Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa tiêu hóa bệnh viện bạch mai giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.5 KB, 49 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Chất lượng ngồn nhân lực là nhân tố quyết định nhất và là thước đo về
sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Một thực tế
cho thấy, trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên,
nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu to lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng
phát triển nguồn nhân lực.
Nước ta hiện nay đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao trên các lĩnh vực là yêu cầu cấp bách đang đặt ra. Do đó, tại Đại hội
XI (2011) và Đại hội XII (2016), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đều
được coi là một trong những mục tiêu có tính chất đột phá của đất nước trong
thời kỳ mới. Việc phát triển nguồn nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn
chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi giai
đoạn nhất định, cần xây dựng những định hướng cụ thể, đánh giá thời cơ,
thách thức, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân… để từ đó đề ra mục
tiêu và giải pháp phát triển cụ thể trong từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh
tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế.
Bệnh viện Bạch Mai là đơn vị trực thuộc Sở y tế Thành Phố Hà Nội. Từ
nhà thương Cống Vọng nhỏ bé được thành lập vào năm 1911 với nhiệm vụ
chuyên điều trị các bệnh truyền nhiễm. Qua hơn một thế kỷ xây dựng và
trưởng thành, đội ngũ y bác sĩ của bệnh viện luôn giữ vững và phát huy được
truyền thống tốt đẹp, hết lòng phục vụ người bệnh, phục vụ nhân dân. Ngày
nay, bệnh viện Bạch Mai trở thành bệnh viện đa khoa có chất lượng hàng đầu
và là địa chỉ tin cậy của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Hàng năm, số
lượng bệnh nhân đến khám và điều trị nội trú trên 130.000, ngoại trú 1,5 triệu
người. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn liền với phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ chuyên sâu được Ban giám đốc coi là yếu tố quyết




2
định đến sự phát triển bệnh viện trong giai đoạn hiện nay. Bệnh viện đã xây
dựng kế hoạch phát triển đồng bộ các chuyên khoa. Trong đó, khoa Tiêu hóa
là một trong những khoa đi đầu trong hoạt động chuyên môn về khám và chữa
bệnh. Với lực lượng y, bác sỹ có chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao, từng
bước đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Năm 2001, là khoa
điểm đầu tiên thực hiện công tác chăm sóc toàn diện tại bệnh viện. Hàng năm,
khoa tiến hành khám và điều trị cho trên 9000 bệnh nhân ngoại trú, trên 3000
bệnh nhân nội trú. Hiện nay, khoa Tiêu hoá là một trong những khoa luôn đi
đầu trên nhiều lĩnh vực, được đánh giá cao về chất lượng khám, chữa bệnh.
Một trong những nhân tố hàng đầu tạo nên thàch tích của khoa chính là chất
lượng y bác sĩ của khoa luôn được đảm bảo và không ngừng nâng cao.
Tuy nhiên gắn với tình hình hiện nay, trong điều kiện chất lượng nguồn
thực phẩm chưa được đảm bảo, ô nhiễm môi trường gia tăng, sức ép trong
công việc và cuộc sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng lớn… đã dẫn đến
hệ luỵ là diễn biến bệnh tật liên quan đến tiêu hoá của nhân dân ngày càng
phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, công nghệ khám
chữa bệnh của thế giới ngày càng thay đổi hướng tới những giá trị tích cực…
Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cả hai phương diện: y đức và
chuyên môn, đặc biệt là năng lực của y bác sĩ khoa Tiêu hoá trong cập nhật
công nghệ khám chữa bệnh mới đang là yêu cầu cấp bách đặt ra.
Là cán bộ lãnh đạo, quản lý của khoa Tiêu hóa - bệnh viện Bạch Mai,
được trang bị những kiến thức về lý luận chính trị, với mong muốn góp phần
vào sự phát triển của khoa, của bệnh viên, được sự đồng ý của Học viện Chính
trị khu vực I và cơ quan công tác, tôi mạnh dạn tiến hành xây dựng đề án với
nội dung “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa Tiêu hóa - Bệnh viện
Bạch Mai giai đoạn 2016-2020” làm đề án tốt nghiệp chương trình Cao cấp
Lý luận Chính trị.

2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại khoa Tiêu hóa - Bệnh viện
Bạch Mai sẽ góp phần khắc phục về cơ bản tình trạng quá tải bệnh nhân điều


3
trị tại khoa và bệnh viện; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, y đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế
làm việc tại khoa.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Trong giai đoạn 2016-2020: để đáp ứng yêu cầu mới của chuyên môn,
khoa tiến hành tuyển chọn 12-15 bác sỹ tốt nghiệp nội trú; 18-20 điều dưỡng
(trong đó ưu tiên đối tượng là cử nhân điều dưỡng).
- Công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện theo hướng
đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn trong chuẩn hóa các quy trình chẩn
đoán và điều trị theo quốc tế hóa. Xây dựng kế hoạch cử đội ngũ y bác sỹ đi
đào tạo ngắn hạn tại các nước đã phát triển như: Nhật bản, Hoa Kỳ…
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, thực hiện công tác
quy hoạch nhân sự theo từng đơn vị chuyên ngành, chuyên sâu. Cụ thể là hình
thành các nhóm nhân lực phù hợp cho các đơn vị sau:
+ Đơn vị tiêu hóa trên: gồm thực quản dạ dày.
+ Đơn vị tiêu hóa đưới: đại tràng và ruột non.
+ Đơn vị gan.
+ Đơn vị mật tụy.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ y bác sỹ để phục vụ tốt công tác quản lý
bệnh lý mãn tính ngoại trú.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn nhân lực tại khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: tại khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai
- Về thời gian: giai đoạn 2016-2020.


4

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
- “Nhân lực”: là nguồn lực của mỗi người bao gồm cả trí lực, thể lực và
nhân cách; nó phản ánh khả năng lao động của con người và là điều kiện tiên
quyết của mọi quá trình lao động sản xuất của xã hội; tức là tất cả các thành
viên trong tổ chức hay xã hội sử dụng kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử và
giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển xã hội.
- “Nguồn nhân lực”: là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của
dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và
tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Nguồn nhân lực
của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động và có khả
năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho
sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn
nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong
độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là
toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu
tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Nguồn
nhân lực tương tác với các nguồn lực khác. Nguồn nhân lực được thể hiện qua

các tiêu chí: số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực.
- “Nguồn nhân lực ngành y tế”: bao gồm lao động tham gia trực tiếp
vào các hoạt động y tế ở các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp
y tế và có thu nhập chính từ hoạt động đó. Nhân lực ngành y tế phải có những
năng lực phù hợp với những yêu cầu của ngành y tế bao gồm: năng lực cơ
bản, năng lực chuyên sâu về ngành y tế.


5
- “Chất lượng nguồn nhân lực”: là trạng thái nhất định của nguồn nhân
lực, là tố chất, bản chất bên trong của nguồn nhân lực, nó luôn có sự vận động
và phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như mức sống, dân trí của
dân cư. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở các mặt sau: sức khỏe, trình độ
văn hóa, trình độ chuyên môn - kỹ thuật, phẩm chất đạo đức, tác phong…
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”: chính là sự tăng cường sức
mạnh và kỹ năng hoạt động sáng tạo về năng lực thể chất và năng lực tinh
thần của lực lượng lao động lên đến một trình độ nhất định để lực lượng này
có thể hoàn thành được nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong một giai
đoạn phát triển của một quốc gia, một tổ chức. Đó là quá trình tạo ra tiềm
năng của con người thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và đào tạo lại
nhằm khai thác tối đa tiềm năng đó trong các hoạt động lao động thông qua
việc tuyển dụng, sử dụng, tạo điều kiện môi trường làm việc để họ mang hết
sức mình hoàn thành các chức trách, nhiệm vụ được giao. Đây là con đường
giúp tổ chức nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc; làm tăng
sự ổn định và năng động trong tổ chức. Giúp lãnh đạo có cái nhìn mới về đội
ngũ nguồn nhân lực có năng lực. Giúp người lao động tự tin, tạo cho họ cảm
giác yên tâm làm việc, gắn bó với tổ chức.
1.1.2. Về vai trò của nguồn nhân lực và đặc thù của đội ngũ cán bộ
ngành y tế
* Vai trò của nguồn nhân lực:

Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là tổng hòa
của các yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động. Ngày nay, khi
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra rất nhanh chóng và toàn
diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vai trò quan trọng của nguồn
nhân lực càng được khẳng định rõ ràng, nó trở thành nguồn lực giữ vai trò
quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cuộc cách mạng khoa học,
công nghệ vừa tạo ra cơ hội lớn, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ đối
với mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển. Để vượt qua thách
thức, khó khăn, tận dụng cơ hội, vươn lên, theo kịp sự phát triển của thời đại,
các quốc gia cần có chiến lược phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu
cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, hội nhập và toàn cầu


6
hóa hiện nay. Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội có thể khái quát thành những điểm cơ bản sau:
+ Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
+ Nguồn nhân lực quyết định việc phát huy các nguồn lực khác.
+ Nguồn nhân lực - yếu tố quyết định giá trị gia tăng trong quá trình sản
xuất - kinh doanh.
+ Con người - chủ thể và khách thể trong chuỗi quản trị phát triển
nguồn nhân lực.
* Một số điểm đặc thù của đội ngũ cán bộ ngành y tế
- Về nhiệm vụ: cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên ngành y tế có
nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người - vốn quý nhất
của mỗi người và toàn xã hội. Trước sức khỏe và tính mạng của con người, lao
động ngành y tế đòi hỏi phải có trách nhiệm cao, chuyên môn giỏi, cường độ
lao động lớn.
- Đối tượng phục vụ: cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên ngành y
tế là những người đau ốm, bệnh tật, do vậy, thường xuyên có tâm trạng không

thoải mái. Bên cạnh đó, công chức, viên chức, nhân viên ngành y tế còn phải
chịu gánh nặng tâm lý rất lớn, nhất là trước đau thương mất mát của người
bệnh và gia đình bệnh nhân.
- Môi trường làm việc: cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên ngành y
tế luôn phải làm việc trong điều kiện độc hại, lây nhiễm, dịch bệnh, thường
xuyên phải tiếp xúc với các chất thải, hóa chất độc hại, tia phóng xạ… Trong
môi trường làm việc đó, họ rất dễ bị lây nhiễm bệnh.
- Thời gian làm việc: ngoài 8 giờ làm việc theo quy định của Luật Lao
động thì cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên ngành y tế còn phải trực
đêm, trực ngoài giờ, trực ngày lễ, ngày tết, ngày chủ nhật, nhằm bảo đảm
24/24 giờ trong ngày luôn có người làm việc ở các cơ sở y tế để kịp thời cấp
cứu, chữa trị cho bệnh nhân.
1.4.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực y tế
Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực y tế được căn cứ vào
những yêu tố sau:
- Tình trạng sức khỏe là tiêu chí tổng hợp chỉ trạng thái thoải mái về thể
chất và tinh thần của con người. Đối với cán bộ, nhân viên ngành y tế, do đặc


7
thù công việc họ phải làm việc với khối lượng lớn, cường độ cao và phải trực
đêm, do vậy phải bảo đảm sức khỏe tốt. Sức khỏe có tác động rất lớn đến năng
suất và chất lượng hoàn thành công việc của họ.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ y tế thể hiện quá
trình được đào tạo bởi hệ thống giáo dục ở trong và ngoài nước. Đó là sự hiểu
biết và khả năng thực hành về chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo.
+ Tiêu chí đánh giá về trình độ chuyên môn như: tỷ lệ cán bộ được đào
tạo ở bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; tỷ lệ cán bộ được đào
tạo trên đại học.
+ Về tiêu chí đánh giá trình độ nghiệp vụ của nguồn nhân lực y tế là

hiệu quả làm việc của họ, bao gồm: khả năng sử dụng thành thạo các kỹ năng
nghề về thăm khám sức khỏe, thực hành các kỹ thuật chuyên sâu, sử dụng kỹ
thuật máy móc y tế hiện đại…
- Về đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của đội ngũ y, bác sĩ đối với
công tác khám, chữa bệnh: đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế phải thực hiện đúng
12 Điều Y đức và Quy tắc ứng xử trong bệnh viện.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong ngành y tế
* Các nhân tố bên ngoài:
- Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên: những vùng có điều kiện thuận lợi
như khí hậu ôn hòa, đất đai phì nhiêu, địa hình bằng phẳng thì dân cư tập
trung đông đúc, đòi hỏi nhân lực y tế ở đây nhiều hơn những nơi khác. Đồng
thời, khí hậu, thời tiết ảnh hưởng đến tình hình bệnh tật của địa phương tạo
nên sự phân bố nguồn nhân lực y tế đặc trưng cho mỗi vùng.
- Nhân tố kinh tế - xã hội: sự phát triển kinh tế - xã hội tác động đến
phát triển nguồn nhân lực và chính chất lượng nguồn nhân lực tác động đến sự
phát triển hay không phát triển của nền kinh tế - xã hội. Đây là hai vấn đế có
quan hệ biện chứng với nhau. Nền kinh tế - xã hội phát triển càng cao thì yêu
cầu phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày càng lớn. Đặc biệt
nhu cầu nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, trong đó có chất lượng các
dịch vụ y tế ngày càng gia tăng.
* Các nhân tố thuộc ngành y tế:


8
- Sự phát triển của ngành y tế: hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, con người đang sống trong một cuộc sống nhiều áp lực từ công việc. Tuy
nhiên, cuộc sống của con người được hỗ trợ rất nhiều từ những thành tựu tiến
bộ của khoa học - kỹ thuật. Do vậy, sự phát triển các cơ sở y tế đòi hỏi phải
phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng.

- Môi trường làm việc của nhân viên y tế: nhân lực y tế cần có môi
trường làm việc và thiết bị hỗ trợ để phát huy năng lực khám, chữa bệnh.
Ngoài ra, y tế là một nghề đặc biệt phải làm việc 24/24 giờ với một e kíp hoàn
chỉnh, vì vậy cần một số lượng nguồn nhân lực nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu
công việc.
- Sự phát triển của các cơ sở đào tạo nhân lực y tế: cơ sở đào tạo nhân
lực y tế quyết định nguồn cung và chất lượng nguồn nhân lực y tế. Đội ngũ
cán bộ giảng dạy vừa là nhân lực y tế vừa quyết định chất lượng kiến thức và
kỹ năng của nguồn nhân lực y tế.
* Nhân tố thuộc về người lao động:
- Người lao động luôn quan tâm đến cơ hội mới về nghề nghiệp của họ,
điều này sẽ ảnh hưởng đến việc cân nhắc trong việc đào tạo và phát triển
người lao động trong tổ chức tránh trường hợp đào tạo xong người lao động
chuyển sang đơn vị mới.
- Một chế độ tiền lương hợp lý, nơi làm việc ổn định và được đề bạt, bổ
nhiệm vào vị trí nào đó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển nguồn nhân lực có hiệu
quả hơn. Động cơ thúc đẩy người lao động tham gia đào tạo tùy thuộc vào kỳ
vọng về lương và lợi ích mà họ nhận được sau đào tạo. Việc cân nhắc này sẽ
có tác động mạnh mẽ đến công tác phát triển nguồn nhân lực.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Xuất phát từ quan điểm con người là vốn quý nhất trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh sức khỏe
là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội. Nhấn mạnh quan điểm này
là để các cấp lãnh đạo của Đảng và chính quyền luôn coi trọng chăm sóc sức
khỏe trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả đất nước và của
mỗi địa phương.


9
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta đã

khẳng định: “con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển, là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi” [1, tr.89]. Đại hội đề ra nhiều chủ trương
mới liên quan trực tiếp tới các bước đổi mới trong quản trị nguồn nhân lực. Từ
đó những tư duy đổi mới mạnh mẽ về giáo dục, khoa học, công nghệ và nâng
cao chất lượng ngành y tế đã đi vào cuộc sống một cách sâu rộng. Đảm bảo
cho người dân trên các địa bàn được chăm sóc sức khỏe cơ bản với mức chi
phí thấp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm góp
phần thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn
hóa, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân đối với xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Trên cơ sở những chủ trương của Đảng tại Đại hội VIII, ngày 20-61996, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 37 Về định hướng chiến lược công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời gian 1996-2000 và chính sách
quốc gia của Việt Nam. Nghị quyết đã đề ra các mục tiêu phát triển sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong đó, mục tiêu thứ hai: về đào tạo,
bố trí nhân lực và phát triển khoa học công nghệ chỉ rõ:
- Cải tiến chương trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu về y tế cộng
đồng, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý ngành, cán bộ kỹ thuật có khả năng sử
dụng và sửa chữa các trang thiết bị y tế hiện đại.
- Có cơ cấu hợp lý về số lượng y, bác sỹ, dược sỹ ở các cơ sở y tế bảo
đảm hiệu quả phục vụ bệnh nhân. Tăng cường đào tạo theo địa chỉ và có chính
sách khuyến khích để có nhiều cán bộ y tế về công tác tại các vùng cao, vùng
sâu, vùng có nhiều khó khăn. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhưng phải
đảm bảo chất lượng.
- Quy hoạch mạng lưới đào tạo cán bộ y tế, có kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo
mới, đào tạo lại hàng năm. Xây dựng và ban hành các chính sách cụ thể nhằm
đảm bảo đời sống cho cán bộ y tế, nhất là cho cán bộ đi công tác tại vùng có
nhiều khó khăn.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ: nghiên cứu
bệnh học đặc thù của Việt Nam và kế thừa, nâng cao y học cổ truyền đồng thời



10
nghiên cứu ứng dụng các thành tự khoa học về y và dược học trên thế giới vào
lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ.
Tiếp đó, ngày 22-1-2002, Ban Bí thư Trung ương (Khóa IX) ra Chỉ thị
số 06-CT/TW Về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở nhằm nâng cao
chất lượng công tác khám, chữa bệnh của nhân dân ở các cấp địa phương.
Chỉ thị chỉ rõ: cần tăng cường cán bộ và trang bị kỹ thuật cho mạng lưới y tế
cơ sở: mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán
bộ y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc tại chỗ. Bảo đảm đủ chức
danh cán bộ cho trạm y tế, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ y dược học cổ truyền. Phấn đấu đến năm 2010, 80% trạm y tế xã có bác sĩ,
100% thôn, bản có nhân viên y tế với trình độ sơ học trở lên. Có chính sách
đãi ngộ thích hợp để khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại trạm y tế xã,
phường, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; tăng cường trang thiết bị y
tế thích hợp cho y tế cơ sở.
Ngày 23-2-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW
Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình
mới. Nghị quyết đã nêu rõ giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành y
tế: “kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Sắp
xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về
cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung
tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tăng
cường đào tạo cán bộ y tế theo hình thức cử tuyển cho miền núi và đồng bằng
sông Cửu Long; chú trọng đào tạo cán bộ quản lý y tế, nhất là cán bộ quản lý
bệnh viện. Coi trọng việc đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài về y tế. Mở
rộng việc đưa cán bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh
phí nhà nước, khuyến khích du học tự túc theo các chuyên ngành đang có nhu
cầu.” [2, tr.9]. Ngoài ra, Nghị quyết còn chỉ ra những giải pháp cụ thể cho việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành y tế cho từng vùng, đặc biệt là
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý y tế, nhất

là cán bộ quản lý bệnh viện; coi trọng việc đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân
tài trong ngành; mở rộng việc đưa cán bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước


11
ngoài; xây dựng và thực hiện chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, nhân
viên y tế... được xác định là những giải pháp cấp bách trong nâng cao chất
lượng nguồn lực của y tế Việt Nam giai đoạn mới.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ y tế đã ban
hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phát triển
nguồn nhân lực y tế:
- Thông tư 23/2005/TT-BYT ngày 25-8-2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế
hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế.
- Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30-6-2006 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống Y tế Việt Nam
giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Thông tư liên tịch Số: 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05-6-2007 về
hướng dẫn định mức biên chế nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà nước.
- Quyết định số 30/2008/QĐTTg ngày 22-02-2008 của Thủ tướng
Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26-5-2008 của Bộ trưởng Bộ y tế
về việc phê duyệt Đề án cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến
trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), xuất phát
từ thực trạng nguồn nhân lực của đất nước, gắn với yêu cầu mới, mục tiêu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020.
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã nhận định: “phát triển và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và
trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề” [4, tr 130]. Trong đó, đối với


12
việc phát triển nguồn nhân lực y tế, Đại hội XI cũng chỉ rõ: “tăng cường đào
tạo và nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm của đội
ngũ cán bộ y tế. Phấn đấu đến năm 2020 tất cả các xã, phường có bác sĩ” [4,
tr.129].
Ngày 17-7-2015, Bộ Y tế đã ra Quyết định số 2992/QĐ-BYT Về phê
duyệt kế hoạch phát triển nhân lực trong hệ thống khám bệnh, chữa bệnh giai
đoạn 2015-2020. Quyết định đã khẳng định quan điểm phát triển nguồn nhân
lực như sau:
Một là, phát triển nhân lực khám bệnh, chữa bệnh theo tinh thần Nghị
Quyết 46-NQ/TW của Bộ chính trị về Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới với quan điểm: “Nghề y là một nghề
đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt” và theo
quan điểm chung phát triển nhân lực y tế Việt Nam trong Quyết định 816/QĐBYT của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai
đoạn 2012-2020;
Hai là, phát triển nhân lực khám, chữa bệnh dựa trên cơ sở thực tiễn, kế
thừa và phát huy những thành tựu, kinh nghiệm, khắc phục những bất cập và
yếu kém để đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhân lực cho việc phát triển hệ thống
khám, chữa bệnh, từng bước đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng
tăng của nhân dân;
Ba là, phát triển nhân lực khám bệnh, chữa bệnh trên cơ sở sự cần thiết,
tính cấp bách, tính khả thi và sự phù hợp giữa các vùng kinh tế - xã hội ở Việt

Nam. Điều chỉnh dần những mất cân đối trong phân bố nhân lực giữa các
vùng kinh tế, các khu vực thành thị và nông thôn, các chuyên ngành, ưu tiên
tăng cường nhân lực khám, chữa bệnh cho tuyến huyện, xã, khu vực nông
thôn, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn về kinh tế - xã hội, góp phần bảo
đảm ngày càng công bằng hơn trong cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh
cho nhân dân;
Bốn là, giáo dục y đức luôn được chú trọng và thực hiện song song với
đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời với phát triển năng lực nghiên cứu


13
khoa học y học, rút ngắn khoảng cách trình độ công nghệ trong lĩnh vực khám,
chữa bệnh với các nước phát triển trong khu vực và thế giới;
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực về tài chính và
tiếp thu công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam trong phát triển
và phân bổ nguồn nhân lực khám, chữa bệnh.
Về mục tiêu tổng quát, Quyết định 2992/QĐ-BYT chỉ rõ: phát triển đội
ngũ nhân lực khám, chữa bệnh đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về
cơ cấu, theo hướng tối ưu về phân bố giữa các khu vực và phân bố giữa các
chuyên ngành, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là chăm sóc sớm,
dựa vào cộng đồng, song song với phát triển kỹ thuật để góp phần nâng cao
chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, thực hiện mục tiêu công bằng, hiệu quả
và phát triển.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) tiếp tục đề cao
vai trò phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong đó, chú trọng công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tê. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Ngân
sách Nhà nước cho ngành y tế phải được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập
trung cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo
nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, nhân lực, bảo đảm cơ hội

tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người dân. Có lộ trình khắc phục
tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và
các thành phố lớn. Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển
và đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế” [5, tr.139].
Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cùng sự chỉ đạo của
Bộ Y tế nêu trên là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để tác giả triển
khai thực hiện đề án này.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh hạng đặc biệt,
tuyến cao nhất trong hệ thống khám chữa bệnh, có bề dày hoạt động hơn 100
năm, với nhiều chuyên khoa đầu ngành cùng đội ngũ cán bộ có trình độ
chuyên môn cao. Bệnh viện Bạch Mai là cơ sở thực hành chính của Trường


14
Đại học Y Hà Nội trong việc đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa
1, bác sĩ chuyên khoa 2, thạc sĩ, tiến sĩ và các chuyên khoa sâu. Bệnh viện đã
khẳng định được vai trò và vị thế trong hoạt động chuyên môn. Đặc biệt công
tác đào tạo nguồn nhân lực và chỉ đạo tuyến, là địa chỉ tin cậy để các cơ sở y
tế cùng các đồng nghiệp trong cả nước tín nhiệm lựa chọn. Đây là những cơ sở
thực tiễn chi phối, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và thực hiện đề
án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai
trong giai đoạn 2016-2020. Cụ thể các yếu tố thực tiễn có ảnh hưởng gồm:
* Thứ nhất, bệnh viện và khoa có sự liên kết chặt chẽ với các đơn vị
thuộc ngành:
Bệnh viên Bạch Mai và Trường Đại học Y Hà Nội là hai đơn vị kết
nghĩa trong công tác đào tạo và thực hành chuyên môn cho cán bộ có trình độ
chuyên môn là các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ, cán bộ chuyên môn
của Đại học Y Hà Nội. Đây là lợi thế của Bệnh viện trong tăng cường nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh hiện nay. Khoa Tiêu hóa - Bệnh

viện Bạch Mai là tuyến đầu ngành Tiêu hóa gan mật trong cả nước. Đây là cơ
sở quan trọng, đòi hỏi yêu cầu cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực tại khoa trong giai đoạn tới.
* Thứ hai, bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện được xếp hạng đặc biệt,
tuyến cuối của bệnh viện đa khoa, đã và đang đặt ra yêu cầu lớn đối với công
tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trước yêu cầu mới, việc tăng cường xây dựng nguồn nhân lực cho bệnh
viện và các khoa chuyên môn nhằm:
- Bảm đảm chất lượng các dịch vụ khám và chữa bệnh để giải quyết
thành công các nhiệm vụ chuyên môn phức tạp, đòi hỏi trình độ cao.
- Sẵn sàng chi viện nhân lực cho việc khám và chữa bệnh cho các đơn
bệnh viện đa khoa tuyến dưới theo sự điều động của Bộ Y tế. Mặt khác, bệnh
viện còn phải hỗ trợ đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ chuyên
môn các bệnh viện tuyến dưới. Bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện đầu tiên triển
khai đào tạo chính quy sau đại học hệ thực hành.


15
- Phải là đầu mối tổ chức nghiên cứu các đề tài tầm cỡ quốc tế nhằm
giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm trong ngành đặt ra về trước mắt cũng
như lâu dài.
- Là đầu mối hợp tác quốc tế quan trọng trong ngành hợp tác nghiên
cứu, truyền bá kinh nghiệm quốc tế, trao đổi trong đào tạo. Các yêu cầu đó đòi
hỏi công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được tiến hành thường
xuyên, có kế hoạch.
* Thứ ba, cơ sở vật chất và điều kiện thực hiện nhiệm vụ đào tạo phát
triển đội ngũ cán bộ chuyên môn của bệnh viện:
Bệnh viện Bạch Mai nói chung và khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai
nói riêng có đội ngũ cán bộ chuyên môn đầu ngành, lại thu hút được cán bộ có
trình độ chuyên môn cao của của các trường đại học ở Hà Nội. Đây là yếu tố

thuận lợi trong công tác đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên môn. Mặt
khác, là bệnh viện với cơ sở vật chất khá hoàn chỉnh, đây cũng là điều kiện
thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên
môn của khoa và bệnh viện.
Ngoài các chương trình đào tạo liên tục, chuyển giao kỹ thuật cho các
bệnh viện tuyến dưới, bệnh viện Bạch Mai còn là cơ sở thực hành, phối hợp
với các trường Đại học, Trung học y - dược triển khai và quản lý các chương
trình đào tạo chính quy với các trình độ và đối tượng khác nhau. Cùng với
chiều dầy lịch sử, hoạt động đào tạo của bệnh viện Bạch Mai ngày càng phát
triển cả về quy mô tổ chức và chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu thực tế, góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng và năng lực đội ngũ cán bộ y tế cho bệnh
viện và các tuyến y tế cơ sở.
Ngày 22-1-2010, Bộ trưởng Bộ Y tế đã phê duyệt Quyết định số 209QĐ/-BYT về cấp phép và cho thành lập Trung tâm Đào tạo phát triển nguồn
nhân lực cao cấp cho các Bác sỹ chuyên khoa I, bác sỹ chuyên khoa II, bác sỹ
nội trú từ năm 2010. Với Quyết định này, uy tín và vị thế của Bệnh viện Bạch
Mai nói chung và khoa Tiêu hóa nói riêng càng được nâng cao. Đây là cơ sở
quan trọng để ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực ở khoa
Tiêu hóa .


16
Cũng trong năm 2010, Bệnh viện Bạch Mai còn được Bộ Y tế chính
thức phê duyệt là một trong 8 bệnh viện trong cả nước thực hiện Đề án xây
dựng bệnh viện vệ tinh. Mục tiêu của đề án nhằm nâng cao năng lực chuyên
môn và quản lý cho cán bộ y tế, mở rộng, phát triển, tăng cường chất lượng
dịch vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến tỉnh một cách bền vững, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu phục vụ người bệnh ngay tại cơ sở, rút ngắn
khoảng cách về chất lượng dịch vụ y tế giữa Trung ương và địa phương,.
Bệnh viện Bạch Mai đã đề ra Chiến lược phát triển từ nay đến năm
2030 được ghi rõ như sau: kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, bổ sung, thu hút

nguồn nhân lực chất lượng cao tương ứng với quy mô phát triển của bệnh
viện. Đẩy mạnh công tác đào tạo trong và ngoài nước, nâng cao trình độ cán
bộ về mọi mặt; đặc biệt chú trọng theo kịp kỹ thuật mũi nhọn chuyên sâu. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có tính chuyên nghiệp cao và chú trọng phát
triển văn hóa tổ chức. Nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, đáp ứng
yêu cầu ngày càng đa dạng của người dân theo phương châm: An toàn - Hiệu
quả - Cải tiến liên tục - Phát triển bền vững. Coi chất lượng là thương hiệu của
bệnh viên. Xây dựng kế hoạch phát triển các chuyên khoa, tập trung mũi nhọn
kỹ thuật chuyên ngành theo từng giai đoạn, ưu tiên những kỹ thuật công nghệ
đem lại hiệu quả điều trị cao. Tăng cường nghiên cứu khoa học, ưu tiên những
đề tài ứng dụng các kỹ thuật hiện đại vào hoạt động khám, chữa bệnh và
những đề tài hợp tác quốc tế có tiềm năng ứng dụng tại Việt Nam…
Trong giai đoạn 2016-2020, Bệnh viện phải phát triển ở một tầm cao
mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Về
mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2016-2020, bệnh viện Bạch Mai đã xác
định như sau: phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, huy động
mọi nguồn lực để xây dựng bệnh viện phát triển bền vững trở thành một trong
những Trung tâm Y tế chuyên sâu của cả nước, với quy mô 3.500 giường bệnh
cùng cơ sở hạ tầng được mở rộng, chỉnh trang, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ,
đội ngũ cán bộ có chất lượng và chuyên môn sâu, có đủ khả năng hoàn thành
xuất sắc các nhiệm vụ được giao trong giai đoạn mới. Đời sống của cán bộ,
công chức trong bệnh viện ngày càng được nâng cao.


17
Về quan điểm chỉ đạo các khâu đột phá, bệnh viện Bạch Mai cũng chỉ
rõ: trong giai đoạn 2016-2020, bệnh viện tiến hành lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
đồng bộ, toàn diện các mặt công tác. Tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm,
lĩnh vực, địa bàn, đơn vị trọng điểm. Thực hiện 7 khâu đột phá, trong đó khâu
đột phá thứ 6 là: “Tăng cường công tác cán bộ, quy hoạch cán bộ lãnh đạo

Đảng và lãnh đạo chính quyền. Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
bệnh viện đồng bộ, chất lượng cao, chuyên sâu, đủ về số lượng, đảm bảo chất
lượng hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của bệnh viện”.
Với những căn cứ thực tiễn quan trọng về Chiến lược phát triển bệnh
viện Bạch Mai từ nay đến năm 2030 là những cơ sở thực tiễn quan trọng,
quyết định đến phương hướng, giải pháp trong xây dựng và thực hiện đề án
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai
giai đoạn 2016-2020.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Trong những năm qua, dù đạt được nhiều thành tựu y học ngang tầm thế
giới, nhưng chất lượng nguồn nhân lực y tế nước ta vẫn còn nhiều bất cập.
Theo thống kê của Bộ Y tế, hiện nước ta mới đạt tỉ lệ 7,61 bác sĩ và 2,2 dược
sĩ/1 vạn dân, con số này còn thấp so với các nước trên thế giới. Bên cạnh đó là
sự chênh lệch về số lượng, chất lượng và sự phân bố cán bộ y tế giữa các
vùng, miền thiếu đồng đều đến nay vẫn là một bài toán khó giải. Những cán
bộ có trình độ chuyên môn cao thường tập trung tại các đô thị lớn, trong khi tỉ
lệ cán bộ y tế ở tuyến xã và huyện vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ. Thậm chí, tình trạng mất cân đối về nhân lực y tế còn
xảy ra giữa các chuyên ngành. Một số chuyên ngành như truyền nhiễm, tâm
thần, xét nghiệm, y tế dự phòng thiếu bác sĩ cả ở các đơn vị Trung ương và địa
phương. Sự chênh lệch về chất lượng các dịch vụ y tế giữa các vùng miền
đang là vấn đề lớn cần quan tâm khi dịch vụ y tế ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, biển, đảo còn ở mức độ thấp so với vùng đồng bằng, thành thị.
Điều đó dẫn tới các chỉ số về sức khỏe của người dân có sự chênh lệch lớn
giữa các vùng miền.
Đặc biệt, chất lượng nguồn nhân lực y tế còn nhiều bất cập bởi việc đào
tạo của nhiều trường còn chạy theo số lượng, đào tạo chưa dựa trên chuẩn kỹ



18
năng và yêu cầu nghề nghiệp đầu ra. Hiện nay, ngay cả bằng tốt nghiệp Đại
học y, dược của nước ta cũng chưa được thế giới công nhận. Do đó, các thầy
thuốc Việt Nam khi ra nước ngoài làm việc hay học tập nâng cao trình độ
chuyên môn đều phải đào tạo lại từ đầu. Điều đó cho thấy chất lượng đào tạo
của nước ta chưa cao, ảnh hưởng tới chất lượng khám, chữa bệnh, đồng thời
gây tốn kém về thời gian và kinh phí. Trên thực tế, sau 6 năm đào tạo, đa số
sinh viên trường y chưa đủ năng lực để hành nghề độc lập bởi việc dạy và học
hiện nay chưa sát với thực tiễn, khối lượng kiến thức lý thuyết quá nhiều và
dàn trải.
Thực tế cho thấy nhân lực y tế, đặc biệt là những cán bộ y tế có trình độ
cao có xu hướng tập trung về tuyến trên, về những nơi có điều kiện kinh tế- xã
hội tốt hơn; những lĩnh vực chuyên môn có sức hấp dẫn. Trong khi tại những
nơi thiếu hụt nguồn nhân lực lại bị bỏ lại tuyến dưới, vùng khó khăn và các
lĩnh vực chuyên môn kém thu hút.
Trong những năm qua, bệnh viện Bạch Mai nói chung, khoa Tiêu hóa
nói riêng luôn nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế
giao cho. Những thành công đạt được trong những năm qua, đặc biệt 5 năm
(2011-2015) đã khẳng định vị thế của khoa và bệnh viện trong hệ thống các
bệnh viện cả nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh chung của tình hình quốc tế và
trong nước, khi nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân càng cao thì đòi hỏi
đội ngũ y, bác sỹ của bệnh viện phải tiếp tục được đào tạo nâng cao trình độ về
mọi mặt, đặc biệt là những ứng dụng về khoa học chuyên sâu từ nước ngoài,
nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, cung cấp và đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cho tuyến dưới.
2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của khoa Tiêu
hóa - Bệnh viện Bạch Mai trong giai đoạn 2011-2015
2.2.1. Khái quát về khoa Tiêu khóa - Bệnh viện Bạch Mai
* Về chức năng, nhiệm vụ: khoa Tiêu hóa bệnh viện Bạch Mai được
thành lập từ năm 1981 trên cơ sở tách từ phòng Tiêu hóa thuộc khoa Nội

chung bệnh viện Bạch Mai. Khoa có chức năng, nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khám, chữa bệnh chuyên khoa tiêu hóa bao gồm khám chữa bệnh nội
trú và ngoại trú: là tuyến đầu ngành tiêu hóa, gan, mật, tiếp nhận điều trị bệnh
nhân từ các tỉnh. Khoa có đội ngũ cán bộ chuyên môn với trình độ cao, luôn


19
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là tuyến cuối ngành tiêu hóa, gan, mật trong cả
nước.
- Giảng dạy sinh viên trường Đại học Y Hà Nội, trường Đại học Dược
Hà Nội, học sinh trường Trung học y tế Bạch Mai và đào tạo sau Đại học: Bác
sĩ chuyên khoa I, Bác sĩ chuyên khoa II, Thạc sĩ, Nội trú, Nghiên cứu sinh.
- Là cơ sở thực hành cho trường Đại học Y Hà Nội và trường Đại học
Dược Hà Nội, trường Cao đẳng y Bạch Mai, trung cấp y An Khánh.
- Chỉ đạo, xây dựng tuyến chuyên khoa tại các tỉnh: ban lãnh khoa luôn
xác định cần phải nâng cao năng lực chuyên môn cán bộ, nhân viên, mở rộng,
phát triển, tăng cường chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh chuyên khoa tiêu
hóa tại các bệnh viện tuyến tỉnh một cách bền vững, đáp ứng ngày một tốt hơn
nhu cầu phục vụ người bệnh ngay tại cơ sở, đồng thời rút ngắn khoảng cách về
chất lượng dịch vụ y tế giữa Trung ương và địa phương, góp phần giảm tải đối
với số lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh tại khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch
Mai và các bệnh viện chuyên khoa tuyến trên.
- Gửi các bác sỹ xuống giúp tuyến cơ sở theo chương trình 1816 và
bệnh viện vệ tinh.
- Hợp tác quốc tế trong khám, chữa bệnh, đào tạo cán bộ về chuyên
môn, nghiệp vụ, tiến hành nghiên cứu khoa học.
Với chức năng, nhiệm vụ quan trọng trên, cùng với sự phát triển có bề
dầy lịch sử hơn 100 năm của bệnh viên Bạch Mai, khoa Tiêu hóa đã góp phần
quan trọng tạo nên những thành công của bệnh viện trên các lĩnh vực chuyên
môn từ khâu khám, chữa bệnh cho nhân dân đến những nghiên cứu khoa học

có tầm nhìn chiến lược.
* Về cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực:
Tính đến đầu năm 2016, khoa có tổng số: 54 cán bộ, trong đó có 51 viên
chức bệnh viện và 5 cán bộ thuộc trường Đại học Y Hà Nội. Đội ngũ lãnh đạo
khoa gồm 5 đồng chí (01 trưởng khoa, 03 đồng chí phó khoa, 01 điều dưỡng
trưởng khoa).
Khoa Tiêu hóa hiện có 74 giường bệnh nội trú, có 4 phòng khám bệnh
ngoại trú, 3 phòng siêu âm chuyên khoa, 2 phòng nội soi bệnh nhân ngoại trú


20
và 1Trung tâm Nội soi Tiêu hóa Việt Nam - Nhật Bản, 1 phòng nội soi cho
bệnh nhân nội trú và 1 phòng siêu âm can thiệp.
Trong số 54 cán bộ của khoa có 01 Giáo sư, 01 Phó giáo sư, 02 tiến sỹ,
04 tiến sỹ đang đào tạo, 14 thạc sỹ và bác sỹ tốt nghiệp nội trú, 05 Cử nhân
điều dưỡng, 25 Điều dưỡng trung học, 02 Hộ lý. So với giai đoạn trước, trong
5 năm (2011-2015) cơ cấu nguồn nhân lực tại khoa có nhiều thay đổi. Số cán
bộ y, bác sĩ có trình độ chuyên môn cao ngày càng tăng (trong đó, 22 cán bộ
có trình độ từ Đại học trở lên (chiếm 50%), tỷ lệ y, bác sĩ có trình độ trên đại
học là 13 người (chiếm 26%), trong đó có 01 Giáo sư, 02 Phó Giáo sư, 02
Tiến sĩ. Với lực lượng y, bác sĩ có trình độ chuyên môn khá cao, khoa luôn
đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân,
đồng thời phát triển nguồn nhân lực cho chiến lược phát triển của Bệnh viện
với phương châm An toàn - Hiệu quả - Cải tiến liên tục - Phát triển bền vững.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh hiện nay, khi bệnh viện luôn
trong tình trạng quá tải bệnh nhân từ các tuyến dưới thì tỷ lệ y, bác sĩ có trình
độ chuyên môn cao cần tiếp tục được bổ sung, tăng cường.
2.2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa Tiêu hóa
(2011-2015)
2.2.2.1. Về đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của đội ngũ y bác sĩ đối

với công tác khám, chữa bệnh
Trong 5 năm 2011-2015, lãnh đạo bệnh viện, Ban lãnh đạo và chi bộ
khoa Tiêu hóa luôn quan tâm đến việc tổ chức tuyên truyền các chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác y tế và
nội quy, quy định của bệnh viện đến từng cán bộ, nhân viên ở khoa. Đặc biệt
khoa luôn chú trọng giáo dục nâng cao y đức, tinh thần trách nhiệm của đội
ngũ với công tác khám, chữa bệnh. Tất cả đều nhằm phục vụ người bệnh đã
trở thành phương châm hành động của y bác sĩ trong khoa. Ban lãnh đạo khoa
luôn tạo điều kiện tổ chức những lớp bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao nhận
thức phát triển nguồn nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ, y đức, giao tiếp,
ứng xử đối với người bệnh và người nhà người bệnh. Thực hiện tốt 12 điều y
đức, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Lương y như
từ mẫu”, nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức y tế trong công tác khám, chữa
bệnh.


21
Một trong những thành công của khoa trong công tác này là luôn động
viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ, nhân viên vượt qua khó khăn trong đời
sống cá nhân, đặc thù nghề nghiệp, sự quá tải về bệnh nhân, sự thiếu hụt về cơ
sở vật chất... để hoàn thành tốt nhiệm vụ, phục vụ nhân dân với tinh thần cao
nhất. Khoa luôn tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, nhân viên phấn đấu, trau
dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Khoa duy trì lịch
họp bệnh nhân và người nhà để phổ biến những quy định của bệnh viện và
khoa cũng như giải quyết, giải tỏa những thắc mắc của người bệnh.
Bên cạnh đó, khoa luôn có hệ thống đường dây nóng để kịp thời nhắc
nhở, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện sách nhiễu, gây khó khăn cho bệnh
nhân... Đây là những biện pháp hữu hiệu trong xây dựng đội ngũ, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của khoa trong giai đoạn 2011-2015. Do đó hầu hết
cán bộ, nhân viên khoa Tiêu hóa bệnh viện Bạch Mai luôn tận tâm, gắn bó với

nghề, hết lòng vì người bệnh, vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho bao bệnh nhân và
gia đình bệnh nhân.
Khoa là đơn vị chuyên môn hàng đầu của ngành tiêu hóa gan mật trong
cả nước, là nơi tiếp nhận điều trị bệnh nhân từ các tỉnh. Do vậy, đòi hỏi đội
ngũ y, bác sỹ phải có những trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ
năng nghề cao. Trong những năm gần đây, việc nâng cao kỹ năng cho người
lao động tại khoa được thực hiện khá toàn diện. Trong đó, khoa luôn chú ý
nâng cao các kỹ năng về giao tiếp (với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân), kỹ
năng sử dụng tin học, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ... Những kỹ năng này cần
được tăng cường, khuyến khích người lao động sử dụng trong công việc,
nhằm đáp ứng yêu cầu quá trình hội nhập nền y học thế giới hiện nay.
2.2.2.2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên tại khoa đảm bảo về chất lượng,
bệnh viện Bạch Mai nói chung và khoa Tiêu hóa nói riêng đã thực hiện nhiều
hình thức đào tạo theo địa chỉ, liên kết đào tạo, đặc biệt việc liên kết đào tạo
với Trường Đại học Y Hà Nội. Hàng năm, khoa luôn chủ động xây dựng kế
hoạch và quy hoạch chỉ tiêu nhân lực y tế cần đào tạo để tham mưu cho Ban
Giám đốc bệnh viện; tăng cường đào tạo quản lý Nhà nước, quản lý ngành cho


22
cán bộ y tế và đào tạo chuyên khoa cấp I, II và thạc sĩ cho các bác sĩ, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong toàn mạng lưới. Khuyến khích, động viên các
cán bộ, nhân viên nêu cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu để nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong 5 năm qua (2011-2015), cán bộ, nhân viên của khoa thường
xuyên tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của bệnh viện triển khai
như: đào tạo chuyên môn chương trình cơ bản, chương trình nâng cao, chương

trình chuyên sâu; đào tạo liên tục ngắn hạn, cập nhật; đào tạo từ xa (elearming); đào tạo thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và đào tạo một
số kỹ năng mềm khác (đào tạo giảng viên, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phương
pháp nghiên cứu khoa học, tin học, ngoại ngữ…). Khoa Tiêu hóa đã cử rất
nhiều cán bộ, viên chức tham gia các khóa đào tạo chính quy (nghiên cứu
sinh, cao học, chuyên khoa I, chuyên khoa II); các lớp ngắn hạn cập nhật kiến
thức chuyên môn, quản lý ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, hợp tác quốc tế
ngày càng được đẩy mạnh và phát triển, nhiều cán bộ của bệnh viên và của
khoa được tham gia các lớp đào tạo ở nước ngoài.
Về công tác chỉ đạo tuyến và đào tạo: hàng năm khoa Tiêu hóa phối hợp
với các khoa mở 2 lớp siêu âm tổng quát đào tạo cho khoảng 60 bác sỹ tuyến
cơ sở; đào tạo bác sỹ nội soi và nội soi nâng cao chuyên ngành Tiêu hóa giúp
bệnh viện tuyến dưới; 400-500 sinh viên y khoa, bác sỹ cao học, bác sỹ nội
trú, bác sỹ chuyên khoa I, bác sỹ chuyên khoa II, tiến sỹ thực tập và làm luận
văn tại khoa. Mỗi năm khoảng 100-120 sinh viên dược và dược sỹ sau đại học
thực tập tại khoa; có 300 học sinh hệ trung cấp và cử nhân điều dưỡng thực
tập. Hiện đã có 10 bác sỹ của khoa được gửi xuống làm việc và đào tạo tại cơ
sở theo chương trình 1816. Thông qua các chương trình đào tạo, giao lưu, trao
đổi về chuyên môn, chất lượng nguồn nhân lực của khoa được ngày càng nâng
lên.
2.2.2.3. Đẩy mạnh công công tác nghiên cứu khoa học và áp dụng kỹ
thuật mới trong khám và điều trị bệnh
Ban lãnh đạo khoa luôn coi trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong nâng chất lượng hoạt động chuyên


23
môn, triển khai hoạt động này, 100% các cán bộ, nhân viên trong khoa đều
tích cực tham gia nghiên cứu khoa học và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa
học nền nếp; chủ động xây dựng, triển khai kế hoạch nghiên cứu khoa học và
đào tạo phát triển nhân lực nhằm đáp ứng yêu nguồn nhân lực y tế chất lượng

cao và những nổi cộm trong lĩnh vực y tế. Trong giai đoạn 2011-2015, khoa đã
thực hiện tiến hành 39 đề tài cấp cơ sở, 04 đề tài cấp Bộ (trong đó 1 đề tài hợp
tác với Hoa Kỳ). Một số đề tài cấp Bộ tiêu biểu đã được ứng dụng. Cụ thể là:
Đề tài “Đánh giá kết quả điều trị ung thư gan bằng phương pháp đốt nhiệt
sóng cao tần” (Cấp Bộ - 2009); "Nghiên cứu toàn cầu về các quyết định điều
trị trong ung thư biểu mô tế bào gan có sử dụng Sorafenib (GIDEON)" (Cấp
bộ -2009); “Thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng giả dược về hiệu
lực và tính an toàn của DEB025/ Alisporivir khi dùng phối hợp với trị liệu
chuẩn ở bệnh nhân viêm gan C kiểu gen 1 chưa từng được điều trị” (Cấp Bộ 2011); “Khảo sát về xuất huyết tiêu hoá trên không do tăng áp lực tĩnh mạch
của tại một số cơ sở khám chữa bệnh” (Cấp Bộ -2014);
Khoa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt khoa học chuyên môn hàng
tháng cho khối bác sỹ; sinh hoạt chuyên môn hàng tháng cho khối điều
dưỡng. Tiến hành bình bệnh án cho cả bác sỹ và điều dưỡng hàng tháng. Qua
công việc này khoa đã rút ra nhiều kinh nghiệm rất hữu ích về công tác chẩn
đoán cũng như điều trị và chăm sóc đối với người bệnh từ đó giúp việc thực
hiện các quy trình Iso phù hợp với thực tế hơn. Mọi hoạt động khám, chữa
bệnh của khoa để phấn đấu và hướng tới chuẩn iso, đảm bảo chẩn đoán và
điều trị kịp thời cho người bệnh. Khoa thực hiện thường xuyên hội chẩn với
các khoa để nâng cao chất lượng chuyên môn. Ban chủ nhiệm khoa thực hiện
nghiêm túc kế hoạch trực tiếp đi thăm buồng bệnh, hội chẩn những ca bệnh
đặc biệt để có liệu pháp kịp thời, hiệu quả.
Mặc dù luôn luôn trong tình trạng bệnh nhân quá tài còn nhiều thiếu
thốn nhưng khoa Tiêu hóa luôn được Đảng ủy và Ban giám đốc bệnh viện
đánh giá cao vì vậy năm 2001 là một trong những khoa đầu tiên của bệnh viện
Bạch Mai thực hiện thành công mô hình chăm sóc toàn diện để nhân rộng và
triển khai cho toàn bệnh viện. Mô hình này giúp cho phối hợp tốt giữa bác sỹ


24
và điều dưỡng, các điều dưỡng làm việc theo nhóm được luân phiên kết quả

tạo ra kế hoạch chăm sóc chủ động cho bệnh nhân. Cho đến nay mô hình này
vẫn được duy trì và phát huy tốt hiệu quả mang lại lợi ích rất lớn cho người
bệnh. Công tác chăm sóc toàn diện đã được thực hiện có sự phối hợp tốt giữa
bác sỹ và điều dưỡng; làm việc theo nhóm được luân phiên và duy trì; tất cả
bệnh nhân đều được ở phòng có điều hòa nhiệt độ...
Kết quả khám chữa bệnh trong 05 năm (2011-2015) khoa Tiêu Hóa Bệnh viện Bạch Mai cụ thể như sau:
Khám và

2011

2012

2013

2014

2015

Tổng

Ngoại trú

22.006

20.783

31.314

22.943


27513

124562

Nội trú

5.135

3.917

5.414

5.299

6640

26105

điều trị

Những nỗ lực trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học
của khoa đã góp phần quyết định trong việc nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh, đặc biệt là việc thực hiện các kỹ thuật chuyên khoa hiện đại. Cho đến
năm 2015 tất cả các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh tiêu hóa gan mật trên
thế giới đã được áp dụng thành công và trở thành thường quy tại khoa. Cụ thể
là:
Những kỹ thuật cao trong siêu âm, trong chẩn đoán và điều trị bệnh
gan như: chọc hút tế bào gan, sinh thiết gan, chọc hút mủ điều trị áp xe gan,
hút dịch điều trị nang gan, tiêm cồn điều trị ung thư gan, dẫn lưu nang tụy qua
da, dẫn lưu đường mật qua da, dẫn lưu áp xe gan qua da, đốt sóng cao tần điều

trị u gan... được cán bộ, nhân viên của khoa thực hành thành tạo và mang lại
hiệu quả cao trong khám, chữa bệnh và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Về chẩn đoán và điều trị các bệnh liên quan đến dạ dày, thực quản: cán
bộ, nhân viên của khoa đã thực hiện tốt các kỹ thuật sau: nội soi ổ bụng để
chẩn đoán; nội soi dạ dày chẩn đoán và điều trị: tiêm cầm máu, cặp clip cầm
máu, thắt tĩnh mạch thực quản, cắt polyp dạ dày, nong thực quản, đặt stent
thực quản và ống tiêu hóa, tiêm histoacryl tĩnh mạch phình vị.


25
Với các bệnh liên quan đến đại tràng, trực tràng, ruột non: khoa đã
thực hiện thành công các kỹ thuật: nội soi đại tràng chẩn đoán và điều trị như
cắt polyp đại tràng; nội soi trực tràng và thắt trĩ; dẫn lưu nang tụy vào dạ dày
qua nội soi; mở thông dạ dày qua nội soi; nội soi dạ dày đường mũi; nội soi
ruột non bóng kép thăm dò được toàn bộ ruột non.
Về các bệnh liên quan đến mật, tụy: khoa đã thực hiện thành công kỹ
thuật nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý
đường mật và đường tụy: lấy sỏi mật qua nội soi, đặt stent đường mật. Thực
hiện thành thục kỹ thuật siêu âm nội soi và sinh thiết dưới siêu âm nội soi.
Về sàng lọc chẩn đoán ung thư đường tiêu hoá ở giai đoan sớm: đây là
thành công đặc biệt của đội ngũ y bác sĩ khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai
trong những năm qua. Hoạt động sàng lọc chẩn đoán ung thư đường tiêu hoá ở
giai đoan sớm và áp dụng kỹ thuật cắt tách niêm mạc qua nội soi để điều trị
ung thư đường tiêu hoá giai đoạn sớm như: ung thư thực quản, ung thư dạ dày,
ung thư đại tràng… đã được tiến hành thành công tại khoa. Phương pháp điều
trị này có thể điều trị khỏi hoàn toàn ung thư ở giai đoạn sớm mà vẫn bảo tồn
nguyên các cơ quan tiêu hoá và không cần phải phẫu thuật. Kỹ thuật này đã
được thực hiện thường quy tại khoa. Đây là những cố gắng nỗ lực to lớn của
đội ngũ y bác sĩ khoa Tiêu hóa - Bệnh viện Bạch Mai, có đóng góp quan trọng
cho ngành y của đất nước.

2.2.2.4. Về nâng cao động cơ thúc đẩy nguồn nhân lực phát huy tiềm
năng, thế mạnh và cống hiến cho công việc
- Về chính sách trả lương: khoa Tiêu hóa - bệnh viện Bạch Mai luôn
tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước và chi trả tiền lương theo đúng
quy chế chi trả lương tại đơn vị. Nhìn chung, lương cơ bản và thu nhập tăng
thêm trung bình của cán bộ, nhân viên tại khoa Tiêu hóa nói riêng, bệnh viện
Bạch Mai nói chung đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Do vậy, đa số người lao động
cho rằng chính sách tiền lương của bệnh viện về cơ bản là thỏa đáng, đáp ứng
nguyện vọng của cán bộ, nhân viên. Về cách thức chi trả thu nhập, bệnh viện
chi trả qua hệ thống ATM và công khai bằng lương, cách tính lương. Cụ thể,
thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên trong khoa tăng lên qua các năm.


×