như tạo cơ hội lớn
hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen
lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và
thế giới.
Trong những năm qua, Việt Nam đã ban hành tương đối đồng bộ và kịp
thời các quy định về quản lý lao động nước ngoài. Điều này một mặt đã tạo ra


12

hành lang pháp lý phục vụ công tác quản lý và là công cụ hữu hiệu trong tổ
chức thực hiện nhằm thu hút lao động nước ngoài có chuyên môn kỹ thuật,
đồng thời bảo vệ được vị trí việc làm mà lao động Việt Nam có thể đáp ứng.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
QLNN về lao động nước ngoài tại địa phương cần sự phối hợp của
nhiều cơ quan như Sở Lao động TB&XH, Ban quản lý các KCN, Sở Tư
pháp, Công an tỉnh... nên trong hệ thống văn bản luật có nhiều văn bản quy
phạm pháp luật có nhiều văn bản quy định như:
- Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của NNN tại Việt Nam, ngày
16/6/2014;
- Pháp lệnh số 24/2000 về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của NNN tại
Việt Nam, ngày 28/4/2000;
- Nghị định số 21/2001/NĐ-CP ngày 28/5/2001 quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh số 24/2000 về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của NNN tại
Việt Nam; Luật xử phạt vi phạm hành chính ngày 20/6/2012;
Liên quan trực tiếp đến các nhiệm vụ của Ban quản lý các KCN Bắc
Ninh hiện tại có các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Bộ Luật lao động Việt Nam năm 2012;
- Nghị định 102/NĐ-CP ngày 5/9/2013 của Chính phủ Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 102);
- Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/1/2014 của Bộ LĐ
TB&XH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102 của Chính phủ.
Bộ Lao động TB&XH là cơ quan được giao nhiệm vụ QLNN về lao
động nước ngoài. Có thể phân quyền hoặc ủy quyền một số nội dung
QLNN cho các cơ quan QLNN ở địa phương.


13

Ban quản lý các KCN Bắc Ninh là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh Bắc
Ninh thực hiện công tác QLNN về lao động nước ngoài theo Thông tư số
32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01/12/2014 của Bộ LĐ TB&XH hướng dẫn ủy
quyền thực hiện một số nhiệm vụ QLNN về lao động trong KCN, KCX, KKT
và KCNC, cụ thể các nhiệm vụ là:
- Tiếp nhận báo cáo giải trình của doanh nghiệp về nhu cầu sử dụng
người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người lao động
Việt Nam chưa đáp ứng được, tổng hợp, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định.
- Cấp, cấp lại, thu hồi GPLĐ cho NNN làm việc cho các doanh nghiệp
trong KCN.
- Xác nhận người lao động nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp
trong KCN không thuộc diện cấp GPLĐ.
- Thực hiện tổng hợp, thống kê, báo cáo tình hình lao động nước ngoài
trong các KCN Bắc Ninh định kỳ và đột xuất cho Bộ LĐ TB&XH.
Theo Nghị định 102 quy định chi tiết thi hành Bộ luật Lao động về cấp
GPLĐ cho lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, việc
trục xuất lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có
GPLĐ. Đối tượng áp dụng của Nghị định là lao động công dân nước ngoài
vào làm việc tại Việt Nam. Nghị định quy định về cấp GPLĐ, cấp lại GPLĐ,

trục xuất người lao động nước ngoài không có GPLĐ. Theo đó, Nghị định xác
định vị trí công việc được sử dụng người lao động nước ngoài. Hằng năm,
người sử dụng lao động (trừ nhà thầu) có trách nhiệm xác định nhu cầu sử
dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người lao
động Việt Nam chưa đáp ứng được và báo cáo giải trình với Chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở
chính. Trong quá trình thực hiện nếu thay đổi nhu cầu sử dụng người lao động


14

nước ngoài, người sử dụng lao động phải báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có văn bản chấp thuận cho từng người sử dụng lao
động về việc sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc.
Nghị định quy định các trường hợp người lao động nước ngoài không
thuộc diện cấp GPLĐ; quy định về cấp GPLĐ; cấp lại GPLĐ; thu hồi GPLĐ;
trục xuất người lao động nước ngoài.
Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn một số quy định về lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam. Theo đó, trước ít nhất 30 ngày kể từ ngày dự kiến tuyển lao động
nước ngoài, người sử dụng lao động nước ngoài phải báo cáo giải trình nhu cầu
sử dụng lao động nước ngoài, bao gồm: Vị trí công việc, số lượng, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm, mức lương, thời gian làm việc tới Sở LĐ TB&XH
nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính. Thông tư cũng quy định trách
nhiệm của chủ tịch UBND cấp tỉnh trong việc chỉ đạo các cơ quan chức năng
tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm
theo quy định của pháp luật về việc tuyển và quản lý lao động nước ngoài làm
việc trên địa bàn.
Quyết định số 60/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh ngày 09/05/2008 của
UBND tỉnh Bắc Ninh v/v quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

biên chế của Ban quản lý các Khu công nghiệp Bắc Ninh trong đó có nhiệm
vụ về quản lý lao động nước ngoài.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Người nước ngoài vào Việt Nam làm việc là xu thế tất yếu do tác
động của quá trình toàn cầu hoá quan hệ lao động và hội nhập kinh tế. Mỗi
nhà đầu tư, mỗi đơn vị sử dụng lao động đều có những kế hoạch, mối quan
tâm riêng đến quá trình tổ chức sản xuất và vì vậy có mối quan tâm thích
đáng tới việc tuyển dụng lao động là NNN. Bên cạnh đó, do công tác quản


15

lý có những vấn đề phức tạp nảy sinh, đã dẫn đến thực trạng đáng ngại
về lao động là NNN tại Việt Nam. Một số vấn đề đặt ra khi NNN làm việc
tại Việt Nam:
- Không tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam về visa, cấp
GPLĐ gây ra nhiều bất cập trong quản lý
- Tạo ra sức ép về việc làm, thu nhập cho lao động địa phương do
dòng lao động phổ thông lách luật tràn vào
- Xung đột về văn hóa: những khác biệt về văn hóa tới mức dẫn đến
va chạm đã, đang và sẽ còn tạo ra sức ép chính trị tới việc quyết định và
thực thi chính sách quản lý lao động nước ngoài. Những xung đột về văn
hóa sẽ kéo theo hiều bất ổn về chính trị và xã hội
- Gây nên sự phức tạp trong quản lý lao động và quản lý hành chính
(trật tự xã hội): Trong thời gian gần đây, việc người NNN vào Việt Nam
thông qua con đường du lịch sau đó ở lại bất hợp pháp mà không có thị thực
và GPLĐ. Điều đó đã gây ra nhiều vấn đề phức tạp đối với tình hình ANTT
và an toàn xã hội trên phạm vi cả nước.
- NNN có gia đình thường mang theo gia đình của họ, do đó làm tăng
mật độ dân số trong phạm vi nhất định và có khả năng ảnh hưởng tới mức

sinh hoạt chung.
- Nguyên nhân của những tồn tại trên trước hết do ý thức chấp hành
pháp luật của đơn vị sử dụng lao động, ý thức chấp hành pháp luật của NNN,
những kẽ hở của pháp luật. Đặc biệt là những quy định của pháp luật Việt
Nam, còn tồn tại những quy định chưa hợp lý, ngoài việc không đạt hiệu quả
QLNN mà còn ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của địa phương (tỉnh Bắc
Ninh) nói riêng và môi trường đầu tư quốc gia nói chung.
- Ban quản lý các KCN Bắc Ninh sau khi thực triển khai pháp luật về
quản lý lao động nước ngoài đã có nhiều cố gắng trong công tác cấp GPLĐ cho


16

NNN, quản lý lao động nước ngoài thực hiện pháp luật lao động Việt Nam. Tuy
nhiên, vẫn còn những bất cập trong công tác phân cấp, ủy quyền của Bộ Lao
động TB&XH trong lĩnh vực quản lý lao động nước ngoài cho các cơ quan
quản lý nhà nước ở địa phương (Ban quản lý các KCN không có chức năng
thanh tra NNN); công tác phối hợp giữa các cơ quan (Sở LĐ TB&XH, Công an
tỉnh, Ban quản lý các KCN…) chưa đạt được hiệu quả cao; có những bất cập
trong quy định về cấp GPLĐ cho NNN gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và môi trường đầu tư của địa phương.
Từ thực tiễn vấn đề NNN vào làm việc tại Việt Nam nói chung và Bắc
Ninh nói riêng đòi hỏi cơ quan QLNN phải có những nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể để giải quyết tình trạng trên.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Tỉnh Bắc Ninh có diện tích hơn 800km2, dân số khoảng 1 triệu người
nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội trong tam giác tăng trưởng kinh tế
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có các đường giao thông lớn quan trọng
chạy qua, nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, thương mại và văn hoá của

miền bắc. Quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn, đường cao tốc
Quốc lộ 18 nối sân bay Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long, Quốc lộ 38
nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng; Trục đường sắt xuyên Việt đi Lạng
Sơn và Trung Quốc; Mạng lưới đường thuỷ sông Cầu, sông Đuống, sông Thái
Bình chảy ra biển Đông. Bắc Ninh cách Hà Nội, cách sân bay quốc tế Nội Bài
khoảng 30-35 phút đi bằng ô tô. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giao lưu với bên ngoài.
Ngay từ khi tái lập tỉnh (1997), chính quyền tỉnh Bắc Ninh đã xác định
hình thành các KCN tập trung để phát triển công nghiệp là mục tiêu và nhiệm
vụ trọng tâm của tỉnh. Bắc Ninh hiện có 15 KCN tập trung được Thủ tướng


17

Chính phủ phê duyệt, tổng diện tích 6.847 ha; 13 KCN được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư (cho 16 dự án đầu tư hạ tầng KCN). 9/15 KCN đã đi vào hoạt
động với tổng diện tích đất công nghiệp được quy hoạch cho thuê 2.017,7 ha,
diện tích đã thu hồi 1.660,41 ha, đã cho thuê 1.355,67 ha; tỷ lệ lấp đầy trên
diện tích quy hoạch đạt 67,19%; tỷ lệ lấp đầy trên diện tích thu hồi đạt
81,65%. Tổng vốn đầu tư hạ tầng KCN (của 9 KCN) đã thực hiện khoảng 300
triệu USD.
Đến hết năm 2015, Ban quản lý các KCN đã cấp 899 Giấy chứng nhận
đầu tư (trong nước là 334, FDI là 565) với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
12.138,01 triệu USD (trong nước 1.393,38 triệu USD, FDI là 10.744,93 triệu
USD). Tổng số dự án đi vào hoạt động tại các KCN lên 537 dự án. Các dự án
này đã tạo ra Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 328.797 tỷ đồng; Giá trị xuất
khẩu đạt 16,2 tỷ USD đạt 72% kế hoạch năm (16,2/22,5); Nộp ngân sách đạt
3.595 tỷ đồng. Các KCN Bắc Ninh sử dụng 204.873 lao động, trong đó lao
động địa phương 64.599 người, lao động nữ 142.273 người, lao động nước
ngoài 2.507 người.

Với bối cảnh thuận lợi về vị trí địa lý cũng như có chính sách thu hút vốn
FDI tốt, Bắc Ninh đã thu hút và tạo lập được hệ thống các doanh nghiệp FDI
mạnh trong lĩnh vực điện, điện tử. Thuận lợi trong công tác quản lý lao động
nước ngoài là ngành, lĩnh vực điện, điện tử đang là xu hướng phát triển chung
của thế giới, tỉnh có thể tận dụng công nghệ, kinh nghiệm mà người nước ngoài
làm việc trong các KCN truyền lại cho lao động địa phương để hình thành nguồn
nhân lực chất lượng cho cho địa phương. Khó khăn là tỉnh phụ thuộc nhiều vào
dòng vốn FDI, nếu người nước ngoài khó khăn trong việc xin cấp GPLĐ sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua đó ảnh hưởng
đến nền kinh tế và môi trường đầu tư của địa phương.


18

2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về công tác quản lý lao
động nước ngoài hoạt động trong các doanh nghiệp KCN trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Tổng quan về lao động nước ngoài trong các KCN
Với lợi thế quốc gia là nguồn nhân lực giá rẻ, lợi thế địa phương là gần
thủ đô Hà Nội, thuận lợi về giao thông, gần sân bay, cảng biển cùng với chính
sách thu hút đầu tư tốt, rrong những năm qua, Bắc Ninh đã là địa phương thu
hút vốn đầu tư nước ngoài đứng trong tốp đầu cả nước, đặc biệt có các dự án
lớn mang thương hiệu toàn cầu như SamSung (Hàn Quốc), Canon (Nhật
Bản), Nokia (Phần Lan), ABB (Thụy Điển) ... Cùng với các dự án FDI đi vào
hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài của các
doanh nghiệp ngày càng tăng.
Bảng 1: Số lượng lao động nước ngoài qua các năm

Năm
NNN (người)


2011
1.289

2012
1.451

2013
1.564

2014
1.991

2015
2.507

Tính đến hết 2015, có tổng số 2.507 NNN làm việc trong các doanh
nghiệp KCN, trong đó:
Phân theo giới tính: nam 2.340 người, nữ 173 người.
Phân theo quốc tịch 2.481 NNN có quốc tịch Châu Á, 29 NNN có quốc
tịch Châu Âu và 03 NNN có quốc tịch Châu Mỹ. Do hầu hết các dự án lớn
trong KCN Bắc Ninh đều đến từ các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc... nên người Châu Á chiếm đa số, chỉ có một số dự án lớn đến từ Châu
Âu như dự án Nokia (nay là Microsoft), ABB (Thụy Điển)...
Phân theo vị trí công việc: quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có
04 đối tượng được làm việc tại Việt Nam là (1) nhà quản lý, (2) giám đốc điều
hành, (3) chuyên gia (4) lao động kỹ thuật. Theo quy định tại Nghị định 102
thì điều kiện về chuyên môn nhà quản lý, giám đốc điều hành phải có xác



19

nhận kinh nghiệm đã từng đảm nhiệm vị trí quản lý, giám đốc điều hành;
chuyên gia thì phải có bằng đại học trở lên và có kinh nghiệm trên 05 năm
làm trong lĩnh vực được đào tạo; lao động phổ thông thì phải có kinh nghiệm
từ 03 năm trở lên và bằng đào tạo ít nhất 01 năm. Sở dĩ có những yêu cầu
chuyên môn về vị trí công việc vì chúng ta không khuyến khích lao động phổ
thông vào làm việc. Trong số 2.507 NNN làm việc trong các KCN Bắc Ninh
thì có 1.563 NNN là nhà quản lý, 493 NNN là giám đốc điều hành, 275 NNN
là chuyên gia và 181 NNN là lao động kỹ thuật
Nhìn chung, NNN vào làm việc trong các KCN Bắc Ninh hầu hết là do
nhu cầu sử dụng lao động là NNN của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp
nước ngoài sang Việt Nam đầu tư rất khó có thể giao những vị trí quan trọng
như giám đốc điều hành hay nhà quản lý cho người Việt nên đa phần các
doanh nghiệp cử người của họ từ công ty mẹ (công ty nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam) sang để điều hành, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Hoặc là
những chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm và chuyên môn sâu chuyên biệt
cho hệ thống máy móc vận hành dây truyền sản xuất của doanh nghiệp nước
ngoài. Đặc biệt, doanh nghiệp nước ngoài họ rất sợ lộ bí mật công nghệ kinh
doanh nên họ chỉ sử dụng những chuyên gia là người của công ty họ. Còn đối
tượng lao động kỹ thuật, là do công ty mẹ cử sang để đào tạo cho lao động
phổ thông là người Việt Nam.
Từ những lý giải trên, ta thấy vị trí của NNN trong các doanh nghiệp
nước ngoài hoạt động trong các KCN Bắc Ninh là những vị trí quan trọng, ít
có khả năng thay thế. Tuy nhiên, những quy định mới về điều kiện cấp GPLĐ
cho NNN đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong KCN có nhu cầu sử
dụng lao động nước ngoài, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và nền kinh tế của
tỉnh Bắc Ninh.



20

2.2.2. Thực trạng công tác QLNN về lao động nước ngoài của Ban
quản lý các KCN Bắc Ninh (từ năm 2011-2015)
Ban quản lý các KCN Bắc Ninh thực hiện công tác QLNN về lao động
nước ngoài theo Thông tư số 32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01/12/2014 của
Bộ LĐ TB&XH hướng dẫn ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ QLNN về
lao động nước ngoài trong KCN, cụ thể các nhiệm vụ là:
i) Tiếp nhận báo cáo giải trình của doanh nghiệp về nhu cầu sử dụng
người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người lao động
Việt Nam chưa đáp ứng được, tổng hợp, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định.
ii) Cấp, cấp lại, thu hồi GPLĐ cho NNN làm việc cho các doanh nghiệp
trong KCN.
iii) Xác nhận người lao động nước ngoài làm việc cho các doanh
nghiệp trong KCN không thuộc diện cấp GPLĐ.
iv) Thực hiện tổng hợp, thống kê, báo cáo tình hình lao động nước
ngoài trong các KCN Bắc Ninh định kỳ và đột xuất cho Bộ LĐ TB&XH.
Kết quả thực hiện những nội dung QLNN về LĐNN giai đoạn 2011-2015
Phòng Quản lý lao động - Ban quản lý các KCN Bắc Ninh là Phòng
chuyên môn chịu trách nhiệm công tác QLNN về NNN trong các KCN Bắc
Ninh, Phòng hiện có 05 công chức, trong đó 01 Trưởng phòng, 01 Phó phòng và
03 chuyên viên.
Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đều xây dựng quy trình ISO cho toàn
bộ các thủ tục hành chính được thực hiện tại Ban và có Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả riêng, các Phòng chuyên môn chỉ nhận, thụ lý hồ sơ và trả lại kết
quả từ bộ phận này. Tình hình thực hiện các nhiệm vụ QLNN về lao động
nước ngoài như sau (nêu cụ thể bám theo từng nhiệm vụ)
i) Tiếp nhận báo cáo giải trình của doanh nghiệp về nhu cầu sử dụng

người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người lao động


×