Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

CÁO tật THỊ CHÚNG của Mãn Giác Thiền Sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.91 KB, 6 trang )

ÁO TẬT THỊ CHÚNG(Có bệnh bảo mọi người)
- Mãn giác thiền sư Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch nghĩa:
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
Bài kệ: “Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác thiền sư
(1052-1096) ra đời vào những năm đầu thế kỉ X thời nhà Lý. Giai đoạn được coi là
có tính chất mở đầu đặt nền móng cho văn học trung đại Việt Nam trên ba bình
diện: văn tự chữ viết và tư duy nghệ thuật. Thế kỉ X – XIV là giai đoạn đầu tiên
của chế độ phong kiến. Những người cầm quyền khi đó vừa dựa vào tôn giáo bản
địa vừa tiếp thu ba thứ tôn giáo bên ngoài: “Nho Phật Lão” để xây dựng nhà nước.
Do đó văn học mở ra nhiều phương diện về nội dung tạo được tiếng nói đa dạng và
phong phú. Khi đi vào bài kệ có thể thấy không chỉ Phật giáo mà các tôn giáo khác
như Nho giáo Lão giáo cũng ảnh hưởng không nhỏ về mặt tư tưởng. Tư tưởng
“Tam giáo đồng nguyên” đã cung cấp thế giới quan sự cảm nhận về thế giới; đồng
thời chi phối hệ thống hình tượng thể loại và phong cách biểu hiện. Đây là một bài


kệ được làm khi Mãn Giác thiền sư đang mang bệnh sắp rời xa cuộc đời. Nói cách
khác đây là một hình thức di ngôn của nhà thiền sư về lẽ sống chết của con
người.Nổi bật trong bài kệ là mối quan hệ giữa mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân
đất trời đặc trưng cho tư duy thơ của ý thức hệ Phật giáo đặt trong mối tương quan


với Nho giáo và Lão giáo. Với Mãn Giác thiền sư mùa xuân của đất trời có thể
kiến tạo mùa xuân đời người. Vì thế hãy nhìn sự vật cũng như những biến đổi của
thời cuộc ở trạng thái an nhiên nhất. Điều này phù hợp với quan điểm của văn học
trung đại cho rằng: sự vật là bất biến nhân quả.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Bốn câu đầu của “Cáo tật thị chúng” được viết dựa trên cấu trúc đăng đối: Xuân
khứ - xuân đáo bách hoa lạc – bách hoa khai: đối cả về ý về thanh điệu và cấu tứ.
Hai câu thơ sau tính chất biền ngẫu rõ và chặt chẽ hơn: Quá – lai khiến cho ý
“khứ” “đáo” ở trên được lặp lại hai lần xoay vần. Những động từ bình thường ấy
đã mang lại cái mang mác vô biên tính tương khắc tương nhập cấu trúc vận hành
bất tận của vũ trụ. Đó chính là lý thuyết về Dịch trong Khổng giáo chi phối nhân
sinh quan và vũ trụ quan Phương Đông. Trời vừa là tự nhiên xoay vần trong vòng
sinh hóa vừa có ý chí. Quan niệm về lẽ thường của Khổng Tử gắn với quan niệm
thuyết thiên mệnh. Thiên mệnh trong Nho giáo nhằm chỉ tính chất khách quan mà
sức người không thay đổi được. Như vậy tuy thiên mệnh là cái không thay đổi
được nhưng hiểu được sự biến hóa diễn biến trong vũ trụ khiến cho mọi vật sinh
trưởng được một cách điều hòa. Từ đó sẽ khiến cho con người không nên trái nó
cũng không nên sợ nó. Điều chính yếu trong quan niệm của Khổng Tử về thiên
mệnh về ý trời về sự vật xoay vần tạo hóa chính là mối quan hệ Thiên – Địa –
Nhân và vai trò đặc biệt của con người trong nguyên lý “Tam tài” này. Con người
không thể tự tạo tự sinh tồn. Do đó thiên giữ vai trò là phụ mẫu (thiên chi phụ
mẫu) còn Địa là vạn vật chi mẫu vấn đề sinh tử của con người chỉ có thể hiểu và
giải quyết trong sự tương quan của con người với Trời và Ðất: "Không phải Ðạo
làm con người lớn song chính con người mới làm sáng Ðạo”.Mang tư tưởng
Khổng Tử vào bài kệ có thể thấy hoa nở cũng là đạo mà hoa rụng cũng là đạo.
Thiên nhiên trong “Cáo tật thị chúng” hiện ra chung chung như một quy luật hiển
nhiên.Người đời yêu hoa nở hắt hủi hoa tàn thường nghĩ đến “khai” trước “lạc” chi

bằng hãy đón nhận nó bằng sự tàn úa để hiện thực hóa khát vọng hồi sinh trong


vòng luân hồi của sự sống. Để cuộc hóa sinh vì thế mà trở nên nhẹ nhõm hơn tươi
tắn hơn. Mãn Giác thiền sư chỉ bằng việc đảo trật tự tư duy thông thường đã tạo
nên một vòng tuần hoàn đầy chất gợi mở. Một mặt vẫn bình thản trước vòng xoay
của tạo hóa mặt khác lại ngầm gợi đến niềm hi vọng sự chờ đợi rằng: trong cái an
nhiên ấy cái sau sẽ tốt đẹp hơn cái trước. Chỉ có điều không thể trốn tránh không
thể phủ nhận quá trình sinh hóa của vạn vật. Có nở ắt có tàn. Con người không thể
thoát khỏi dòng chảy ấy. Đó là kết quả của việc tin rằng trong vũ trụ có một luật
biến hóa nào đó có thể tìm hiểu được với một thái độ thuần triết. Như vậy với triết
lý Khổng giáo trời có ý chí lại vừa là cái lí vô hình có khi ta hiểu nổi có khi ta
không hiểu nổi.Ý thức hệ “tam giáo đồng nguyên” của đời Lý cũng được nhà sư
thấm nhuần. Trong những dòng kệ có cả triết lý thâm sâu của nhà Phật vũ trụ quan
Dịch của triết học Trung Quốc: “Sinh sinh chi vị dịch” (từ âm dương biến hóa ra
vạn vật sinh sinh ra mãi gọi là dịch) phong thái của Lão Trang lạc nhiên tri mệnh
(vui với thiên nhiên hiểu mệnh) của Nho gia. Theo Phật sự sống của người ta quyết
không phải chỉ trong một thời kỳ mà vì nghiệp lực là sự tồn tục vô thủy vô chung
và thích ứng với tính chất của nghiệp con người sinh vào nhiều cảnh ngộ và dưới
những hình trạng sinh vật khác nhau: đó là thuyết “y nghiệp luân hồi” (samsara –
lưu chuyển).Phật giáo còn cho rằng sinh mệnh do nhân duyên cấu tạo mà chủ
trương vô-ngã-luận. Trang Tử thì nói: Bên này” cũng là “Bên kia”. “Bên kia” cũng
là “Bên này”. Cốt tuỷ đích thực của đạo là khi “bên này” “bên kia” không còn mâu
thuẫn nữa. Chỉ cái cốt tuỷ này như một cái trục là tâm điểm của vòng tròn và trả lời
mọi thay đổi không ngừng”. Trong mọi biến dịch Đạo giáo thấy đó là hiện thân của
sự tác động hai cực âm dương và như thế họ tin rằng trong mọi cặp mâu thuẫn hai
đối cực tương tác lên nhau một cách năng động. Trong bài thơ nó tương ứng với nở
và tàn sinh và diệt sống và chết. Sự biến dịch này không nên xem là hệ quả của
một lực mà là khuynh hướng chung bao gồm mọi vật và tình trạng. Sự vận động
của đạo không phải do ai tác động mà thành mà là khuynh hướng hồn hậu tự nhiên.

Nguyên lý tác động trong Đạo giáo là sự hồn nhiên và vì con người cũng phải
thuận theo Đạo nên sự hồn nhiên là một đặc tính của hành động con người. Thuận
theo thiên nhiên mà làm đối với Đạo giáo có nghĩa là làm một cách hồn nhiên tùy
thuận tự tính. Đạo giáo cho rằng cần tin theo trí tuệ trực giác nằm sẵn trong đầu óc
con người cũng như qui luật của biến dịch nằm sẵn trong mọi xung quanh chúng
ta. Đặc biệt với Phật giáo thiền tông cái sắc thân đều vô nghĩa phải nhìn thẳng vào
nó. Sống là chết chết là sống. Chính vì thế phải nhìn nhận được vòng tuần hoàn của
cuộc đời một cách nhẹ nhõm điềm nhiên nhất. Chỉ hai câu thơ của Mãn Giác thiền
sư mà đã mang ý vị triết luận thấm nhuần tư tưởng “Nho-Phật-Lão” hiểu thấu lẽ
thường của đất trời của cuộc đời. Con người thường đi tìm cái vô hạn oán ghét trời
đất đã tạo ra cái hữu hạn để sinh ly tử biết nuối tiếc những gì đã qua. Hai câu kệ
của Mãn Giác thiền sư cho thấy rằng: cái vô hạn nằm ngay trong cái hữu hạn trong
tử có sinh trong sinh có tử tất cả nằm trong vòng tròn của Đạo. Hiểu được điều này


người ta sẽ không còn mê đắm trước những gì đang tới đau đớn trước những gì sẽ
qua trước cuộc sinh ly tử biệt. Ấy là tư tưởng rất đặc trưng cho phạm trù văn học
trung đại nói chung và thời kì văn học Lý Trần nói riêng. Tư tưởng an nhiên trước
thời cuộc này sẽ còn được lặp lại nhiều lần trong những tác phẩm về sau kể cả
những tác phẩm thuộc nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ngay cả khi mà đạo Phật
không còn giữ địa vị độc tôn và Nho học đã đi vào thời kì suy thoái. Mãn Giác
thiền sư an lòng sống với cái hằng thường nhắc nhở người ta về vòng tuần hoàn
của cuộc đời để đừng lo lắng đừng lo lắng sợ hãi hay kinh ngạc trước nó.Mãn Giác
thiền sư lấy thiên nhiên làm thước đo cho con người sự tuần hoàn của thiên nhiên
tất yếu kéo theo vòng xoay của con người:
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Hai câu thơ giữa trong bài kệ của Mãn Giác thiền sư gợi nghĩ đến những câu thơ

của thiền sư Vạn Hạnh trong bài “Thị đệ tử” cũng với triết lý Phật giáo:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Lấy sự vật thiên nhiên làm thước đo Vạn Hạnh cũng như Mãn Giác muốn nói với
con người ta rằng: Kiếp người thật ngắn ngủi sự hiện hữu của mỗi con người trên
thế giới này chẳng qua chỉ là nhất thời thoáng qua như tia chớp như giọt sương
sớm mai treo trên đầu ngọn cỏ. Nên giữ cho mình cái mình cái bình thản trước
vòng quay luân hồi của “Sinh lão bệnh tử”. Trong cái vô thường mà nhận ra cái
thường hằng vĩnh cửu sống trong an lạc nhẹ nhàng mà mỉm cười trước đổi thay khi
đó là đạt đạo. Thơ văn của các nhà Nho xưa dù mang tư tưởng xuất thế hay nhập
thế đều giữ cho mình sự giao hòa với thiên nhiên đất trời để đứng vững không lấy
làm kinh sợ trước sóng gió cuộc đời. Nói riêng thơ Thiền cũng vậy. Dù có miêu tả
sắc thân tịch diệt thì vẫn giữ trong thơ trong mình một tâm hồn yên tĩnh đến kì lạ.
Con người trong Phật giáo thiền tông cũng là con người: “Dĩ bất biến ứng vạn


biến”: làm chủ trong mọi biến ảo. Vì thế Mãn Giác thiền sư nói đến vòng quay
“lão” của đời người cũng chỉ như một bước xoay vần của tạo hóa. Câu kệ có man
mác buồn nhưng chủ yếu như một tiếng thở dài nhẹ và sâu. Từ triết luận về mùa
xuân đất trời – xuân đời người về lẽ sinh tử “Cáo tật thị chúng” đã kiến tạo một
vòng xoay khép kín: Sinh - lão - bệnh - tử sinh - trụ - dị - diệt bằng hình ảnh của
một nhành mai âm thầm khẳng định sức sống vô biên và vĩnh hằng:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Mãn Giác thiền sư đã kết “Cáo tật thị chúng” bằng hai câu thơ thất ngôn phá cách
không đăng đối mà ngắt nhịp khác biệt ở câu cuối cùng: Đình tiền/ tạc dạ/ nhất chi

mai. Một câu thơ không có động từ không bị làm hẹp nghĩa bởi chữ: “khai” (nở)
đáng ra phải có theo nguyên tắc để đối với động từ “lạc” ở trên.Cây mai chính là
biểu tượng của vẻ đẹp kín đáo thanh cao dịu dàng. Mai cũng là loài cây đứng đầu
trong tứ hữu của người xưa. Câu thơ mượn hình ảnh cành mai không phải một
bông mai nở một cây mai mà chỉ là một cành mai đêm qua ở sân trước. Sau sự hủy
diệt là bất diệt. Mùa xuân lại được tiếp nối vĩnh cửu. Sự sống con người được lặp
lại. Mùa xuân đất trời tái tạo mùa xuân đời người thanh khiết hơn đẹp đẽ hơn.
Đúng như Khổng Tử đã dùng “thiên địa vạn vật nhất thể” (trời đất vạn vật đều có
cái lý ấy cả tất là cùng đồng một thể) để làm thống kê cho học thuyết của mình. Cái
lý nhất thể ấy lưu hành khắp trong vũ trụ theo cái lẽ tương đối tương điều hòa mà
sinh sinh hóa hóa. Vậy cái lý ấy là cái nguyên nhân của sự sinh hóa trong vũ
trụ.Cách Mãn Giác thiền sư hàng thế kỉ Chế Lan Viên cũng có những câu thơ thật
đẹp viết về vòng luân hồi cuộc đời mang đậm tư tưởng Phật giáo thiền tông trong
văn học trung đại:
Anh tồn tại
Không bằng tuổi tên mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
Nhành mai Mãn Giác vẫn hiện hữu ở đó từ “đêm qua” và qua đêm vẫn còn nguyên
vẹn đó. Còn nhành mai đó thì vẫn còn xuân đến xuân đi còn có hoa nở hoa rụng.
“Nhất chi mai” xuất thần đã trở thành biểu tượng cho tâm thế yên nguyên. Ấy là


cái thường trong cái vô thường. Đó là chân như tưởng như hiếm có trong cuộc đời.
Và như vậy bên ngoài vẻ hằng thường bình thản trước thời cuộc số mệnh là tâm
hồn còn thiết tha còn gắn bó nhiều lắm với cuộc đời này của thiền sư. Đó cũng
chính là một trong những nét đẹp sâu sa trong tư tưởng của các tác giả trung đại.

“Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người) là một bài kệ. Như đã nói ở trên
tác phẩm mang hình thức di ngôn. Văn học trung đại có nhiều thể loại văn học
như: chiếu hịch cáo thơ phú... Trong đó phần lớn thơ đời Lý là kệ. Đây cũng là một

hình thức gián tiếp của việc nói chí tỏ lòng và văn dĩ tải đạo thi dĩ ngôn chí những
đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam . Tuy nhiên yếu tố tải đạo được thể hiện
một cách sâu sắc ngầm ẩn trong hình thức rất giản dị của một bài kệ. Bởi đó là
chiêm nghiệm của cuộc đời một con người đã đạt đến mức đắc đạo an nhiên với
cuộc đời. Đồng thời đây cũng là lời nhắn nhủ của Mãn Giác thiền sư.Nét đẹp của
bài kệ là: Bài kệ được viết trước lúc lâm chung nhưng lại không mang cảm giác về
cái chết và sự hữu hạn của đời người. Đặt trong tương quan văn hóa Phương Đông
có thể thấy dấu ấn đậm nét của các tư tưởng Nho Phật Lão trong “Cáo tật thị
chúng”. Điều làm nên giá trị của bài kệ chính là từ sự kết hợp chắt lọc các nguồn tư
tưởng này: thuyết luân hồi của Đạo Phật nguyên lý biến đổi thuận theo tự nhiên
của Đạo giáo nhưng lại không thuần tư tưởng “vô vi tịch mịch” – không thích gì
đến sự đời. Cành mai Mãn Giác vẫn đẹp vẫn tươi tắn rạng ngời bất kể thời gian đổi
thay hoa vẫn nở sau khi đã tàn héo rơi rụng đời người lại chờ đợi được tạo sinh
trong một vòng tuần hoàn mới. Có được điều đó phải chăng là sự thẩm thấu của tư
tưởng Nho giáo về đạo trời đất theo cái chung mà biến hóa luôn làm cho mỗi ngày
một mới hơn một tốt hơn đó là cái đức thịnh của đất trời: “Nhật tân chi vị thịnh
đức”. Sự biến hóa ấy do một âm một dương sinh sinh hóa hóa mãi ra theo đạo ấy
mà đi là thiện thành được đạo ấy là tính. Và con người đắc đạo ấy con người đúng
với cái tên Mãn Giác thiền sư – nhà thơ ý thức đầy đủ nhất hẳn sẽ nở nụ cười viên
mãn bước tiếp hành trình bất tận của mình./.



×