Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát của lực lượng quản lý thị trường Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 50 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án.
Đại hội Đảng VI ( tháng 12 - 1986) Đảng và nhà nước ta chủ trương
chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về kinh tế bao gồm nhiểu lĩnh vực
khác nhau trong đó có quản lý thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm
soát thị trường của cơ quan quản lý thị trường. Đó là chức năng quản lý khó
khăn nhất bởi nó hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với những tiêu cực của thị
trường; hàng ngày hàng giờ phải xử lý các mối quan hệ chứa đựng đầy mâu
thuẫn giữa ý chí chung nhằm thiết lập trật tự quản lý thị trường với ý chí, khát
vọng lợi nhuận bất chấp mọi kỷ cương, pháp luật của không ít nhà doanh
nghiệp, doanh nhân, hộ kinh doanh cá thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chặn
đứng những tiêu cực trong hoạt động thị trường, chặn đứng tình trạng buôn
lậu, gian lận thương mại, trốn lậu thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, đưa
các quan hệ thị trường, kinh doanh vào một trật tự quản lý là mục tiêu, nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của nhà nước, trước hết là của các cơ quan quản
lý thị trường nhằm đảm bảo thị trường ổn định, trong sạch và bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh. Đồng thời phòng ngừa và chống
các hành vi tiêu cực phát sinh cũng như sự yếu kém về năng lực, sự thiếu hiểu
biết về pháp luật và kiểm tra, kiểm soát của lực lượng quản lý thị trường tỉnh
Hưng Yên.
Từ thực trạng trên, vấn đề nghiên cứu “Những giải pháp nhằm nâng cao
năng lực kiểm tra, kiểm soát của lực lượng quản lý thị trường Hưng Yên
trong giai đoạn hiện nay” là hết sức cần thiết, cấp bách hiện nay.


2



2. Giới hạn của đề án
Đề án được áp dụng cho lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Hưng Yên giai
đoạn 2015 - 2020 nhằm nâng cao vị thế của lực lượng quản lý thị trường,
hoàn thiện về mô hình tổ chức, trụ sở , trang thiết bị làm việc, trình độ của cán
bộ công chức quản lý thị trường trong việc thực hiện quy trình kiểm tra, xử lý
và thiết lập hồ sơ vụ việc nhằm xây dựng lực lượng quản lý thị trường theo
yêu cầu chính quy, tổ chức chặt chẽ
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. Cơ sở khoa học
Trên thế giới đã còn nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường của
mình theo mô hình khác nhau. Như mô hình kinh tế thị trường – xã hội của
Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường của Thụy Điển, kinh tế thị trường
mang màu sắc Trung Quốc…Nếu gác những điểm riêng, cá biệt của những
mô hình kể trên, chỉ tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế
thị trường, có thể nêu đặc điểm mang tính chung sau: Một là: Tính tự chủ của
các chủ thể kinh tế rất cao; Hai là: Trên thị trường hàng hóa rất phong phú;
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường; Bốn là: Cạnh tranh là
một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất
hàng hóa độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế; Năm là: Kinh tế thị trường
là hệ thống kinh tế mở.
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng quan trọng của quản lý Nhà nước
về kinh tế và cũng là một chức năng trọng của quản lý nhà nước đối với thị
trường. Đối tượng của công tác kiểm tra, kiểm soát là thị trường là đối tượng
phức tạp về nhiều mặt trong đó tính chất, nội dung và quy mô hoạt động của


3


thị trường quyết định nội dung, nhiệm vụ, hình thức tổ chức, phương pháp,
các công cụ của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường.
Các hoạt động trên thị trường gồm: hoạt động hợp pháp và hoạt động phi
pháp, đều là đối tượng và chịu sự giám sát, kiểm tra của lực lượng quản lý,
kiểm tra, kiểm soát thị trường. Tuy nhiên, phương thức kiểm tra, kiểm soát
của lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường đối với hai hoạt động nêu trên
khác nhau về cơ bản:
- Một mặt, lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường phải thường xuyên
giám sát hoạt động trên thương trường, tuyên truyền, hướng dẫn, nhắc nhở
các chủ thể tham gia thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp
luật, làm sao để hoạt động hợp pháp trên thị trường ngày càng trở thành phổ
biến, tạo nền tảng cho thị trường phát triển lành mạnh, xây dựng trật tự , kỷ
cương văn minh trong hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước. Xét về mặt
này, công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường có nội dung và mục đích giáo
dục, xây dựng và phòng ngừa và về lâu dài đây phải là mặt chủ yếu.
- Mặt khác, do kinh tế thị trường ở nước ta mới trong giai đoạn đầu của sự
phát triển, còn thiếu nhiều điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu
quả, có trật tự, kỷ cương văn minh, hoạt động thị trường còn nhiều bất cập,
chưa có nề nếp. Điều đáng chú ý và quan tâm là hoạt động phi pháp, hành vi
vi phạm pháp luật còn khá phổ biến, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. Xét theo
hướng này, lực lượng quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường trong thời gian
tới nhất là trong những năm trước mắt còn phải tập trung sức đấu tranh chống
các hoạt động phi pháp trên thị trường, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi các
hoạt động tiêu cực này, góp phần tạo dựng trật tự, kỷ cương và văn minh
thương mại.


4

Do tính chất các loại hoạt động phi pháp có tính khác nhau, nên mục tiêu,

phương thức kiểm tra, kiểm soát đối với từng hoạt động này không giống
nhau. Mỗi loại hoạt động phi pháp đều là một đối tượng cụ thể của công tác
kiểm tra, kiểm soát thị trường; những công việc cụ thể có liên quan đến công
tác đấu tranh chống từng loại vi phạm này là một nội dung của công tác kiểm
tra, kiểm soát thị trường.
Có thể phân chia các loại hoạt động thị trường phi pháp là đối tượng kiểm
tra, kiểm soát của lực lượng quản lý thị trường như sau:
Một: Kinh doanh trái phép.
Xuất phát từ chỗ các chủ thể tham gia hoạt động thị trường phải có đủ tư
cách pháp lý, tức là được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký kinh
doanh theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định, hoặc được pháp luật công
nhận quyền tham gia hoạt động thị trường trong phạm vi nhất định nên mọi
hoạt động, hành vi trái với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
hoặc ngoài phạm vi quyền tham gia thị trường được pháp luật công nhận phải
đăng ký kinh doanh, hoặc kinh doanh không có đăng ký cũng như không có
giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép đều là
các hành vi kinh doanh trái phép.
Kinh doanh trái phép là một trong các đối tượng cụ thể của lực lượng kiểm
tra, kiểm soát thị trường nhằm loại trừ hành vi đó bảo đảm các hoạt động kinh
doanh mua bán trên thị trường diễn ra bình thường, đúng quy định của pháp
luật, duy trì trật tự, kỷ cương trong hoạt động thị trường, là công việc có tính
thường xuyên và hết sức quan trọng.
Hai: Buôn lậu.
Buôn lậu gồm những hành vi sau:


5

- Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hóa hoặc ngoại
tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa mà Nhà

nước cấm xuất khẩu hay nhập khẩu, hoặc buôn bán hàng hóa nói chung qua
biên giới mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của Hải quan.
- Hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế; buôn bán những hàng hóa mà Nhà
nước cấm kinh doanh trong nước.
Đặc trưng chung của các hành vi buôn lậu cũng như hành vi vận chuyển
hàng hóa trái phép qua biên giới là việc trốn tránh sự kiểm soát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, dùng các thủ đoạn gian dối để che mắt các cơ
quan này, hoặc cấu kết với các cơ quan này để thực hiện các hành vi đó.
Trong tình hình hiện nay, công tác chống buôn lậu là một nội dung rất quan
trọng, trở thành nội dung trung tâm của công tác kiểm tra, kiểm soát thị
trường.
Ba: Buôn bán hàng giả.
Sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả là hai khâu thường gắn liền với
nhau, có cùng bản chất. Vì thế, nên hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả
được xem xét chung là một đối tượng không kém phần nguy hại so với buôn
lậu và cần được kiểm tra, kiểm soát . Ngày nay, loại hàng giả được sản xuất ở
một nước nhưng buôn bán, tiệu thụ ở nước khác. Hiện nay ở nước ta cũng có
nhiều loại hàng giả được sản xuất ở nước ngoài và được nhập lậu, thậm chí
nhập theo đường chính thức vào để tiêu thụ; hoặc sau khi nhập khẩu vào rồi
mới thay đổi nhãn mác, tên, địa chỉ người sản xuất và đưa ra buôn bán trên thị
trường.
Việc xác định hàng giả mặc dù đã có hướng dẫn của cơ quan nhà nước
song suy cho cùng là phải lấy hàng thật làm chuẩn để so sánh, đối chiếu các
tiêu chí, tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn chất lượng và các nội dung khác của


6

chúng để phát hiện sự khác biệt; nếu cần phải qua kiểm nghiệm, giám định
của cơ quan chuyên môn kỹ thuật. Nói chung, đặc trưng chủ yếu của hàng giả

là hàng kém chất lượng, phẩm cấp thấp nhưng chủ hàng với động cơ lừa dối,
thủ đoạn tinh vi đã cố ý ngụy trang nó dưới danh nghĩa hàng thật, che đậy nó
bằng cách làm giả, làm nhái nhãn mác hàng chính hiệu cùng loại có chất
lượng tốt hơn, phẩm cấp cao hơn của các hãng sản xuất – kinh doanh được thị
trường tín nhiệm và người tiêu dùng ưa chuộng nhằm dễ tiêu thụ sản phẩm
của mình với khối lượng lớn, bán hàng nhanh và thu lợi nhuận lớn.
Hàng giả một mặt tàn phá nền kinh tế trong nước, làm sói mòn uy tín các
thương hiệu và lợi ích của các nhà sản xuất chân chính; mặt khác đặc biệt
nghiêm trọng là hàng giả xâm hại lợi ích, thậm chí gây nguy hiểm đến tính
mạng người tiêu dùng, nhất là hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa và phòng
bệnh cho người, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống
cây, con, phân bón…
Bên cạnh hàng giả, còn có các loại hàng kém chất lượng, quá hạn sử dụng,
không đảm bảo tiêu chuẩn bắt buộc về chất lượng theo quy định của Nhà
nước hoặc không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm… Tuy không thuộc phạm trù hàng giả, nhưng hành vi lưu thông,
buôn bán các hàng hóa này có thể xếp chung vào nhóm đối tượng buôn bán
hàng giả để tổ chức công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các vi phạm
theo các quy định pháp luật có liên quan, vì các vi phạm này thuộc loại này
gây nguy hại trực tiếp tới lợi ích, sức khỏe người tiêu dùng không kém gì
hàng rởm, hàng giả.
Ngoài ra, các loại tem vé, văn bằng, hóa đơn tài chính… hoặc các giấy tờ
có giá khác được làm giả và mua - bán như hàng hóa thì đều bị coi là hàng
giả, và cần xử lý nghiêm các hành vi buôn bán này. Việc thực hiện dán tem


7

đối với một số sản phẩm sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu vừa có tác dụng
chống hàng nhập lậu, vừa có tác dụng chống hàng giả. Tuy nhiên, nếu việc tổ

chức dán tem hoặc quản lý tem không chặt chẽ thì chính tem có thể là tem
thật bị lọt ra ngoài vòng kiểm soát, tem thật quay vòng tái sử dụng hoặc là
tem giả lại tạo ra nơi ẩn náu mới cho hàng lậu, hàng giả, vừa gây khó khăn
cho việc kiểm tra, kiểm soát, vừa gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng.
Bốn: Gian lận thương mại.
Gian lận thương mại là một trong những đối tượng của kiểm tra, kiểm soát
thị trường. Trong hoạt động thương mại thường gặp các hành vi gian lận sau:
+ Gian lận đối với khách hàng và người tiêu dùng như: gian dối khi cân,
đo, đong, đếm, cố ý tính sai, đánh tráo chủng loại, phẩm cấp hàng hóa… gây
thiệt hại cho khách hàng hoặc người tiêu dùng.
+ Gian lận đối với cơ quan quản lý nhà nước như: buôn bán nhiều, kê khai
ít để trốn lậu thuế; buôn bán chủng loại hàng hóa này kê khai chủng loại khác
có thuế suất thấp hơn hoặc kê khai hàng này nhưng giao nhận, vận chuyển,
lưu thông loại hàng khác, thậm chí cả hàng lậu, hàng cấm nhằm trốn tránh sự
kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng và trốn lậu thuế.
Gian lận thương mại là hiện tượng thường gặp nên cần được kiểm tra,
kiểm soát và xử lý các vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích chung và lợi ích người
tiêu dùng, bảo đảm trật tự kỷ cương và văn minh trong hoạt động thương mại.
Năm: Các hành vi vi phạm pháp luật khác trong thương mại.
Hoạt động trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hóa trên thị trường ngoài
việc phải tuân thủ các quy phạm pháp luật chung của Nhà nước còn phải theo
các quy định hoặc hướng dẫn của các cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm
quyền, nhất là đối với các loại hàng hóa có tính đặc thù như:


8

+ Quy định về chất lượng hàng hóa được phép mua bán, lưu thông trên thị
trường;
+ Quy định về hàng hóa và điều kiện kinh doanh các loại hàng hóa có tính

đặc thù như: thuốc phòng chữa bệnh cho người, vệ sinh thực phẩm, thuốc thú
y, thuốc trừ sâu, văn phòng phẩm…
Ngoài ra, các hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường cũng không bỏ qua
các vi phạm pháp luật về các lĩnh vực khác như: quy định về sản xuất, về tài
chính, tiền tệ, thanh toán, giá cả, thuế khóa… được bộc lộ thông qua mua bán
trên thị trường.
Để kiểm tra, kiểm soát chống các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên, lực
lượng quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường chuyên nghiệp cần phối hợp với
các lực lượng kiểm tra, kiểm soát khác nhất là các lực lượng thanh tra chuyên
ngành, nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương chung trên thương trường, không loại
trừ bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào xâm phạm lợi ích kinh tế chung và
lợi ích người tiêu dùng.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Đại hội VI (1986) khẳng định đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu xã hội
chủ nghĩa đã lựa chọn, mà chỉ tìm ra phương thức, con đường đúng đắn hơn,
có hiệu quả hơn để đi đến mục tiêu. Thực hiện đường lối đổi mới, cũng như
việc đổi mới trên nhiều lĩnh vực khác, trên lĩnh vực kinh tế chúng ta đẩy
mạnh quá trình chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Nhờ những thành tựu đã
đạt được trong bước chuyển đó, nền kinh tế của đất nước có bước phát triển
khá, đời sống của hầu hết nhân dân từng bước được cải thiện.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định những nhận thức cơ bản về cơ chế kinh tế ở Việt Nam là:


9

- Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành
tựu phát triển của nền kinh tế văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và cả khi chủ nghĩa xã hội đã

được xây dựng.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường trong nước gắn với thị
trường thế giới.
- Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch
chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô.
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực
hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh
- Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ
mô của nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản
xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn
chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý thị
trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh
tế và bằng các nguồn lực kinh tế của nhà nước.
Mục tiêu của việc đổi mới cơ chế kinh tế mà đại hội IX Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là:
Hình thành về cơ bản thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nội dung chủ yếu là tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; hình thành
tương đối đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước.


10

Đến Đại hội X – Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Để hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là
nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Về nội dung, cần tiến hành đồng thời cả ba mặt:
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước…

- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh…theo hướng đồng bộ, có cơ
cấu hoàn chỉnh;
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh
doanh.
Đại hội XI – Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng
cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
bao gồm:
1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nên kinh tế thị trường…
2. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp…
3. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường…
4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


11

Như vậy, việc quản lý nhà nước về kinh tế bằng pháp luật do Đảng,
Nhà nước đề ra là phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Các Luật do Quốc hội ban hành quy định nhiệm vụ của Bộ Công Thương
trong việc kiểm tra, kiểm soát thị trường và đã được Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công thương giao cho Quản lý thị trường thực hiện
bao gồm: Luật tổ chức Chính phủ năm 2001; Luật cạnh tranh năm 2004 ( các

quy định về xử lý hành chính các hành vi cạnh tranh không lành mạnh); Luật
thương mại năm 2005; Luật bảo vệ môi trường năm 2005; Luật tiêu chuẩn và
Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật chất lượng sản phẩm , hàng hóa năm
2007; Luật An toàn thực phẩm năm 2010; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
sùng năm 2011.
- Các Luật, Pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
quy định trực tiếp thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Quản lý thị
trường, bao gồm: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; Luật xử lý vi phạm hành năm
2012.
- Các Nghị định do Chính phủ ban hành quy định thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính của lực lượng Quản lý thị trường, bao gồm 40 Nghị dịnh
của Chính phủ như sau: Nghị định 185/2013/ NĐ – CP năm 2013 Quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số
97/2010/ NĐ – CP năm 2010 xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp; Nghị định số 54/2009/ NĐ – CP năm 2009 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng
sản phẩm, hàng hóa; Nghị định số 104/2011/ NĐ – CP năm 2011 quy định xử
phạt vi phạm hành chính về kinh doanh xăng dầu; Số 105/2011/NĐ – CP quy


12

định xử phạt vi phạm hành chính về kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng; số
107/2008/ NĐ – CP quy định xử phạt hành chính các hàn vi đầu cơ, găm
hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại; số
06/2009/ NĐ – CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh rượu và thuốc lá….
- Các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy
định lực lượng quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách kiểm tra, kiểm

soát thị trường, đấu tranh chống các hành vi đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và
buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái pháp luật ở thị trường trong
nước; được trang bị đồng phục, biển hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, thẻ kiểm tra thị
trường, sử dụng công cụ hỗ trợ, phương tiện chuyên dùng phục vụ công tác
kiểm tra; có tiêu chuẩn, ngạch, bậc công chức Quản lý thị trường, bao gồm:
Nghị định 10/CP năm 1995; Nghị định 27/2008/ NĐ – CP; Nghị định
204/2004/ NĐ – CP; Quyết định 19/2009/QĐ – TTg; Quyết định
127/2001/QĐ – TTg; Quyết định 28/2008/QĐ – TTg…
1.3. Cơ sở thực tiễn:
Hưng Yên là tỉnh đồng bằng sông Hồng, giao thông thuận tiện, là cửa
ngõ của thủ đô Hà Nội, việc giao lưu vận chuyển hàng hóa giữa thủ đô Hà
Nội với các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và các tỉnh phía nam rất
đa dạng.
Kinh tế trong tỉnh phát triển, các hoạt động thương mại, dịch vụ diễn ra
phong phú và đa dạng, các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh phát triển
không ngừng. Tính đến hết năm 2014, số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là
trên 5.000 doanh nghiệp, số hộ kinh doanh là trên 20.000 hộ. Khả năng trong
những năm tới số doanh nghiệp và hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh tiếp tục
tăng lên.


13

Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ mới phát triển
nhiều, kinh doanh nhiều lĩnh vực, sự hiểu biết về pháp luật trong kinh doanh
còn hạn chế dẫn đến nhiều vi phạm. Đặc biệt, một số doanh nghiệp, hộ kinh
doanh còn cố tình vi phạm quy định của pháp luật.
Trong thời kỳ nền kinh tế mở cửa, để đảm bảo cho các doanh nghiệp,
các hộ kinh doanh nắm bắt được các quy định của pháp luật và đảm bảo hoạt
động theo đúng quy định của pháp luật, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển,

góp phần phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh. Vấn đề đặt ra là phải tăng cường
quản lý các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nhằm thiết lập trật tự kỷ cương
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ , tạo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra
trong giai đoạn tới là cần phải nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát của lực
lượng quản lý thị trường Hưng Yên.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Xây dựng lực lượng quản lý theo yêu cầu chính quy, tổ chức chặt
chẽ, phù hợp với Nghị quyết số 12/NQ – TW ngày 03 tháng 01 năm 1996 của
Chính phủ
- Đảm bảo chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất trong việc thực hiện
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về quản lý thị
trường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức và công tác quản lý thị
trường, đồng thời phù hợp với chương trình cải cách hành chính của Chính
phủ.
- Đáp ứng vai trò lực lượng chủ trì trong công tác kiểm tra, kiểm soát
thị trường, củng cố lực lượng, nâng cao năng lực thực thi công vụ, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao trong thời kỳ mới, đấu tranh có hiệu quả đối với


14

các hành vi buôn lậu, buôn bán hàng cấm, sản xuất, buôn bán hàng giả và các
hành vi vi phạm pháp luật khác trên thị trường.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ năm 2015 đến năm 2020 cần thực hiện các mục tiêu:
- Xây dựng phương án tổ chức bộ máy lực lượng quản lý thị trường
Hưng Yên nhằm kiện toàn công tác tổ chức cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt giữ
cương vị lãnh đạo cấp chi cục, cấp phòng, đội quản lý thị trường, biên chế,

trang thiết bị, cơ sở vật chất của Chi cục.
- Bố trí, xắp xếp cán bộ, công chức quản lý thị trường theo vị trí việc
làm, biên chế và cơ cấu ngạch công chức, thực hiện nghiêm túc quy chế luân
chuyển cán bộ hàng năm đã được lãnh đạo chi cục phê duyệt.
- Xây dựng kế hoạch hàng năm trong việc đào tạo, đào tạo lại về pháp
luật, nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường cho công chức quản lý thị
trường, chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong
quá trình đào tạo
- Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho doanh
nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Mở rộng giao lưu, hợp tác, chia sẻ
thông tin đối với các ngành chức năng, chi cục quản lý thị trường trên phạm
vi toàn quốc.
3. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG KIỂM TRA, KIỂM SOÁT THỊ TRƯỜNG CỦA CƠ
QUAN QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG HƯNG YÊN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.
3.1.

Bối cảnh thực hiện đề án.


15

Trong các năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau như sự phối kết
hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của một số kiểm soát viên chưa theo kịp yêu cầu. Đặc biệt là điều kiện cơ sở
vật chất, phương tiện làm việc và nhân lực thiếu nên việc duy trì phối hợp liên
ngành chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại cũng như công tác
kiểm tra, hướng dẫn các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, thương mại theo
quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế. Quy trình nghiệp vụ kiểm tra, kiểm

soát, xử lý, thiết lập hồ sơ vụ việc chưa được các Đội Quản lý thị trường tuân
thủ nghiêm ngặt.
Thực thi chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường là lực lượng kiểm tra
kiểm soát chuyên nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ còn gọi là Quản
lý thị trường.
Việc thành lập lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường chuyên nghiệp
là hết sức cần thiết bởi: 1, thị trường là một lĩnh vực hoạt động sôi động và
phức tạp, bao gồm nhiều loại hoạt động, nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội
đan xen, cả hợp pháp và phi pháp, do hàng triệu cá nhân và tổ chức thuộc
nhiều thành phần kinh tế tham gia, kể cả tổ chức sản xuất, kinh doanh nước
ngoài, diễn ra trên khắp mọi miền của đất nước, có liên hệ ngày càng nhiều
với thị trường nước ngoài…2, để đảm bảo thực thi các chính sách và pháp
luật của Nhà nước về thương mại, dịch vụ, một lĩnh vực hoạt động có tính
chuyên ngành; bảo đảm duy trì trật tự kỷ cương đối với các hoạt động trên thị
trường.
Ngoài lực lượng chuyên nghiệp của cơ quan Quản lý thị trường còn có
một số cơ quan nhà nước trong thực thị chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của
mình có khả năng và điều kiện kết hợp, phối hợp kiểm tra và phát hiện các


16

hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thương mại, buôn bán
hàng hóa trên một địa bàn nhất định. Đó là các cơ quan, tổ chức sau:
- Lực lượng Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển là lực lượng
hoạt động tại các cửa khẩu biên giới, vùng biển nên có điều kiện và khả năng
kiểm tra kiểm soát chống kinh doanh, buôn bán, vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới, chống buôn lậu…
- Lực lượng cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và
chức vụ và trong một số trường hợp kể cả cảnh sát giao thông,trong hoạt động

của mình có điều kiện theo dõi, kiểm tra phát hiện hoặc điều tra kết luận các
hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, thương mại, nhất là các hành vi vi phạm
lớn có tính hình sự, phá hoại an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
- Lực lượng thuế vụ, trong quá trình kiểm tra bảo đảm thực thi nghĩa vụ
nộp thuế của thương nhân có thể phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thương mại, như kinh doanh trái phép…
- Các lực lượng thanh tra chuyên ngành, nhất là các ngành hàng có
nhiều đặc thù và do đó có những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn chất lượng
sản phẩm và điều kiện sản xuất kinh doanh như: thực phẩm, thuốc chữa và
phòng bệnh cho người, thuốc thú ý, thuốc trừ sâu bệnh thực vật, văn hóa
phẩm…
Như vậy, trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngoài lực lượng
chuyên nghiệp, cần có sự phối hợp hoạt động giữa lực lượng chuyên nghiệp
có tính thường trực này với các lực lượng khác có liên quan.
Hệ thống tổ chức bộ máy lực lượng quản lý thị trường Hưng Yên
- Vị trí chức năng : Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Hưng Yên là đơn vị
quản lý nhà nước chuyên ngành trực thuộc Sở Công thương. Có chức năng


17

giúp Sở quản lý Nhà nước và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động
thương mại trên địa bàn tỉnh.
Chi cục chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Công thương và sự chỉ đạo về
chuyên môn nghiệp vụ của Cục Quản lý thị trường.
- Nhiệm vụ và quyền hạn:
+ Kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các hoạt động thương mại, của
các tổ chức và cá nhân trên địa bàn tỉnh. Đề xuất với Sở Công thương và
UBND tỉnh kế hoạch, biện pháp về tổ chức thị trường, đảm bảo lưu thông

hàng hóa theo pháp luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt
động thương mại trên địa bàn tỉnh.
+ Xây dựng và trực tiếp chỉ đạo các Đội quản lý thị trường thực hiện
các kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thị trường và xử lý theo thẩm quyền các vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại.
+ Quản lý công chức, biên chế, kinh phí, trang bị, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cho lực lượng Quản lý thị trường ở
địa phương.
+ Thường trực giúp Giám đốc Sở Công thương chủ trì tổ chức sự phối
hợp hoạt động giữa các ngành, các cấp ở địa phương có chức năng quản lý thị
trường chống đầu cơ buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép.


18

Ghi chú:
Quan hệ trực tuyến
- - - - - - - - - - - Quan hệ phối hợp
Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Hưng Yên được tách ra từ Chi cục
Quản lý thị trường tỉnh Hải Hưng tháng 1 năm 1997 với số cán bộ ban đầu 05,
trang thiết bị, điều kiện cơ sở vật chất chưa có. Sau 18 năm hoạt động, Chi
cục Quản lý thị trường tỉnh Hưng Yên từng bước ổn định cơ cấu tổ chức, xây


19

dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị làm việc, phục vụ cho công tác
kiểm tra, kiểm soát, ổn định thị trường trong tỉnh, tăng thu cho ngân sách nhà
nước.
3.2. Thực trạng thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của cơ

quan quản lý thị trường Hưng Yên( 2010 - 2014).
3.2.1. Diễn biến vi phạm pháp luật về quản lý thị trường trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên.
Trong những năm qua, thực hiện các quan điểm, mục tiêu và các chủ
trương, biện pháp lớn của Đảng và Nhà nước, với sự hướng dẫn, hỗ trợ, giám
sát của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và thị trường, các
hoạt động thị trường đã có những bước phát triển mới, tích cực, với sự tham
gia của nhiều chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; quan hệ giữa sản xuất và
thương mại được củng cố và phát triển theo hướng liên kết ngày càng chặt
chẽ ; hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú, đa dạng, dồi dào và được
mua bán tự do theo giá cả tương đối ổn định, hình thành theo các quy luật thị
trường và có sự điều tiết của Nhà nước khi cần thiết; chất lượng hàng hóa
ngày càng được nâng cao, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời
sống.
Bên cạnh những mặt tích cực, trên thị trường còn diễn ra các hoạt động
sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, các hành vi vi phạm pháp luật, như buôn
lậu, sản xuất – buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, gian lận thương mại
có nơi, có lúc những hành vi thuộc các đối tượng này ở mức rất nghiêm trọng,
diễn biến phức tạp về phương thức hoạt động, thủ đoạn đối phó cũng như
cách thức trốn tránh pháp luật, trốn tránh lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị
trường.
- Về buôn bán hàng nhập lậu:


20

Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới,cùng với việc mở rộng
hoạt động thị trường trong nước và hoạt động giao lưu kinh tế, buôn bán đối
ngoại thì hoạt động buôn lậu cũng diễn biến hết sức phức tạp. Hàng nhập lậu
thường được lưu chuyển, mua bán trên thị trường nội địa, có nhiều loại còn

được mua bán công khai trên thị trường. Hàng nhập lậu qua từng thời gian có
khác nhau, nhưng nhìn chung chủ yếu là những hàng cấm, hàng có thuế suất
nhập khẩu cao, nhất là vào thời điểm mặt hàng có biến động lớn về quan hệ
cung cầu và giá cả trên thị trường nội địa. Xuất khẩu có thể là gỗ quý, động
vật hoang dã, hải sản, có thời điểm xuất lậu gạo, đồ cổ, kim đá quý, ngoại tệ

Để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát và phát hiện của các lực lượng
kiểm tra chống buôn lậu trong quá trình tập kết, vận chuyển, tiêu thụ hàng
nhập lậu, đối tượng buôn lậu thường sử dụng nhà ở làm nơi tập kết, cất giấu
hàng, thậm chí còn là nơi bán và giao nhận hàng; xếp hàng lậu lẫn với hàng
hợp pháp trong khi vận chuyển hoặc bán hàng; sử dụng“ hóa đơn, chứng từ
hoặc tem quay vòng” để hợp thức hóa cho hàng lậu …
- Về sản xuất, buôn bán hàng giả.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy tham gia hoạt động sản xuất,
buôn bán hàng giả có đủ loại tổ chức và cá nhân thuộc tất cả các thành phần
kinh tế, kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, phần đông và phổ biến hơn cả là các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể. Có những tổ chức, cá nhân sản xuất,
buôn bán hàng giả gần như mang tính chuyên nghiệp.
Việc tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng, chủ yếu tập trung ở các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vì ở những nơi này trình độ dân trí thấp,
kém hiểu biết, lại có tâm lý thích hàng ngoại, giá rẻ nên dễ lừa gạt; hơn nữa ở


21

đây sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng thường chưa chặt chẽ,
có nhiều sơ hở nên dễ trốn tránh.
Hàng giả không chỉ được sản xuất trong nước, mà còn được móc nối tổ
chức sản xuất ở nước ngoài sau đó tìm cách đưa vào Việt Nam để tiêu thụ,

hoặc thậm chí được sản xuất ở trong nước rồi đưa qua biên giới để sau đó tìm
cách nhập trở lại vào nước ta với nhãn mác hàng ngoại dễ lừa gạt người tiêu
dùng.
- Về kinh doanh trái phép.
Hoạt động kinh doanh trái với các quy định của pháp luật, cụ thể là
kinh doanh không có đăng ký hoặc không đúng nội dung giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; không đúng hoặc không đủ các điều kiện quy định đối
với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện; không có hoặc không đúng nội
dung giấy phép trong trường hợp quy định phải có giấy phép riêng. Tuy quy
mô từng vụ việc kinh doanh trái phép thường không lớn, nhưng lại diễn ra
khá phổ biến và ở diện rộng nên có thể gây thất thu lớn về thuế cho Nhà
nước; mặt khác, đây là vấn đề trật tự kỷ cương, phép nước trong kinh doanh,
đồng thời cũng thể hiện văn minh thương mại, nên không thể bỏ qua hoặc
xem nhẹ những hành vi vi phạm này. Cần phải kết hợp việc thu thuế với việc
kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm; đồng thời, định kỳ hoặc đột xuất tiến
hành kiểm tra có chọn lọc về ngành hàng, địa bàn… để đánh giá đúng thực
trạng của tình hình và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
- Về gian lận thương mại và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Những hành vi gian lận thương mại trên thị trường những năm qua là:
+ Trong kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ
kế toán, chế độ hóa đơn, chứng từ như: Không mở sổ sách kế toán, hóa đơn,
chứng từ phản ánh không đúng thực tế trong hoạt động kinh doanh đã phát


22

sinh( sai giá, sai mặt hàng, không đúng số lượng…), sử dụng hóa đơn, chứng
từ không đúng loại Nhà nước quy định.
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy
định về hóa đơn, chứng từ hàng hóa lưu thông trên đường vận chuyển. Quay

vòng hóa đơn, chứng từ để hợp thức hóa hàng lậu.
+ Các vi phạm về ghi nhãn hàng hóa, dán tem hàng sản xuất trong nước
và hàng nhập khẩu ( đối với những mặt hàng quy định phải dán tem).
+ Vi phạm về bảo hành hàng hóa, dịch vụ thương mại: không thực hiện
bảo hành hàng hóa đối với những sản phẩm phải bảo hành hoặc đã tự công bố
bảo hành mà không thực hiện.
+ Vi phạm về khuyến mại, quảng cáo, viết đặt biển hiệu công ty, cửa
hàng, cửa hiệu…
+ Vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý giá cả: kinh doanh
không niêm yết giá hoặc thực hiện mua bán không theo mức giá quy định đối
với những mặt hàng do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định giá.
Ngoài ra, còn có các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, hành vi đầu cơ,
tích trữ hàng hóa gây hỗn loạn, mất ổn định thị trường để nâng giá thu lợi bất
chính; hoặc các hành vi của các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh
doanh thương mại và dịch vụ trái pháp luật Việt Nam…
3.2.2. Kết quả tồn tại, nguyên nhân hạn chế việc thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý thị trường.
Kết quả
Từ năm 1995 đến nay ( sau khi Nghị định 10/CP ngày 23- 01 – 1995
được ban hành), lực lượng Quản lý thị trường trong cả nước đã được tổ chức
lại và hoạt động theo những yêu cầu mới: Quản lý thị trường là lực lượng


23

chuyên trách, được tổ chức từ Trung ương đến huyện, có chức năng kiểm tra,
kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động
thương mại ở thị trường trong nước; đồng thời phấn đấu theo hướng đã được
xác định tại Nghị quyết 12 – NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị vể
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó ghi rõ: Xây dựng lực lượng quản
lý thị trường theo yêu cầu chính quy, tổ chức chặt chẽ.
Những năm qua, trong bối cảnh công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát
thị trường còn có nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ
còn nhiều bất cập, trật tự kỷ cương trong hoạt động thị trường chưa được tốt;
hoạt động buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, gian lận thương mại còn
diễn biến khá phức tạp song lực lượng quản lý thị trường đã làm được nhiều
việc quan trọng, có ý nghĩa thiết thực. Từ năm 2010 – 2014, lực lượng Quản
lý thị trường đã kiểm tra 5.818 vụ, trong đó xử lý 1.598 vụ, số tiền nộp ngân
sách nhà nước 9.017.212.000 đồng với các hành vi vi phạm: Kinh doanh
hàng cấm hàng nhập lậu 468 vụ , xử phạt hành chính 1.087.250.000 đồng;
hàng giả, hàng kém chất lượng 84 vụ, xử phạt 333.800.000 đồng; vi phạm về
đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá 148 vụ, xử phạt 162.000.000
đồng; vi phạm khác ( Trong đó bao gồm cả vi phạm về đăng ký kinh doanh)
880vụ, xử phạt 1.202.095.000 đồng, trị giá hàng tiêu hủy là hàng cấm, hàng
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là 1.753.000.000 đồng.
Tồn tại
- Trình độ của một số cán bộ còn chưa theo kịp với sự vận động của thị
trường ngày càng hội nhập sâu rộng với thị trường Quốc tế, đồng thời trong
quá trình kiểm tra, xử lý việc trao đổi thông tin giữa các Đội quản lý thị
trường chưa đồng thuận thành một khối thống nhất cũng như các hồ sơ vụ


24

việc vi phạm pháp luật chưa được rút kinh nghiệm triệt để làm cơ sở cho các
vụ việc về sau.
- Kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cho cán bộ công chức Quản lý thị
trường chưa được thường xuyên, căn bản, việc giao lưu học tập kinh nghiệm
trong công tác kiểm tra, xử lý giữa các tỉnh, công tác tuyên truyền phổ biến

pháp luật còn nhiều hạn chế. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan có chức năng
quản lý nhà nước về quản lý thị trường còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ.
- Chưa khắc phục triệt để tình trạng hàng nhập lậu bày bán công khai
và tràn lan trên thị trường. Tuy số lượng từng loại hàng bày bán không nhiều
nhưng rất khó xử lý mối quan hệ giữa ổn định thị trường và chống buôn bán
hàng nhập lậu.
- Thực trạng quay vòng hóa đơn chứng từ là khá phổ biến trên địa bàn
các huyện, thành phố, nhiều tuyến đường vận chuyển chưa được khắc phục.
Nhiều đối tượng đã lợi dụng các quy định chưa đồng bộ của Nhà nước để hợp
pháp hóa việc vận chuyển nhiều lần hàng nhập lậu bằng chứng từ bán hàng
tịch thu. Vì vậy, các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc làm rõ
số hàng đang vận chuyển có nằm trong lô hàng bán đấu giá hay không.
- Hiện tượng hợp pháp hóa hàng nhập lậu bằng tờ khai hàng miễn thuế
theo tiêu chuẩn, hàng quà biếu, hành lý xách tay, hàng từ cửa hàng miễn thuế
đang có chiều hướng gia tăng.
- Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không đủ điều kiện kinh doanh
đối với những mặt hàng kinh doanh có điều kiện vẫn còn tồn tại. Hiện tượng
sang chiết gas trái phép, kinh doanh xăng pha thêm dầu hỏa hoặc các loại
xăng khác có chỉ số ốc tan thấp hơn, gắn chíp điện tử, lừa dối khách hàng để
kiếm lời vẫn còn, nhưng khó phát hiện và xử lý do phải giám định hàng hóa
mà phí giám định lại cao.


25

- Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng quá hạn sử dụng, hàng
kém chất lượng vẫn còn tiếp diễn nhưng khó kiểm soát.
- Việc xử lý hàng tịch thu còn chậm, lúng túng. Hàng giả, hàng độc hại
chưa được tiêu hủy kịp thời do thiếu kinh phí.
Nguyên nhân

- Nguyên nhân khách quan:
+ Hưng Yên có địa hình tương đối thuận lợi cho hoạt động buôn bán và
vận chuyển hàng lậu, đồng thời cũng là trở ngại khó khăn cho công tác kiểm
tra, kiểm soát của các lực lượng chống buôn lậu nói chung và của lực lượng
Quản lý thị trường nói riêng.
+ Người tiêu dùng dễ chấp nhận hàng giá rẻ, “sính” hàng ngoại mà
không cần quan tâm đến nguồn gốc hàng nhập lậu hay hàng gian lận thương
mại, đặc biệt là không cần hóa đơn, chứng từ khi mua bán hàng tiêu dùng.
+ Hàng hóa của Việt Nam những năm qua tuy có phát triển nhưng nhìn
chung chưa thể cạnh tranh được về mẫu mã, chủng loại, chất lượng và giá cả
so với hàng ngoại, dẫn đến tình trạng nhiều mặt hàng nhập lậu lấn át chiếm
lĩnh thị trường trong nước.
+ Kinh phí và phương tiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường
chưa đáp ứng so với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; chính sách, chế độ đãi ngộ
với công chức Quản lý thị trường chưa tương xứng và phù hợp với hoạt động
của ngành, cụ thể : lực lượng Quản lý thị trường chưa có thang bảng lương
riêng, cơ chế thưởng chưa có tác dụng khuyến khích, động viên các lực lượng
chống buôn lậu.


×