Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIA ĐÌNH CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THỊ XÃ QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.38 KB, 55 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN THỊ ĐÔNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ
PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIA ĐÌNH CỦA
HỘI LIÊN HIỆPPHỤ NỮ THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2015-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


2
HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2015

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ
PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIA ĐÌNH CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2015-2020

Người thực hiện: Nguyễn Thị Đông
Lớp: Cao cấp lý luận chính trị- khóa 7, tỉnh Quảng Ninh
Chức vụ: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Quảng Yên


Đơn vị công tác: Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh
Người hướng dẫn: PGS,TS. Nguyễn Bá Dương


3

HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2015


4

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã
góp phần to lớn trong lịch sử dân tộc. Vai trò của phụ nữ Việt Nam được thể
hiện trong truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm
bảo vệ Tổ quốc; cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động, sản xuất xây
dựng đất nước. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những
người lao động trong xã hội, bằng lao động, sáng tạo của mình, họ đã góp
phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn
thể hiện vai trò của mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là trong
lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp sản xuất ra của
cải để nuôi sống con người. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai
trò sáng tạo nền văn hóa nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước
nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ
nữ.
Cùng với các tầng lớp phụ nữ cả nước, những năm qua các cấp Hội và
các tầng lớp phụ nữ trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã phát
huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình cụ thể hóa các chỉ tiêu, nhiệm vụ
công tác Hội, đặc biệt trong công tác “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia

đình” những năm qua đã có bước phát triển, bước đầu đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ ở địa phương. Với 50% dân số là phụ
nữ. Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Lao động nữ trên địa bàn thị xã
chiếm 42%, chủ yếu tập trung trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản, sản
xuất vật liệu xây dựng, các ngành nghề truyền thống... mặc dù điều kiện còn
khó khăn, song chị em luôn cố gắng thi đua lao động sản xuất, phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, luyện tay nghề, thi thợ giỏi... đã góp phần tích cực


5

trong việc ổn định sản xuất, tạo chuyển biến về quy mô, trình độ công nghệ,
nâng cao số lượng và chất lượng hàng hóa, mở rộng thị trường. Lao động nữ
trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã góp phần tích cực trong việc đạt
giá trị bình quân tăng 23,9%/năm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp của thị xã; Trong sản xuất nông nghiệp:
Với 49% lao động nữ, đây là lực lượng chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chuyển
dịch cơ cấu giống, mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, đóng góp quan trọng trong việc tăng giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng hàng năm của thị xã; Với số lao động nữ chiếm tỷ lệ cao
trong hoạt động dịch vụ, thương mại, tài chính, ngân hàng, bưu điện... chị em
luôn phát huy tài năng, trí tuệ, năng động sáng tạo mở rộng mạng lưới các loại
hình kinh doanh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn hội nhập,
phục vụ đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, công tác tham gia phát triển kinh tế - xã hội của Hội Liên
hiệp phụ nữ thị xã còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế: do chịu tác động lớn từ
những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước, tình hình lạm
phát và giá cả mặt hàng tiêu dùng tăng đột biến; vệ sinh an toàn thực phẩm.
vệ sinh môi trường chưa được kiểm soát; thiên tai dịch bệnh có nhiều diễn
biến phức tạp, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ Hội còn hạn chế...việc

triển khai các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình ở một số cơ
sở Hội còn chưa thực sự rõ nét, chưa tạo được sự tự tin trong việc đầu tư, áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh của phụ nữ trên địa bàn.Vai
trò của tổ chức Hội trong việc hỗ trợ phát triển một số doanh nghiệp do phụ
nữ làm chủ hoặc hỗ trợ các mô hình kinh tế làm giàu cho phụ nữ còn mức độ.
Hoạt động của các mô hình phát triển kinh tế của tổ chức Hội còn mang tính
nhỏ lẻ, các mô hình tổ/nhóm chưa nhiều, chủ yếu là quy mô hộ gia đình.


6

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và quá trình học tập, công tác và nghiên
cứu trong lĩnh vực liên quan đến công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia
đình, bản thân nhận thức sâu sắc về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
gia đình hiện nay; những tồn tại, hạn chế nêu trên cần phải có các giải pháp có
tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Chính
vì vậy tôi chọn Đề án “Nâng cao chất lượng công tác hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình” để làm đề án tốt nghiệp lớp Cao cấp lý luận chính trị
hành chính khoá 7, tỉnh Quảng Ninh.
2. Mục tiêu của đề án.
2.1. Mục tiêu chung
Đề án hướng vào việc nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình nhằm thực hiện mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo,
nâng cao đời sống cũng như đảm bảo quyền của phụ nữ trong gia đình và xã
hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện của Chính quyền đối
với công tác phụ nữ nói chung và công tác Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
gia đình nói riêng.
- Đảm bảo nguồn tín dụng hỗ trợ phụ nữ vay vốn phát triển kinh tế

(Nguồn vốn uỷ thác từ Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng nông
No&PTNT, các chương trình tài chính vi mô, Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế của Hội LHPN tỉnh, thị xã).
- Đảm bảo 70% phụ nữ ở thị xã được học nghề, tư vấn về chuyển giao
kỹ thuật – công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở Đề án
295/TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc
làm”.


7

- Tổng kết và xác định được mô hình kinh tế có hiệu quả và nhân rộng
cho những gia đình có điều kiện phù hợp với từng mô hình, kết nối sản xuất
với tiêu dùng hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm đạt trên 80%.
- Thực hiện tốt các phong trào “ Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế
gia đình”, “Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ”,“Phụ nữ làm kinh tế giỏi”.
- Nâng cao nhận thức, tạo quyết tâm cho hội viên phụ nữ trong việc
phát triển kinh tế gia đình, đảm bảo cuộc sống và quyền lợi của phụ nữ.
- Đến năm 2020 phấn đấu không có hộ nghèo, trên 30% hộ gia đình có
mô hình phát triển kinh tế ổn định, đời sống ở mức khá trở lên.
* Các chỉ tiêu chủ yếu:
- Hàng năm 100% cơ sở Hội và 90% trở lên chi hội triển khai thực hiện
chuyển giao khoa học kỹ thuật trong phát triển sản xuất; 86% hội viên, phụ nữ
được tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn kiến thức khoa học kỹ thuật.
- Xây dựng 03 mô hình điểm vào năm 2016. Hàng năm mỗi cơ sở Hội
xây dựng mới ít nhất 01mô hình phụ nữ phát triển kinh tế, làm giàu có hiệu
quả.
- 100% cơ sở Hội huy động được nguồn vốn giúp hội viên phụ nữ vay
vốn phát triển sản xuất, kinh doanh đạt bình quân 2,5 tỷ đồng/cơ sở/năm.
- Đến năm 2020 có 90% cơ sở Hội tổ chức được các lớp dạy nghề, tạo

việc làm cho lao động nữ.
- Kết nối với các Doanh nghiệp trên địa bàn giới thiệu trên 3 nghìn phụ
nữ trong độ tuổi lao động có việc làm.
- 100% hộ hội viên phụ nữ nghèo được Hội LHPN các cấp giúp. Mỗi
năm giảm 16% hộ nghèo là hội viên phụ nữ.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Giới hạn về đối tượng


8

Đề án tập trung giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng công tác hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế gia đình. Đối tượng là phụ nữ trong các hộ gia đình
trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Giới hạn về không gian
Đề án được xây dựng và tổ chức thực hiện tại các cơ sở Hội trên địa
bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh gồm 19 xã, phường.
3.3. Giới hạn về thời gian
Đề án được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2020.


9

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm hỗ trợ
Trong các từ điển Tiếng Việt khái niệm hỗ trợ được hiểu là sự giúp đỡ
hay giúp đỡ thêm của một tổ chức, cá nhân này đối với một cá nhân hay một

nhóm xã hội khác chưa đủ điều kiện để ổn định cuộc sống hoặc tiên hành hoạt
động nào đó.
* Phát triển kinh tế: Là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô
sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội.
* Khái niệm về gia đình, kinh tế gia đình:
- Gia đình: Là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau
bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan
hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải
qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế gia đình có những ảnh hưởng và
những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
- Kinh tế gia đình: Có thể hiểu kinh tế gia đình (kinh tế hộ gia đình) là
một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, trong đó các thành viên
có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh
khác do pháp luật quy định. Sự tồn tại của kinh tế gia đình chủ yếu dựa vào
lao động gia đình để khai thác đất đai và tài nguyên khác nhằm phát triển sản
xuất, thoát nghèo bền vững và vươn lên làm giàu chính đáng.
* Hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình của hội phụ nữ


10

Là quá trình tuyên truyền , hỗ trợ của hội phụ nữ các cấp đối với hôi
viên của mình về các mặt nhận thức, vốn, tư vấn lựa chọn mô hình kinh tế,
nâng cao chi thức và kỹ năng hoạt động nghề để phát triển kinh tế gia đình,
nâng cao vai trò của người phụ nữ.
1.1.2. Nội dung “Nâng cao chất lượng công tác hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình”.
Để nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình

cần tập chung vào giải quyết vấn đề chủ yếu sau:
- Nâng cao nhận thức, khát vọng phát triển kinh tế và làm giàu cho cán
bộ, hội viên, phụ nữ. Vận động phụ nữ tích cực học tập kiến thức khoa học,
công nghệ để áp dụng vào sản xuất phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế
của địa phương và nhu cầu của thị trường, tạo ra sản phẩm sạch, thân thiện
với môi trường, đảm bảo sức khỏe gia đình và cộng đồng.
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho hội viên, phụ nữ
về ý thức tự lực vươn lên thoát nghèo, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào
Nhà nước và sự hỗ trợ của cộng đồng.
- Quản lý hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế hiện
có. Đổi mới hoạt động cho vay vốn do Hội quản lý, tập trung ưu tiên hội viên
phụ nữ sau học nghề, hội viên đầu tư xây dựng các mô hình kinh tế, các thành
viên của tổ hợp tác sản xuất. Quan tâm nắm bắt để tư vấn, hỗ trợ cho hội viên
phụ nữ có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh đều có thể tiếp
cận nguồn vốn phù hợp, kịp thời.
- Khai thác, vận động các nguồn lực hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo và phát
triển kinh tế: nguồn lực vốn, kiến thức, công nghệ.
- Phát triển các loại mô hình tổ/ nhóm mới. Xây dựng mô hình phát
triển kinh tế gia đình điển hình, hội viên tiêu biểu trong công tác phát triển
kinh tế gia đình.


11

- Có biện pháp, hình thức phù hợp giúp hội viên nghèo thoát nghèo bền
vững.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Câu lạc bộ doanh nghiệp nữ trên
địa bàn, động viên hộ phụ nữ kinh doanh nhỏ lẻ tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ
tại địa phương.
- Thông tin tuyên truyền các gương điển hình trong các cấp Hội.

- Tổ chức các hoạt động trao đổi kinh nghiệm ( tham quan học tập) ở
những địa phương điển hình về phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong triển khai thực hiện
công tác Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng ta luôn xác định sự
nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy ngay từ khi ra đời Đảng đã quan
tâm chỉ đạo thành lập tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng xây dựng đất nước, Đảng luôn quan tâm chăm lo
đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đồng thời quan tâm phát huy vai trò của phụ
nữ trong mọi lĩnh vực, đặc biệt phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước, điều đó được thể hiện rất
nhiều trên Hiến Pháp, các văn kiện Đại hội Đảng, các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và trên luật pháp, chính sách của Nhà nước.
Trong từng giai đoạn và các nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng
đều có các Chỉ thị, Nghị quyết về công tác phụ vận như: Chỉ thị 37-CT/TW
ngày 16/5/1994 của Bộ chính trị về “Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong
tình hình mới” và Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị
về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


12

nước”. Bộ Luật Lao động đã dành riêng một Chương quy định các chế độ
chính sách về lao động nữ. Luật Bình đẳng giới nhằm tiếp tục thể chế hoá các
chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đồng thời góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ, xoá bỏ tình trạng
phân biệt đối xử về giới cũng như thu hẹp khoảng cách giới trên thực tế. Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình với một trong những quan điểm là bảo đảm
quyền con người, nhất là đối tượng yếu thế như phụ nữ, trẻ em và để đảm bảo
thực hiện cam kết quốc tế nhất là công ước về chống mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ - công ước CEDAW.
Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng ta luôn quán
triệt và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời kỳ
đổi mới là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội. Đại hội XI của
Đảng xác định: “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu kinh tế, nâng cao chất lượng hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện
đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Ngày 05/8/2008, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”;
Ngày 25/1/2008, Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị số 04/TTG về việc
tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương trình giảm nghèo; Ngày 4/6/2010,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về “Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010
– 2020”; Ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Ngày 26/2/2010, Thủ tướng


13

Chính phủ ký Quyết định 295/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ
học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015”.
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số
25-NQ/TU ngày 27/6/2007 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW
của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện

đại hoá đất nước; UBND tỉnh phê duyệt Kê hoạch tổng thể thực hiện Đề án
295/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về “Hỗ trợ phụ nữ, học nghề tạo việc
làm”; Ngày 6/1/2010 Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 24/QĐUBND phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Quảng
Ninh đến năm 2020.
Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh xây dựng
Chương trình hành động số 11-CTr/TU, ngày 14/11/2007 về thực hiện Nghị
quyết số 11/NQ-TW của bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Uỷ ban nhân dân thị xã Quảng Yên
ban hành Quyết số 995/QĐ-UBND ngày 25/9/2012 về Phê duyệt kế hoạch
tổng thể của Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã về triển khai thực hiện Quyết định
295/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạơ việc
làm”;
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 quy
định trách nhiệm của bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm
cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đề ra những chủ trương, Nghị quyết,
khâu đột phá: Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ
2012-2017 đã đề ra 1 trong 3 khâu đột phá thực hiện phong trào phụ nữ và
công tác Hội nhiệm kỳ 2012-2017 là “Tạo chuyển biến mới về chất lượng,
hiệu quả vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm,


14

giảm nghèo bền vững”. Đây là khâu đột phá thể hiện rõ quan điểm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động Hội và phát huy nội lực của phụ nữ trong phát
triển kinh tế. Thực hiện tốt khâu đột phá này là cơ sở để lồng ghép thực hiện
các nhiệm vụ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, góp phần
thực hiện an sinh xã hội. Cũng tại Đại hội XI, TW Hội đã phát động phụ nữ cả

nước thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” góp phần
xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh.
Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã đề ra một trong sáu
nhiệm vụ công tác trọng tâm công tác Hội nhiệm kỳ 2012-2017 đó là nhiệm
vụ “Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ
môi trường”.
Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh Quảng Ninh lần thứ X, nhiệm kỳ 20112016 đã đề ra các chỉ tiêu cơ bản và 6 nhiệm vụ trọng tâm, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm công tác Hội, đó là “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, bảo
vệ môi trường, giảm nghèo, làm giàu chính đáng”. Mục tiêu phấn đấu là
“Đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ phát huy tiềm năng, sức sáng tạo,
tích cực tham gia nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng tổ chức Hội
vững mạnh; thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của phụ nữ, thiết thực cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng
cao vị thế của phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ
trên các lĩnh vực, góp phần xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015”.
Nghị quyết Đại hội phụ nữ thị xã Quảng Yên nhiệm kỳ 2011-2016 đã
đề ra mục tiêu “ Đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ phát huy tiềm năng,
sức sáng tạo, tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ phát tiển kinh tế - xã hội.
Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh, thực hiện tốt vai trò đại diện,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp , chính đáng của phụ nữ, thiết thực cải thiện


15

đời sống vật chất, tinh thần ..., góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng
thị xã Quảng Yên giàu đẹp, văn minh, vì sự bình đẳng và phát triển của phụ
nữ”.
1.3. Cơ sở thực tiễn.
Trong những năm qua tỉnh Quảng Ninh nói chung và thị xã Quảng Yên

nói riêng chịu tác động lớn từ những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới
và trong nước: Kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn, thị trường trong nước thu
hẹp, sức mua giảm dần, hàng tồn kho lớn; một số doanh nghiệp bị giải thể,
đình đốn sản xuất, ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập và đời sống của người
lao động. Tình hình thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp và đời sống của các tầng lớp phụ nữ và toàn thể nhân dân.
Mặc dù vậy, những năm qua các cấp Hội phụ nữ thị xã Quảng Yên, tỉnh
Quảng Ninh đã đoàn kết, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo trong triển khai
thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Phụ nữ các cấp đề ra,
đặc biệt là nhiệm vụ “Hỗ trợ Phụ nữ phát triển kinh tế gia đình”. Bằng những
việc làm cụ thể, Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo
các cấp Hội trên toàn thị xã thống kê số phụ nữ trong độ tuổi lao động, rà soát
hộ nghèo, phân tích nguyên nhân nghèo để có giải pháp hỗ trợ hiệu quả. Qua
kết quả rà soát, trên địa bàn thị xã hiện có 32.909 phụ nữ, trong đó có 23.166
phụ nữ trong độ tuổi lao động (18 đến 55 tuổi), tính đến 31/12/2014 toàn thị
xã còn 511 hộ nghèo, trong đó số hộ nghèo có phụ nữ là 495 hộ, số hộ nghèo
do thiếu kiến thức, kinh nghiệm sản xuất là 225 hộ, số hộ nghèo do thiếu vốn,
thiếu tư liệu, phương tiện sản xuất là 750 hộ, từ kết quả khảo sát Hội Liên
hiệp phụ nữ thị xã lên kế hoạch cho từng hoạt động, quan tâm xây dựng mô
hình, khai thác các nguồn vốn, định hướng cho các mô hình hoạt động, từ đó
công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình đã đạt được những kết quả
bước đầu đáng khích lệ, có ý nghĩa thiết thực...


16

Song, trong quá trình triển khai thực hiện công tác “ Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế gia đình” của Hội Liên hiệp phụ nữ còn nhiều hạn chế, bất
cập: Quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, việc áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào đồng ruộng gặp khó khăn, bên cạnh đó lối canh tác cổ truyền,

năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém đã làm cho sản phẩm của
các hộ gia đình không tiếp cận được các siêu thị lớn; Tình hình các hộ kinh
doanh cá thể phi nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn, mặt bằng kinh doanh
của các hộ hiện nay chỉ khoảng gần 100m 2/hộ (trong đó chủ yếu là đất đai
sẵn có của gia đình), số vốn kinh doanh bình quân/hộ chỉ khoảng 40 triệu
đồng; Thị trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bị động, từ nhiều năm nay các
hộ gia đình làm nông nghiệp phải đối mặt với một thực tế là sản phẩm làm ra
khó tiêu thụ, đặc biệt vào thời điểm mùa vụ. Việc tiếp cận thị trường của các
hộ gia đình rất hạn chế do thiếu những kiến thức căn bản về kinh tế thị
trường, do đó sản phẩm của các hộ sản xuất ra dù chưa nhiều mà vẫn không
tiêu thụ được v.v...
Để đảm bảo phát triển bền vững trong việc giải quyết vấn đề an sinh xã
hội đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết, rất cần sự vào cuộc đồng bộ của các
cấp, các ngành, các đoàn thể và chính quyền địa phương, trong đó có tổ chức
Hội Liên hiệp phụ nữ. Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp
phụ nữ trên địa bàn thị xã, Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Quảng Yên cần đề ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
gia đình, nhằm thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển theo hướng bền vững,
đồng thời giúp cho các hội viên, phụ nữ nâng cao thu nhập, từng bước vươn
lên ổn định cuộc sống, làm giàu chính đáng, giúp chị em khẳng định được vai
trò, vị trí của mình trong gia đình, xã hội, từ đó thúc đẩy các phong trào của
Hội phụ nữ các cấp phát triển mạnh mẽ, tổ chức Hội ngày càng vững mạnh,


17

góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế- xã hội của thị xã Quảng Yên
nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
2. Nội dung thực hiện của đề án.
2.1. Bối cảnh thực hiện của Đề án

Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh được tái lập ngày 25/11/2011, trên
cơ sở toàn bộ đơn vị hành chính là huyện Yên Hưng trước đây, có diện tích tự
nhiên 314,12km2, dân số hiện nay là 13,74 vạn người, mật độ dân số 425
người/km2. Là thị xã ven biển nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của tỉnh Quảng
Ninh; phía Bắc giáp thành phố Uông Bí và huyện Hoành Bồ, Phía Nam giáp
huyện Cát Hải (thành phố Hải Phòng) và cửa Nam Triệu, phía Đông giáp
thành phố Hạ Long, phía Tây giáp huyện Thủy Nguyên (thành phố Hải
Phòng). Thị xã có 19 đơn vị hành chính (gồm 11 phường và 8 xã).
Thị xã Quảng Yên có vị trí nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ;
trên truyền vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ và nằm giữa 3 thành phố:
Hạ Long, Uông Bí, Hải Phòng. Vị trí của Quảng Yên rất thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội, giao lưu thương mại cũng như quốc phòng an ninh. Mặt
khác Quảng Yên có điều kiện thuận lợi để khai thác cảng cửa ngõ lạch huyện,
các khu công nghiệp, khu du lịch và dịch vụ nghỉ mát ven biển, đặc biệt có
tiềm năng lớn mở cửa giao lưu thương mại với các địa phương trong nước
cũng như quốc tế bằng đường biển và liên kết không gian kinh tế với các
thành phố Hạ Long, Hải Phòng để tạo thành trục kinh tế động lực ven biển
Hải Phòng - Quảng Yên - Hạ Long của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (hiện
nay đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng qua thị xã đang được thi công sẽ tạo
ra nhiều thuận lợi về giao lưu kinh tế, thu hút đầu tư vào thị xã. Đã có nhiều
dự án đã được triển khai đầu tư và rất nhiều dự án lớn đang được nghiên cứu
đầu tư.


18

Trong những năm qua, được sự quan tâm của tỉnh và của Trung ương,
cùng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã.
Kinh tế - xã hội của thị xã phát triển và đạt nhiều tiến bộ trên tất cả các lĩnh
vực.

Về Kinh tế: Tăng kinh tế đạt khá (11.3%), cơ cấu các ngành kinh tế tiếp
tục chuyển dịch đúng hướng. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 14,3 triệu
đồng (năm 2010) lên 32,2 triệu đồng/người (năm 2015). Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp và thương mại dịch vụ, trong đó lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng từ 32,2% (năm 2010) lên 47,4% (năm
2015); thương mại dịch vụ tăng từ 20,3% (năm 2010) lên 33,4% (năm 2015);
nông lâm nghiệp giảm từ 47,5% năm 2010 xuống còn 19,2% (năm 2015).
Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2015 ước thực hiện là 57,24 ngàn tấn
(tăng 3,8 lần so năm 2010).
Về ngành công nghiệp xây dựng: Công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư vào
khu công nghiệp Đông Mai, đầm Nhà Mạc, Nam Tiền Phong và các cụm công
nghiệp trên địa bàn thị xã được thực hiện tích cực. Một số dự án mới đầu tư
có quy mô lớn, đi vào hoạt động góp phần làm tăng giá trị nghành công
nghiệp. Dự án khu công nghiệp phía Bắc thị xã, đầm Nhà Mạc, Nam Tiền
Phong đang xúc tiến đầu tư. Các ngành, nghề tiểu thu công nghiệp truyền
thống như: Cơ khí, sửa chữa, đóng mới tàu thuyền giữ được tốc độ phát triển
tương đối ổn định. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp xây dựng tăng bình
quân 10,7%/năm.
Thương mại dịch vụ: Có tốc độ tăng trưởng cao, sản phẩm đa dạng,
chất lượng được nâng lên, tập trung đầu tư vào phát triển mạnh hệ thống chợ
trên địa bàn, đã thực hiện xã hội hóa đầu tư vào chợ Minh Thành, Phong Cốc,
Liên Vị vào hoạt động, phát huy hiệu quả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa bình


19

quân 21,6%/năm. Dịch vụ vận tải hành khách tiếp tục phát triển đáp ứng tốt
hơn nhu cầu lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân, giá trị sản xuất bình
quân đạt 9,9%/năm. Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án phát triển dịch vụ

đến năm 2020. Dịch vụ du lịch được phát triển thêm các tuyến du lịch, điểm
du lịch và sản phẩm du lịch mới. Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển
mạnh. Giá trị sản xuất tăng 24,8%/năm, hoạt động tín dụng ngân hàng phát
triển, mạng lưới mở rộng (tăng 4 chi nhánh so năm 2010). Giá trị tăng thêm
ngành thương mại dịch vụ đạt bình quân 18,6%/năm.
Sản xuất nông nghiệp: Đã quy hoạch được các vùng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa tập trung, khu chăn nuôi tập trung, khu giết mổ tập trung,
quy hoạch được 4 cánh đồng mẫu lớn, đầu tư hình thành 2 cánh đồng mẫu lớn
ở Phong Cốc, Sông Khoai. Mở rộng vùng sản xuất rau an toàn ở Cộng Hòa,
Tiền An, Sông Khoai (diện tích 220ha). Diện tích canh tác đạt giá trị kinh tế
cao là 1.800ha (tăng 800ha so năm 2010), tỷ lệ lúa năng xuất cao đạt 98%
diện tích cấy lúa. Một số mô hình chăn nuôi quy mô lớn ở Tân An, Hà An,
Minh Thành được mở rộng và phát huy hiệu quả, giá trị chăn nuôi tăng bình
quân 6,4%/năm. Khai thác thủy sản phát triển ổn định, phương tiện đánh bắt
xa bờ tăng; nuôi trồng thủy sản phát triển theo hướng công nghiệp, thâm canh,
bán thâm canh, đa dạng hóa sản phẩm có giá trị kinh tế cao và tăng giá trị lên
một đơn vị diện tích nuôi. Giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng bình
quân 3,8%/năm.
Về văn hóa xã hội: An sinh xã hội đặc biệt được chú trọng, tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 42%. Cơ cấu lao động đang có chiều hướng chuyển dịch
tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo toàn thị xã còn 1,2% (năm 2010 là 5,08%)
Quốc phòng an ninh, đối ngoại: tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đẩy
mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển. An


20

ninh chính trị tư tưởng, an ninh vùng tôn giáo, biển đảo và nông thôn được
giữ vững.

Với tác động tích cực từ tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, đã
tạo điều kiện cho các cấp Hội trên địa bàn thị xã trong việc xây dựng các mô
hình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, tạo thuận lợi cho hội viên, phụ
nữ về vốn, kiến thức phát triển sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ phụ nữ phát triển
sản xuất theo hướng hàng hoá, sử dụng hiệu quả đồng vốn để đầu tư vào
những cây trồng, vật nuôi, mang lại hiệu quả cao, nhiều ngành nghề mới xuất
hiện, dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với đối tượng phụ nữ, với từng cơ sở,
góp phần giúp phụ nữ phát triển kinh tế, giảm tỷ lệ hộ nghèo có phụ nữ và hộ
nghèo do phụ nữ làm chủ.
Bên cạnh những tác động tích cực, cũng còn những ảnh hưởng hạn chế,
tác động đến công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình trong các cấp
hội: thị trường, giá cả không ổn định, tình hình dịch bệnh, vệ sinh môi trường
chưa được kiểm soát ... phụ nữ không yên tâm đầu tư sản xuất; việc dồn điền
đổi thửa còn gặp khó khăn; công tác chuyển đổi cơ cấu, cây trồng, vật nuôi,
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng mô hình, tổng kết
đánh giá nhân rộng mô hình phát triển kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất
và dịch vụ nông thôn còn hạn chế; Công tác dạy nghề và giải quyết việc làm
cho lao động nữ còn nhiều bất cập...
Những thuận lợi cũng như những khó khăn, hạn chế nêu trên là những
nhân tố tác động lẫn nhau, ảnh hưởng đến hoạt động công tác Hội nói chung
và công tác Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình của Hội LHPN thị xã nói
riêng, Vì vậy đòi hỏi rất lớn vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã và
hệ thống Hội LHPN cơ sở phường, xã trong công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế gia đình.


21

2.2. Thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình”
của Hội LHPN thị xã Quảng Yên.

2.2.1. Khái quát về chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức Hội Liên
hiệp phụ nữ thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
* Chức năng của Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng
Ninh: Là tổ chức chính trị- xã hội thực hiện chức năng đại diện chăm lo bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng,
quản lý Nhà nước; Đoàn kết vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình
đẳng giới. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng
Ninh và Thị ủy thị xã Quảng Yên.
* Nhiệm vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng
Ninh: Tuyên truyền, giáo dục chính trị, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo
đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối ,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ
trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; Tham mưu đề xuất, tham gia
xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình và trẻ em; Xây dựng, phát triển tổ
chức Hội vững mạnh.
* Hệ thống tổ chức và cơ quan chuyên trách của Hội Liên hiệp Phụ nữ
thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh: Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh gồm 02 cấp: Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã; Hội Liên hiệp Phụ
nữ xã, phường ( gọi chung là cơ sở). Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở


22

là nền tảng của tổ chức Hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở quyết định thành

lập các chi hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ. Chi hội, tổ phụ nữ
sinh hoạt ít nhất ba tháng một lần.
Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh gồm 19 cơ
sở xã, phường và có 179 chi hội phụ nữ theo địa bàn khu dân cư. Tổng số
phụ nữ từ 18 tuổi trở lên là 32.909 người, tổng số hội viên phụ nữ do Hội
quản lý là 25.251 hội viên. 100% chi hội xây dựng được Quỹ hội, chi hội có
Quỹ cao nhất 120 triệu đồng, cơ sở Hội có quỹ thấp nhất là 20 triệu đồng.
2.2.2. Thực trạng hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức,
quyết tâm của phụ nữ phát triển kinh tế gia đình.
Trong những năm qua Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã Quảng Yên, Quảng
Ninh luôn xác định tuyên truyền là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
công tác tư tưởng, là động lực thúc đẩy hoạt các phong trào của tổ chức Hội,
nhằm chuyển tải đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, Nghị quyết các cấp tới cán bộ, hội viên phụ nữ, tạo nên sự thống
nhất và hành động trong toàn thể hệ thống Hội thị xã đến cơ sở.
Trong những năm qua các cấp Hội trên toàn thị xã đã bám sát định
hướng của Đảng để triển khai thực hiên công tác tuyên truyền, giáo dục hội
viên, phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là các chủ trương,
chính sách liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của phụ nữ, nhất là trong
lĩnh vực phát triển kinh tế như: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; Nghị quyết số 26-NQ/TW về “ Nông nghiệp- nông dân- nông
thôn”; Chỉ thị số 04/TTG về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương
trình giảm nghèo; Quyết định số 800/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia về “Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”;
Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Quyết định


23


295/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai
đoạn 2010-2015” và các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh Ủy, UBND tỉnh, Thị
ủy, UBND thị xã Quảng Yên về lĩnh vực phát triển kinh tế đối với tổ chức
Hội và những chính sách liên quan đến công tác an sinh xã hội tại địa phương.
Hình thức tuyên truyền được đa dạng, phong phú như: hội nghị, sinh
hoạt Câu lạc bộ, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt lồng ghép chi hội, giao lưu
mô hình, sân khấu hóa, in sao từ gấp, tờ rơi, tuyên truyền trên hệ thống phát
thanh của cơ sở v.v..
Kết quả: Trong những năm qua (từ 2011 đến nay) các cấp Hội đã tổ
chức được 32 hội nghị (cấp thị xã 7 hội nghị; cấp cơ sở 25 hội nghị) có 2.397
người tham dự; 91,2% chi hội tổ chức sinh hoạt lồng ghép tuyên truyền; tỷ lệ
hội viên, phụ nữ tham gia đạt 87%.
2.2.3. Thực trạng hoạt động hỗ trợ chuyển giao khoa học - kỹ thuật
trong công tác Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình.
Trong hoạt động hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, các cấp Hội trên
địa bàn thị xã đã chủ động phối hợp với chính quyền và các ngành chức năng
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên phụ nữ tích cực
tham gia chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ năm 2011 đến nay các cấp Hội trên địa
bàn đã tổ chức và phối hợp tổ chức được 335 lớp tập huấn về sản xuất, kinh
doanh, kỹ thuật chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh cho 19.107 lượt người.
Đồng thời tập trung hướng dẫn, vận động phụ nữ chuyển đổi cơ cấu trong sản
xuất nông nghiệp tạo nên hiệu quả kinh tế cao, tiêu biểu như: Hội phụ nữ xã
Sông Khoai, Phong Cốc vận động hội viên làm điểm quy hoạch dồn điền, đổi
thửa 4 cánh đồng mẫu lớn để đưa giống lúa mới vào sản xuất; tại phường
Yên Giang, Quảng Yên, Tiền An đưa giống Hoa cao cấp như Hoa Ly, Hoa
Hồng, Hoa cúc vào trồng thay thế những thửa ruộng trồng rau màu giá trị


24


năng suất thấp, cho thu nhập bình quân 120 triệu đồng/năm; Vận động hội
viên, phụ nữ ở xã Tiền An, Phường Cộng Hòa, xã Sông Khoai thành lập mô
hình sản xuất rau an toàn với diện tích 220ha; xã Liên vị, Hoàng Tân, Tiền
Phong, Yên Hải , Hiệp Hòa triển áp dụng tiến bộ khoa học đưa giống cua, tôm
vào nuôi trồng thủy sản cho giá trị kinh tế cao, thu nhập bình quân từ 150 đến
300 triệu đồng/năm v.v..
2.2.4. Thực trạng hoạt động hỗ trợ phụ nữ học nghề, giới thiệu việc
làm trong công tác Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình.
Công tác dạy nghề cho lao động nữ được cấp ủy, chính quyền thị xã
quan tâm. Trong những năm qua các cấp Hội đã chủ động phối hợp tổ chức
dạy nghề, giới thiệu việc làm cho phụ nữ, quan tâm đến đối tượng phụ nữ
nghèo, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ ở những địa bàn có diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi ... Hội Liên hiệp phụ nữ thị xã phối hợp với Trung tâm dạy
nghề của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, UBND thị xã và Phòng Lao động
Thương bình và xã hội thị xã tổ chức tập huấn cho cán bộ Hội cơ sở tiến hành
điều tra, khảo sát nắm nhu cầu học nghề của lao động nữ ở nông thôn, từ năm
2011 đến tháng 6/2015 tổng số phiếu phát ra 1.200 phiếu, kết quả có 1.187 lao
động nữ đăng ký và được tham gia học nghề ở 21 lớp với 7 nghề ( trong đó số
lớp học nghề phi nông nghiệp là 12 lớp, số lớp học nghề nông nghiệp là 9
lớp, với Nghề Kỹ thuật trồng nấm; nghề Nuôi trồng thủy sản; Kỹ thuật chăn
nuôi gia súc gia cầm; Trồng Rau; Trồng Hoa; Đan lưới; Kỹ thuật chế biến
món ăn). Số học viên tốt nghiệp 1.185/1187 học viên tốt nghiệp ( có 02 học
viên không đủ điều kiện thi do không đảm bảo số tiết học ở lớp Đan lưới và
lớp chế biến món ăn). Sau học nghề nhiều chị em phụ nữ đã tự giải quyết việc
làm, phát huy kiến thức, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và
chất lượng sản phẩm cho thu nhập ổn định. Đồng thời Hội Liên hiệp phụ nữ
thị xã chỉ đạo các cơ sở Hội duy các nghề truyền thống như làng nghề ở Hiệp



25

Hòa (làm bánh, bún); nghề làm bánh Gio, bánh Dày ở Nam Hòa, Phong Cốc;
nghề làm Nem chua, nem chạo ở phường Quảng Yên ...
Kết nối với các doanh nghiệp trên địa bàn giới thiệu 2.151 lao động nữ
vào làm việc tại các công ty, xí nghiệp đóng chân trên địa bàn như: Công ty
Vigracera, Công ty Thạch bàn xanh,Chi nhánh Công ty TNHH Yazaki, Công
ty da giày, các Công ty xây dựng v.v... thu nhập bình quân của người lao động
đạt 3.500.000đ/tháng.
2.2.5. Thực trạng hoạt động hỗ trợ vốn trong công tác Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế gia đình.
Thực hiện nhiệm vụ vận động phụ nữ phát triển kinh tế gia đình trong
những năm qua mặc dù khó khăn cả về nguồn lực và nhân lực, nhưng các cấp
Hội phụ nữ trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh vẫn luôn tích
cực trong việc tranh thủ các nguồn vốn vay và chủ động phối hợp với các
ngành chức năng ở địa phương triển khai các hoạt động chuyển giao khoa học
kỹ thuật, xây dựng mô hình kinh tế, vận động hội viên, phụ nữ mạnh dạn đầu
tư vốn phát triển sản xuất, chăn nuôi để giảm nghèo và nâng cao chất lượng
cuộc sống, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội địa phương. Việc hỗ
trợ vốn giúp phụ nữ phát triển kinh tế gia đình đã được triển khai đồng bộ
nhằm tăng cường mở rộng các nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn
sản xuất, kinh doanh của phụ nữ với nhiều hình thức khác nhau như: Vận
động, huy động tiết kiệm tại chi/tổ phụ nữ; Ký kêt chương trình phối hợp với
Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng NN&PTNT tín chấp cho hội viên
vay vốn; Tranh thủ các nguồn vốn từ chương trình tài chính vi mô và Quỹ Hỗ
trợ phụ nữ phát triển kinh tế của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, với các chương
trình hỗ trợ:



×