Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.52 MB, 167 trang )










nghĩa xuất hiện phổ biến hơn ở hai từ loại này so với danh từ nhờ ý nghĩa biểu
niệm nổi trội của chúng như đã nêu..
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng để
xem xét phân tích ngữ nghĩa và ngữ dụng của mỗi từ đồng nghĩa trong mối
quan hệ hệ thống với các đơn vị khác trong mỗi dãy từ đồng nghĩa nói riêng,
trong hệ thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ nói chung, và trong mối quan hệ với
thực tế khách quan của mỗi cộng đồng dân tộc bản ngữ Anh và Việt.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các dãy từ đồng nghĩa
tương đương nhau về ý nghĩa giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt nhằm tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và ngữ dụng của chúng.
- Phương pháp miêu tả
Đây là phương pháp quan trọng để miêu tả hoạt động của các từ đồng
nghĩa trong ngữ cảnh sử dụng nhằm chỉ ra sự giống nhau và khác nhau về ngữ
nghĩa và ngữ dụng của chúng khi đối chiếu.
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Phương pháp phân tích thành tố nghĩa được sử dụng để phân tích cấu
trúc nghĩa của các từ đồng nghĩa nhằm xác định các nét nghĩa khu biệt của


chúng, từ đó có thể chỉ ra các nét nghĩa giống và khác nhau giữa chúng.
- Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này được sử dụng để chỉ ra mức độ phổ biến qua số lượng, tần
số xuất hiện của các hiện tượng ngữ nghĩa và ngữ dụng của các từ đồng nghĩa
được đối chiếu trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu từ đồng
nghĩa do Nguyễn Đức Tồn đề xuất. Đó là:
4


- Thủ pháp dùng kết cấu đồng nhất “A là B”, đảo lại “B là A” để xác
định các đơn vị đồng nghĩa. Thủ pháp này được sử dụng để loại bỏ các từ
không đồng nghĩa với từ trung tâm của dãy đồng nghĩa nhưng lại được các
soạn giả đưa vào dãy đồng nghĩa, chẳng hạn, các từ chỉ cùng chủ đề với từ
trung tâm, như ao, hồ, đầm, ...
- Phương pháp xác lập ngữ cảnh trống để tìm sự khu biệt ngữ nghĩa của
các đơn vị đồng nghĩa;
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp được sử dụng để nghiên cứu trên
một số dãy đồng nghĩa đại diện trong tiếng Anh và tiếng Việt được chọn theo
tiêu chí: có từ trung tâm của dãy đồng nghĩa với nhau ở nghĩa gốc và có số
lượng các đơn vị trong dãy đủ lớn để có thể đối chiếu chỉ ra được sự tương
đồng và khác biệt về ngữ nghĩa và ngữ dụng giữa hai ngôn ngữ theo yêu cầu
của Ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đối chiếu các từ đồng nghĩa
trong tiếng Anh và tiếng Việt, do vậy đây cũng là công trình đầu tiên trong
nghiên cứu ngôn ngữ học chỉ ra cụ thể những điểm giống nhau và khác nhau
về ngữ nghĩa và ngữ dụng của các từ đồng nghĩa, phục vụ hữu ích cho việc dạy
và học tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ, phục vụ cho việc biên soạn
từ điển giải thích, từ điển đối chiếu từ đồng nghĩa và công tác biên phiên dịch

giữa hai ngôn ngữ Anh –Việt. Đồng thời các kết quả nghiên cứu góp phần bổ
sung, làm sâu sắc thêm và phát triển lí thuyết về từ đồng nghĩa vốn còn ít được
nghiên cứu ở Việt Nam. Ngoài ra luận án còn có đóng góp nhất định trong việc
đề xuất cách thức đối chiếu các từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đối chiếu từ đồng nghĩa, nhờ
vậy đã làm sáng tỏ được đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ đồng nghĩa
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đó các kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung,
5


làm sâu sắc thêm và phát triển lí thuyết về từ đồng nghĩa vốn còn ít được
nghiên cứu ở Việt Nam.
Ngoài ra luận án còn có đóng góp nhất định trong việc đề xuất cách thức đối
chiếu các từ đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của luận án giúp ích cho việc phân tích, lĩnh hội
cái hay, cái đẹp về phương tiện biểu đạt của tiếng Anh và tiếng Việt; phục vụ
thiết thực cho việc giảng dạy và học tập tiếng Anh trong nhà trường nói chung,
giúp người nước ngoài học tiếng Việt thuận lợi hơn nói riêng. Kết quả nghiên
cứu còn có thể được sử dụng để biên soạn từ điển giải thích, từ điển từ đồng
nghĩa và từ điển đối chiếu từ đồng nghĩa giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt; biên
soạn tài liệu giảng dạy biên dịch và phiên dịch giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2 : Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài của luận án
Chương 3: Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên bình
diện ngữ nghĩa

Chương 4: Đối chiếu từ đồng nghĩa trong tiếng Anh và tiếng Việt trên bình
diện ngữ dụng.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Dẫn nhập
Nghiên cứu từ đồng nghĩa là một lĩnh vực lí thú bởi nó không chỉ hàm
chứa cách suy nghĩ, những tư tưởng, tình cảm rất tinh tế của mỗi cộng đồng
dân tộc mà còn là nơi tàng trữ những kinh nghiệm sống được lưu truyền qua
nhiều thế hệ và có giá trị trường tồn cho mai sau. Các từ đồng nghĩa và kết cấu
ngữ pháp đồng nghĩa có ý nghĩa rất to lớn. Chúng giúp chúng ta biểu hiện được
tư tưởng, tình cảm của mình một cách chính xác hơn, có hình ảnh hơn, giàu sức
biểu cảm hơn. Các từ đồng nghĩa thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau
là cực kì phong phú và đa dạng. Nếu chúng ta chọn lựa được chính xác một từ
nào đó trong một dãy đồng nghĩa hoặc chọn được đúng một kết cấu đồng nghĩa
nào đó thì khi đó chúng ta sẽ giải quyết tốt được nhiệm vụ diễn đạt chính xác
nội dung tư tưởng. Có nhiều trường hợp các từ đồng nghĩa còn giúp giải quyết
những nhiệm vụ thuần tuý có tính chất kĩ thuật trong diễn đạt ngôn ngữ. Đó là
khi nhờ có các từ đồng nghĩa mà chúng ta có thể tránh được sự diễn đạt trùng
lặp do chỉ sử dụng một từ nào đó cứ lặp đi lặp lại trong cùng một câu. Chính
các kết cấu ngữ pháp đồng nghĩa cũng giúp chúng ta đa dạng hoá được cách
diễn đạt, do đó tránh được sự diễn đạt trùng lặp, làm cho câu văn đa dạng về
kiểu loại và uyển chuyển hơn. Chính vì vậy, từ lâu các nhà nghiên cứu đã rất
quan tâm đến việc nghiên cứu hiện tượng đồng nghĩa. Nhiều công trình nghiên
cứu về từ đồng nghĩa trong các ngôn ngữ đã ra đời.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về từ đồng nghĩa
1.2.1. Nghiên cứu từ đồng nghĩa ở các ngôn ngữ khác tiếng Anh

Theo Nguyễn Đức Tồn [66, tr.23-62], các nhà thông thái La Mã đã chỉ ra
rằng các từ đồng nghĩa không chỉ có sự giống nhau mà còn có cả những sự
khác biệt nhau về ý nghĩa.
Thế kỉ XVIII, người Pháp đã xác định được bản chất của từ đồng nghĩa.
Năm 1718, Gira đã xuất bản tác phẩm đồ sộ "Tính chính xác của tiếng Pháp,
hay là ý nghĩa khác nhau của các từ có thể là các từ đồng nghĩa" . Boze đã thu
7


thập các từ đồng nghĩa tiếng Pháp và xuất bản thành một cuốn sách. Sau đó
một số năm, linh mục Rubo đã xuất bản cuốn "Đại từ điển đồng nghĩa". Đến
giữa thế kỉ XIX, B. Lafaye (1857) đã xuất bản "Từ điển từ đồng nghĩa cỡ lớn"
dày 1525 trang, tập hợp và giải thích được khá nhiều từ đồng nghĩa. B. Lafaye
có đóng góp rất quan trọng vào lí thuyết từ đồng nghĩa được trình bày ở phần
Mở đầu. Sang thế kỉ XX ở Pháp còn có những cuốn từ điển từ đồng nghĩa khác,
chẳng hạn, từ điển của Bally (xuất bản năm 1947), "Từ điển từ đồng nghĩa"
(Dictionaire des synonymes) của Henri Benac (được xuất bản ở Paris năm
1956). Những cuốn từ điển này đều được biên soạn theo phương pháp của B.
Lafaye nhưng có sự cải tiến. Cụ thể là các soạn giả này đã tập hợp các từ đồng
nghĩa hoàn toàn hoặc các từ gần nghĩa rồi giải thích nghĩa của từ trung tâm và
các từ trong nhóm, đồng thời có nêu sự khác nhau về sắc thái ý nghĩa của
chúng.
Thế kỉ XIX, ở Đức đã xuất bản những cuốn từ điển từ đồng nghĩa của J. B.
Mayer (1841) và của D. Saunde (1871). Đến thế kỉ XX cũng ở Đức đã có thêm
một số cuốn từ điển khác, chẳng hạn như các cuốn từ điển từ đồng nghĩa của J.
Eberhand (1910) và của Hoffman (1936). Cuốn từ điển từ đồng nghĩa của
Hoffman cỡ nhỏ, gồm 4.000 từ được xếp theo thứ tự chữ cái. Tác giả đã đưa
vào cuốn từ điển này các từ đồng nghĩa được quan niệm khá rộng, cụ thể là cả
những từ có ý nghĩa gần nhau nhưng khác nhau về cách sử dụng; hoặc những
từ khác nhau về nghĩa và cách sử dụng, nhưng được thống nhất theo cùng một

chủ đề.
Năm 1974, Herbent Gurner und G'unter Kempske đã xuất bản cuốn "Từ
điển từ đồng nghĩa" (Synonyms worte buch) dày 643 trang. Cuốn từ điển này
xác định từ đồng nghĩa theo nguyên tắc sau: chọn một từ làm từ chính của dãy
đồng nghĩa rồi dựa trên cơ sở các nghĩa khác nhau của nó mà đưa ra các từ
đồng nghĩa với từng ý nghĩa.
Như vậy, thành tựu chủ yếu về từ đồng nghĩa ở phương Tây là biên soạn
các từ điển từ đồng nghĩa. Các công trình nghiên cứu riêng về lí thuyết từ đồng
nghĩa chưa có nhiều.
8


Thành tựu nghiên cứu về lí thuyết từ đồng nghĩa và biên soạn các từ điển từ
đồng nghĩa nhiều nhất là ở nước Nga, đặc biệt là ở thời kì Xô viết.
Công trình đầu tiên ít nhiều đề cập đến vấn đề từ đồng nghĩa là cuốn "Từ
điển Nga Slavơ và tường giải các tên gọi" do P. Berưnđa biên soạn và được
xuất bản ở Kiép năm 1627. "Từ điển" này chỉ mới là thử nghiệm đầu tiên
nghiên cứu về các từ đồng nghĩa.
Năm 1783, D. I. Fônvizin xuất bản cuốn "Thử nghiệm từ điển từ đồng
nghĩa Nga" gồm có 32 dãy từ đồng nghĩa với gần 110 từ. Cuốn từ điển này là
công trình đầu tiên thuộc loại từ điển từ đồng nghĩa, trong đó D. I. Fônvizin đã
trình bày quan điểm của mình về bản chất của từ đồng nghĩa mà cho đến nay
vẫn còn giữ nguyên giá trị. Chẳng hạn, theo D. I. Fônvizin : "Trên đời này
không bao giờ có các từ có cùng một ý nghĩa như nhau". "Toàn bộ sự giống
nhau giữa các từ đồng nghĩa chỉ nằm ở tư tưởng chính" (dẫn theo [66, tr.27]).
Năm 1818 P. Kalaiđôvích đã xuất bản cuốn "Thử nghiệm từ điển từ đồng
nghĩa tiếng Nga" gồm 77 mục từ được sắp xếp không theo trật tự chữ cái a,
b, c. Tác giả thường chỉ xác định sự khác biệt giữa các từ đồng nghĩa và
minh họa bằng các ví dụ cụ thể. Song rất đáng quan tâm là lời nói đầu cho
cuốn sách của P. Kalaiđôvích. Tác giả có ý chứng minh rằng các từ đồng nghĩa

không phải là các từ có cùng một ý nghĩa mà vẫn có ý nghĩa riêng khu biệt
nhau. Tiếp theo A. S. Siskốp, P. Kalaiđôvích đã chỉ ra sự có mặt trong ngôn
ngữ các từ có cùng một nghĩa - các từ đồng nghĩa phong cách.
Năm 1840, "Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Nga hay các từ đẳng danh" (A.
Galích chủ biên) được xuất bản, gồm 226 dãy từ đồng nghĩa. Các từ mở đầu
một dãy đồng nghĩa được sắp xếp theo trật tự chữ cái a, b, c. Mục từ đồng
nghĩa được mở đầu bằng việc liệt kê các từ mà tác giả coi là các từ đồng nghĩa.
Tiếp theo tác giả đưa ra định nghĩa ý nghĩa của từ theo "Từ điển Viện Hàn lâm
Nga", sau đó là lời giải thích ý nghĩa riêng của từng từ. Trong từ điển này, ý
nghĩa của từ không phải chỉ được giải thích, mà còn được minh họa bằng các ví
dụ được trích dẫn từ các tác phẩm của Lômônôsốp, Karamzin và được trích từ
"Tạp chí của Bộ Giáo dục quốc dân". Giá trị của công trình này chủ yếu là ở
9


sự sắp xếp, điều chỉnh và hệ thống hóa việc đưa ra từ đồng nghĩa. Cách định
nghĩa các từ đồng nghĩa không có gì mới: "Đó là các từ tương tự nhau về tư
tưởng nhất định, nhưng khác biệt về ý nghĩa đặc biệt của chúng". Do không
hiểu con đường phát triển của ngôn ngữ, Galích đã đưa ra trong Lời nói đầu
ý kiến sai lầm nghiêm trọng cho rằng các từ đồng nghĩa là dấu hiệu lạc hậu
của ngôn ngữ. Chính việc thiếu định nghĩa rõ ràng về khái niệm "Từ đồng
nghĩa" nên đã dẫn đến một loạt sai lầm khi biên soạn các mục từ điển cũng như
trong cách luận giải về lí thuyết. Chẳng hạn, A. Galích coi các từ ngữ chỉ các
chủng thuộc cùng một loại là những từ đồng nghĩa, ví dụ: kiếm - kiếm lưỡi
cong- dao găm bởi vì chúng nằm trong "quan hệ thân thuộc gần gũi nhất".
Trong Lời nói đầu, tác giả cố chứng minh một điều không đúng - đó là các từ
đồng nghĩa xuất hiện trong ngôn ngữ từ các thổ ngữ địa phương nguyên thuỷ
được hợp nhất và lập thành một ngôn ngữ chung.
Trong số các công trình của các nhà ngôn ngữ học thế kỉ XIX, đáng chú ý
có bài viết của I. I. Đavưđốp "Về từ điển từ đồng nghĩa tiếng Nga". Theo ý kiến

của I. I. Đavưđốp, lĩnh vực các từ đồng nghĩa là lĩnh vực các từ thuộc thế giới
nội tâm hay tinh thần. Trong bài viết có đưa ra định nghĩa các từ đồng nghĩa là
các từ không chỉ giống nhau "như hai giọt nước" mà còn khác biệt nhau bởi
đặc điểm nào đó...
Tóm lại, tới nửa sau thế kỉ XIX trong lĩnh vực đồng nghĩa học, các nhà
nghiên cứu đã có được hàng loạt những quan sát đúng đắn. Có thể tổng kết
lại ở những điểm sau:
(i) Các từ đồng nghĩa được định nghĩa là các từ gần gũi nhưng không đồng
nhất về ý nghĩa (trong số các từ đồng nghĩa người ta đã tách riêng ra các từ gọi
tên cùng một sự vật);
(ii) Các từ đồng nghĩa là chỉ tố về tính chất đã phát triển, là chỉ tố về sự
phong phú, uyển chuyển của một ngôn ngữ và các từ đồng nghĩa để phục vụ
cho sự đa dạng hóa cách biểu hiện tư tưởng;
(iii) Các từ đồng nghĩa khu biệt nhau về mặt phong cách, về mức độ của
đặc trưng, về khả năng kết hợp với phạm vi từ nào đó. Lĩnh vực từ đồng nghĩa
10


là lĩnh vực các từ có ý nghĩa trừu tượng.
Trong thời kì Xô viết, sự quan tâm tới vấn đề từ đồng nghĩa đã tăng lên đặc
biệt. Năm 1953 ở Svéclốp đã xuất bản cuốn khảo luận của V. K. Favôrin "Các
từ đồng nghĩa trong tiếng Nga". Khảo luận gồm có các phần sau đây:
1. Thành phần từ vựng và các từ đồng nghĩa;
2. Các từ đồng nghĩa chính xác;
3. Các từ đồng nghĩa thể loại;
4. Các từ đồng nghĩa biểu cảm;
5. Các từ uyển ngữ;
6. Những nhận xét bổ sung cho sự phân loại các từ đồng nghĩa.
Cơ sở phân loại của V. K. Favôrin là phân chia các từ đồng nghĩa thành
những từ đồng nghĩa thuộc cùng một đối tượng (ví dụ: sân bay-phi trường) và

những từ đồng nghĩa thuộc những đối tượng khác nhau (ví dụ: ao, hồ...; đánh,
đấm, đạp...; buồn, chán ...).
Khi tách ra các từ đồng nghĩa thuộc những đối tượng khác nhau với tư cách
là những từ biểu thị các khái niệm khác nhau nhưng gần gũi, V. K. Favôrin
không xác định rõ tiêu chí về mức độ gần gũi này là như thế nào.
Trong bài viết của A. B. Sapir "Một số vấn đề lí thuyết từ đồng nghĩa" ,
tác giả đã định nghĩa hiện tượng đồng nghĩa như một hệ thống và đặt ra hàng
loạt vấn đề: từ đồng nghĩa và thuật ngữ, hiện tượng đồng nghĩa và tính đa
nghĩa, kiểu từ đồng nghĩa từ vựng - ngữ pháp, dãy đồng nghĩa. Trong công
trình này A. B. Sapir đã có nhiều quan sát có giá trị về các sự kiện của tiếng
Nga hiện đại. (dẫn theo [66, tr.40]).
Năm 1956, ở Nga đã xuất bản cuốn "Từ điển giản yếu từ đồng nghĩa tiếng
Nga" của V. N. Kliueva (năm 1961 in lại lần thứ 2 có sửa đổi và bổ sung). Đây
là cuốn từ điển từ đồng nghĩa tiếng Nga đầu tiên rất tiện lợi đối với việc sử
dụng thực hành. Các từ được tập hợp thành các dãy đồng nghĩa dựa trên cơ sở
những nguyên tắc nhất định và có lập luận chặt chẽ.
Các từ đồng nghĩa được định nghĩa là các từ - khái niệm phản ánh bản
chất của cùng một hiện tượng của hiện thực khách quan, khu biệt bởi những
11


sắc thái ý nghĩa bổ sung và phục vụ không chỉ cho việc thay thế nhau mà
còn để chính xác hóa tư tưởng và thái độ của chúng ta đối với phát ngôn.
Trong việc chọn lựa các từ đồng nghĩa, V. N. Kliueva tuân thủ theo quan
điểm coi các từ đồng nghĩa là những từ thuộc về cùng một từ loại. Các từ biểu
hiện các khái niệm lô gích gần gũi nhưng thuộc về từ loại khác nhau thì không
được coi là những từ đồng nghĩa.
Cách giải thích các từ do V. N. Kliueva đưa ra cũng khá khoa học: trước
hết là xác định ý nghĩa chung cho phép thống nhất nhóm từ này dưới một yếu tố
chủ đạo và sau đó mới đưa ra ý nghĩa khu biệt của mỗi từ đồng nghĩa, đồng thời

cung cấp cho từng trường hợp ví dụ sử dụng của nó trong văn bản. Tuy nhiên,
công dụng cơ bản của "Từ điển giản yếu từ đồng nghĩa tiếng Nga" cũng mới
chỉ giúp cho việc học tập từ đồng nghĩa ở các lớp cuối cấp trong trường phổ
thông mà thôi.
E. M. Bêrêgốpskaia, trong bài "Về định nghĩa và phân loại các từ đồng
nghĩa", nêu lên rằng cơ sở của các định nghĩa khác nhau về từ đồng nghĩa về cơ
bản gồm 3 tiêu chí: khái niệm, ý nghĩa và khả năng thay thế lẫn nhau. Tác giả
đề nghị phải tính đến cả 3 tiêu chí, nhưng đặc biệt cần chú ý đến ý nghĩa theo
nghĩa hẹp của từ. Khi nghiên cứu các từ đồng nghĩa, E. M. Bêrêgốpskaia đề
nghị chia các từ đồng nghĩa ra thành các từ đồng nghĩa tuyệt đối, các từ đồng
nghĩa ý niệm, các từ đồng nghĩa phong cách và các từ đồng nghĩa ý niệm phong cách, nhưng sự phân loại đơn giản nhất này cần phải được bổ sung bằng
danh sách tất cả các thuộc tính quen thuộc của các từ đồng nghĩa. Tác giả đã
tính được 24 thuộc tính như thế của các từ đồng nghĩa. Danh sách này rất rộng
và có thể thu hẹp bớt một số lần. Song tác giả sai lầm khi cho rằng: sự phong
phú của ngôn ngữ về các từ đồng nghĩa ý niệm vẫn chưa nói lên tính chất đã
phát triển của ngôn ngữ, trong khi đó các từ đồng nghĩa phong cách là chỉ tố
nhạy cảm nhất về tính chất đã phát triển của ngôn ngữ (dẫn theo [66, tr.48-49]).
Công trình của V. A. Sirôtina "Đồng nghĩa từ vựng trong tiếng Nga"
(1970) đã bao quát hầu như tất cả các vấn đề đồng nghĩa tiếng Nga. Cuốn sách
gồm có các phần: "Định nghĩa khái niệm từ đồng nghĩa"; "Vấn đề từ đồng
12


nghĩa trong sách ngôn ngữ học hiện nay". "Giải thích như thế nào về sự có mặt
các từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ"; "Ý nghĩa của hiện tượng đồng nghĩa";
"Phải chăng tất cả các từ của ngôn ngữ đều có các từ đồng nghĩa?". "Những
nguồn gốc của hiện tượng đồng nghĩa"; "Dãy đồng nghĩa"; "Tính biến đổi lịch
sử của các dãy đồng nghĩa"; "Các từ điển đồng nghĩa"; "Sự sử dụng có tính
phong cách các từ đồng nghĩa và các từ đồng nghĩa có tính chất cá nhân - tác
giả". V. A. Sirôtina định nghĩa từ đồng nghĩa là các từ biểu thị theo cách khác

nhau cùng một hiện tượng của hiện thực khách quan. Tác giả đã chú ý nhiều
hơn tới những sự khác biệt của các từ đồng nghĩa. Trong một dãy từ đồng
nghĩa, tác giả tách ra hạt nhân chung của ý nghĩa cùng những sắc thái và thuộc
tính khác nhau không động chạm đến hạt nhân lô gích - sự vật tính của ý nghĩa
các từ đồng nghĩa riêng biệt. V. A. Sirôtina đã có nhận xét khá tinh tế rằng các
từ đồng nghĩa rất thường hay khác nhau đồng thời cả ở các phẩm chất cảm xúc
- biểu cảm, phong cách và cả ở các sắc thái ý nghĩa của chúng. Điều rất có giá
trị trong công trình của V. A. Sirôtina là bà không chỉ đưa ra định nghĩa dãy từ
đồng nghĩa mà còn xem xét các quá trình diễn ra trong dãy từ đồng nghĩa ở
bình diện phát triển lịch sử của ngôn ngữ. (Dẫn theo [66, tr.4748]).
Đặc biệt, năm 1974, Ju.D. Apresjan đã xuất bản công trình “Ngữ nghĩa từ
vựng (các phương tiện đồng nghĩa của ngôn ngữ)" (Nxb Khoa học, M.). Sau
đó công trình được tái bản có bổ sung vào năm 1995. Đây là một trong những
tác phẩm ngôn ngữ học đáng kể nhất của những năm 1970 đã trở thành “sách
giáo khoa ngữ nghĩa” đặc sắc trong suốt nhiều năm để mở đầu và làm cương
lĩnh cho các công trình nghiên cứu trong tương lai cho hàng loạt tập thể các nhà
ngôn ngữ học. Trong chuyên luận này, Ju.D. Apresjan đã đưa ra các yếu tố
ngôn ngữ ngữ nghĩa để miêu tả ý (smysl’) của các từ ngôn ngữ tự nhiên.Trên
cơ sở này ông đã miêu tả được các phương tiện đồng nghĩa của ngôn ngữ, trong
đó có các từ đồng nghĩa (chương 4) và trình bày các quy tắc cải biến cú phápsâu. Phần trung tâm của cuốn sách đề cập đến vấn đề phát hiện và mô tả những
sự khác biệt giữa các từ đồng nghĩa. Từ cơ sở lí thuyết này, năm 1995 Apresjan
chủ biên xuất bản một cuốn từ điển đồng nghĩa tiếng Nga có nhan đề là “ Tân
13


từ điển giải thích các từ đồng nghĩa” mà trong thực tiễn từ điển học trước đó
chưa từng có công trình nào tương tự. Tác giả đã khởi thảo ra cho từ điển này
một sơ đồ chi tiết miêu tả các dãy đồng nghĩa trong đó mỗi yếu tố của dãy được
xác định đặc điểm từ góc độ ngữ nghĩa, cú pháp, khả năng kết hợp và các thuộc
tính khác (sự miêu tả một dãy đồng nghĩa trong từ điển chiếm nhiều trang chứ

không phải chỉ một vài dòng như chúng ta thường thấy trong các từ điển đồng
nghĩa truyền thống kiểu “nhà trường” trước đây. Trong cuốn từ điển này, mỗi
mục từ điển được chia ra thành các khu vực, mỗi khu vực nêu một kiểu thông
tin nhất định về các đơn vị đồng nghĩa. Có tất cả 8 khu vực dành để miêu tả chi
tiết các thuộc tính, đặc điểm khác nhau của các đơn vị đồng nghĩa: 1) Mở đầu
mục từ là dãy đồng nghĩa. 2) lời mở đầu; 3) ý nghĩa; 4) chú giải; 5) các hình
thái; 6) các kết cấu; 7) khả năng kết hợp; 8) ví dụ minh hoạ. Ngoài ra trong
mục từ điển có thể chứa tới 9 khu vực tra cứu về các thông tin khác như: các
đơn vị đồng nghĩa thành ngữ tính; các đơn vị tương tự; các từ trái nghĩa; các từ
phái sinh, v.v..., thư mục. (Dẫn theo [66, tr.53]).
Năm 1975, ở Nga đã xuất bản cuốn "Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Nga"
của Z. E. Alếchsanđrôva. Cuốn từ điển này dày 600 trang; được biên soạn dựa
trên các phiếu. Nó phục vụ chủ yếu cho những người sử dụng tiếng Nga là
tiếng mẹ đẻ khi viết và dịch từ các ngôn ngữ khác nhau sang tiếng Nga và biên
tập các văn bản được viết bằng tiếng Nga. Điều này đã chi phối phương pháp
biên soạn từ điển - chỉ cung cấp các từ đồng nghĩa trong dãy kèm theo chú sắc
thái phong cách, phạm vi sử dụng, đặc điểm kết hợp mà không có lời giải thích
ý nghĩa cho từng từ, cũng không chỉ ra những sắc thái nghĩa khác nhau trong ý
nghĩa của các đơn vị đồng nghĩa của mỗi dãy. Từ điển cũng không dẫn ví dụ
minh hoạ. Quan niệm của tác giả về từ đồng nghĩa như sau: "Là những từ có
cùng một ý nghĩa từ vựng, chỉ khác nhau về các sắc thái ý nghĩa, màu sắc biểu
cảm và tính chất sở thuộc một lớp phong cách nào đó của ngôn ngữ và chúng
có khả năng kết hợp trùng nhau dù chỉ là một phần, bởi vì chỉ trong trường hợp
này chúng mới có thể thay thế nhau trong các ngữ cảnh thực tế". Tác giả cũng
không coi các từ gắn bó với nhau theo quan hệ "loại - chủng" là những từ đồng
14


nghĩa. (Dẫn theo [66, tr.52-53]).
Các nghiên cứu về đồng nghĩa từ vựng ở Liên Xô trước đây cho phép quy

tất cả các định nghĩa về từ đồng nghĩa được đưa ra trong các công trình khoa
học vào hai loại:
- Loại 1. Định nghĩa các từ đồng nghĩa là những từ có âm khác nhau, gần
gũi nhưng không đồng nhất về ý nghĩa của chúng. Loại định nghĩa từ đồng
nghĩa này đã được đưa ra từ cuối thế kỉ XVIII và vẫn còn tồn tại cho đến ngày
nay.
-Loại 2. Định nghĩa từ đồng nghĩa là những từ biểu thị cùng một hiện
tượng của hiện thực khách quan, nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, thuộc
tính phong cách, v.v...
1.2.2 .Nghiên cứu về từ đồng nghĩa trong tiếng Anh
Ở Anh -Mỹ cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu và biên soạn từ điển từ
đồng nghĩa được xuất bản, trong đó có bàn về từ đồng nghĩa. Chẳng hạn, “Từ
điển từ đồng nghĩa” (Dictionary of Synonyms) của Webster được xuất bản ở
Mỹ năm 1984 quan niệm “từ đồng nghĩa là hai hoặc nhiều từ trong tiếng Anh
có nghĩa giống nhau hoặc nghĩa cơ bản rất gần giống nhau ... Thông thường các
từ đồng nghĩa phân biệt nhau bởi một ý nghĩa bổ sung, hoặc chúng có thể khác
nhau trong sự sử dụng thành ngữ hoặc trong cách chúng được sử dụng " [113,
tr. 24] .
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày công trình của một số nhà ngôn
ngữ học về các từ đồng nghĩa trong tiếng Anh, xác định mức độ chúng tương
đồng với nhau trong sự sử dụng. Như chúng ta biết, tiếng Anh có nhiều biến
thể được sử dụng ở các nước khác nhau, chẳng hạn, tiếng Anh Anh và tiếng
Anh Mỹ là hai biến thể của cùng một ngôn ngữ, nhưng có sự khác biệt đáng kể
trong từ vựng của chúng. Filippov (1971) [96, tr.113-117] đã phân tích sự cùng
tồn tại và cạnh tranh giữa các từ đồng nghĩa Mỹ và Anh trong tiếng Anh Anh
như là kết quả của sự vay mượn tiếng Anh Mỹ vào tiếng Anh Anh. Theo
Filippov, khi một từ Mỹ du nhập vào tiếng Anh Anh mà gặp một từ có cùng
một ý nghĩa đã tồn tại thì kết quả của cuộc gặp gỡ này có thể khác nhau.
15



Thứ nhất, các từ này có thể cùng tồn tại, nhưng với mức độ sử dụng
khác nhau, các từ Anh Mỹ thường có tần số sử dụng thấp hơn các từ đồng
nghĩa Anh tương ứng: ví dụ BE (British English) luggage (hành lý) và AE
(tiếng Anh Mỹ) baggage (hành lý), BE stones (sỏi) và AE rock (đá) , BE lorry
(xe tải) và AEtruck ( xe tải), BE government (chính phủ) và AE administration
(chính phủ), BE team (đội) và AE squad (đội), BE autumn (mùa thu) và AE fall
(mùa thu).
Thứ hai, hai từ đồng nghĩa có thể khác nhau về mặt phong cách, từ Anh
Mỹ thường được sử dụng như một từ thông tục hoặc tiếng lóng, và từ Anh như
là một từ trung tính, ví dụ: intellectual - trí tuệ và AE: egghead - đầu vỏ
trứng; excuse- bào chữa và AE: abili - chứng cứ ngoại phạm; averse- không
thích và AE: allergic – dị ứng; to advertise - để quảng cáo và AE: to sell –
để bán.
Thứ ba, chúng cũng có thể khác biệt về tính cộng sinh từ vựng, với một
số hạn chế áp dụng cho từ tiếng Anh Anh: ví dụ: the Americanism merchant
(thương nhân Mỹ ) thay cho the traditional British shopkeeper (người chủ
hiệu Anh truyền thống và dealer (đại lý ) ở kết hợp đặc biệt như coal merchant
(hãng buôn than) hoặc wine merchant (hãng buôn rượu vang).
Cuối cùng, hai từ đồng nghĩa có thể khác nhau theo các giá trị xã hội
học, nghĩa là sự đồng hóa của một từ Mỹ vào tiếng Anh Anh có thể thay đổi
theo tuổi người sử dụng nó: ví dụ: thế hệ trẻ có nhiều khả năng sử dụng tiếng
Anh kiểu Mỹ, trong khi thế hệ lớn tuổi thích các từ ngữ truyền thống. Cũng
trong cùng một loại tiếng Anh, tức là tiếng Anh Mỹ, từ (gần) đồng nghĩa rất
nhiều. Von Schneidemesser (1980) [132, tr.74-76] đã chú ý đến

từ ví

(purse) và từ đồng nghĩa của nó, và bằng cách tham khảo từ điển của Mỹ trong
khu vực Anh và bằng cách phân tích bình luận thông tin về việc sử dụng các từ

đồng nghĩa như vậy, tác giả Von Schneidemesser thấy rằng purse - ví đồng
nghĩa với pocketbook - ví tiền, handbag - túi xách , wallet - ví, change purse ví đựng tiền lẻ và coin purse – ví đựng tiền xu dao động theo sự phân bố địa lý
của việc sử dụng chúng. Von Schneidemesser nhấn mạnh rằng các từ đồng
16


nghĩa trên được coi là

chuẩn mực và do đó chúng đã được dùng khắp

đất nước: đặc biệt là từ purse - ví được dùng thường xuyên hơn trên bờ biển
phía Tây và từ pocketbook – ví tiền thì lại được dùng trên bờ biển phía Đông,
trong khi từ handbag –túi xách được sử dụng thường xuyên hơn ở Maryland,
và việc sử dụng nó liên quan đến tuổi của người nói (phổ biến hơn ở người từ
sáu mươi tuổi trở lên). Wallet (ví) được sử dụng nhiều hơn ở California và khu
vực Đông Bắc của Liên bang, thông thường truyền tải ý nghĩa 'bưu phẩm bằng
da' (leather billfold); tuy nhiên, từ billfold - ví được một số người cung cấp
thông tin coi là thuật ngữ lâu đời nhất đề cập đến cái gì đó có thể được mang
bên trong pocketbook - ví tiền hoặc handbag –túi xách và chỉ trong một số
trường hợp đã cung cấp thông tin nó có nghĩa chồng chéo với handbag túi xách. Cuối cùng, tần suất sử dụng của coin purse – ví đựng tiền xu và
change purse – ví đựng tiền lẻ được coi là gần bằng sau từ handbag - túi xách .
Gottschlank (1992) [102, tr.237-255] so sánh hai cấu trúc câu hỏi tiếng Anh
thường xuyên được sử dụng hoặc để đề nghị một cái gì đó hoặc hỏi về một cái
gì đó, cụ thể là what about (cái gì) và how about (theo cách gì). Trong nghiên
cứu của mình, tác giả đã kiểm tra khả năng nói tiếng mẹ đẻ bằng tiếng Anh để
chọn cụm từ tốt nhất điền vào khoảng trống trong một số câu phù hợp. Theo
những cách hiểu khác nhau của học sinh đối với các câu theo lực ngôn trung
mà họ suy đoán, các học sinh đã nói rằng họ phân biệt được giữa what about
(cái gì) và how about (theo cách gì) và cũng không phải tất cả trong số họ đều
đã chọn cùng một cụm từ trong cùng một loại phát ngôn. Những sự khác biệt

chính mà ông nhận thấy là how about (theo cách gì) chủ yếu được lựa chọn khi
theo sau là mạo từ xác định, tên riêng, đại từ sở hữu, trong khi what about (cái
gì) được chọn khi tiếp sau là mạo từ bất định, số từ và mệnh đề không xác
định (ví dụ như nguyên mẫu hoặc gerund). Hơn nữa, how about (theo cách gì)
thường được sử dụng như một lời nhắc nhở về một cái gì đó gọi cho tất cả
người đối thoại, trong khi what about (cái gì) được sử dụng để cung cấp thông
tin mới hoặc để bày tỏ sự gợi ý, thuyết phục hoặc lời mời làm việc gì đó. Hai
cấu trúc cũng thường được sử dụng để đặt câu hỏi; đặc biệt, vì what about (cái
17


gì) được sử dụng trong câu hỏi thể hiện các gợi ý, đưa ra các lựa chọn cho
người nhận, câu trả lời phổ biến nhất cho nó là một sự đồng ý hay không trả
lời. Mặt khác, how about (theo cách gì) được sử dụng để xin ý kiến, vì vậy
phản ứng phổ biến nhất là thông tin bắt buộc. Hơn nữa, tác giả đã phân tích
việc sử dụng các cấu trúc nêu trên trong các văn bản văn học và chỉ ra rằng
trong các tài liệu nghiên cứu, sự lựa chọn giữa how about (theo cách gì)
và what about (cái gì) chủ yếu được xác định bởi các đặc điểm phong cách và
liên quan đến cấu trúc của cốt truyện; ví dụ, trong cuốn tiểu thuyết của Scott
Turow “ Coi là vô tội”, how about (theo cách gì) được sử dụng trong100 trang
đầu tiên như là một thiết bị tạo kiểu để mô tả các phương pháp tiếp cận rập
khuôn xác định kẻ giết người thực sự, nhưng từ chương 23 trở đi, how about
(theo cách gì) được sử dụng để thực hiện yêu cầu và phát ngôn nhắc nhở. Vẫn
đối với những văn bản này, ông cũng nhấn mạnh những khó khăn gặp phải bởi
các dịch giả khi xây dựng các cấu trúc này bằng tiếng Đức. Vì vậy, Gottschlank
cho thấy chỉ đôi khi mới có thể nhận thấy sự chồng chéo trong cuộc đối thoại
và đưa ra nghĩa của các cụm từ và người nói ưa lựa chọn sử dụng what about
(cái gì) hơn là how about (theo cách gì) để truyền đạt sắc thái nghĩa khác nhau.
Church và các cộng sự (1994) [87, tr.1-35] đã nghiên cứu các từ đồng
nghĩa ask for (yêu cầu) và request (yêu cầu), họ so sánh bằng cách sử dụng

thesauri và corpora. Các tác giả tìm thấy một số sự khác biệt giữa các từ ngữ
này bằng cách xem chúng có thể được thay thế bằng động từ nào, các đối tượng
trực tiếp có thể lược bỏ và tần số xuất hiện của chúng. Với sự tham khảo các
động từ có thể thay thế, họ lên danh sách inquire (hỏi), demand (yêu cầu),
claim (khiếu nại), ask for (yêu cầu) và request (yêu cầu); hơn nữa, ask for (yêu
cầu) và request (yêu cầu) không chỉ có sự chồng chéo lớn đối với các đối tượng
trực tiếp, mà còn có sự chồng chéo đối với các sự phân bố đối tượng tương tự
và ý nghĩa; Cả hai đều đi kèm với danh từ hành động hoặc các trạng thái công
việc và một số ít các danh từ chỉ các đại lý hoặc cơ quan, con người; cuối
cùng, request (yêu cầu) được dùng thường xuyên hơn so với ask for (yêu cầu).
18


Atkins và Levin (1995) đã tham khảo ý kiến các tập đoàn điện tử và từ điển
tiếng Anh để phân tích các động từ diễn tả khái niệm về shaking (rung lắc), cụ
thể là quake (động đất ), quiver (rung), shake (lắc)), shiver (rùng mình),
shudder (rùng mình), tremble (run rẩy) và vibrate (rung động). Họ kiểm tra sự
sử dụng cú pháp các từ, nhận thấy những động từ thường được coi là không
liên quan, ví dụ: "Thang máy rung mạnh anh ta lên tới tầng thứ sáu"(An
elevator shuddered him to the sixth floor) [81, tr.87].Họ cũng xem xét các loại
cụm từ danh từ cùng xuất hiện với các động từ này và kiểm tra các định nghĩa
được từ điển cung cấp cho người học ngoại ngữ. Họ phát hiện ra rằng quiver
(rung động) có nhiều khả năng xảy ra với bộ phận cơ thể, trong khi shiver
(rùng mình) được sử dụng cho người dân. Hơn nữa shudder (rùng mình),
tremble (run rẩy) và vibrate (rung) được sử dụng khi nói về máy móc; quiver
(rung động), shudder (rùng mình), tremble (run rẩy) và vibrate (rung) liên
quan đến các phòng ốc và các tòa nhà; vibrate (rung) và shudder (rùng
mình) liên quan đến xe cộ. Cuối cùng họ phát hiện ra shake (lắc) có ý nghĩa
tổng quát nhất và vì lý do này nên thường xuyên được dùng nhiều nhất.
Clift (2003) [88, tr.167-187] đã thảo luận về các từ đồng

nghĩa actually (thực sự ) và in fact ( thực tế) với tài liệu tham khảo đặc biệt
liên quan đến sự xuất hiện của chúng trong cuộc trò chuyện. Tác giả nhận thấy
sự khác biệt trong việc sử dụng từ actually (thực sự ) và in fact ( thực tế). Đặc
biệt, từ actually (thực sự) được sử dụng ở phần bắt đầu hoặc ở cuối lượt lời để
chỉ ra sự thay đổi trong chủ đề, một điểm đánh dấu cảm hứng hoặc sự xuất hiện
của một sự tình mới, trong khi từ in fact ( thực tế) chỉ được đặt vào đầu của
một câu tiếp theo, tạo ra một liên kết với những gì đã được nói trước đó.
Taylor (2003) [130, tr.263-284] đã sử dụng một khối ngữ liệu một triệu từ
để phân tích sự phân bố của tính từ tiếng Anh tall (cao) và high (cao) trong
nghĩa từ vựng cụ thể . Tác giả nhận xét rằng tính từ high (cao) chủ yếu được sử
dụng khi đề cập đến các cơ cấu vật lý, tòa nhà, công trình, quần áo, đặc điểm
địa hình và hiện tượng tự nhiên. Còn từ tall ( cao) thì chủ yếu được sử dụng
liên quan đến con người. Taylor đã chỉ ra rằng cả hai thuật ngữ đều liên quan
19


×