Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sáng kiến mô tả giải pháp một số phương pháp nâng cao hiệu quả sử dụng di sản trong dạy học âm nhạc ở trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.05 KB, 16 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐỒNG KHỞI

MÔ TẢ SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.

Mỏ Cày Nam, tháng … năm 2016


MÔ TẢ GIẢI PHÁP

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
hóa vật thể (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế
hệ khác.
Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá
trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là nguồn cung
cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục.
Bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài liệu về lý luận
dạy học, giáo dục chung, đại cương và tài liệu về lý luận dạy học bộ môn hầu như
chưa đề cập đến điều kiện, phương tiện dạy học là các di sản văn hóa. Gần đây
trong phong trào thi đua xây dựng nhà trường thân thiện, học sinh tích cực, một
trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho Học sinh (HS) tham gia chăm


sóc các di sản, chủ yếu là các di tích mang tính lịch sử của địa phương. Việc khai
thác các di sản văn hóa ở địa bàn nhà trường đóng như là nguồn tri thức, là phương
tiện dạy học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có thường mang tính tự
phát. Vì vậy, vai trò và thế mạnh của những di sản văn hóa phong phú, ở địa
phương chưa được khai thác đúng mức để sử dụng trọng dạy học và các hoạt động
giáo dục của nhà trường.
Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập
của HS trở nên hấp dẫn hơn, HS hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư
duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS. Ý nghĩa, vai trò của các di
sản văn hóa
Các di sản văn hóa sử dụng trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao
tính trực quan giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng
liên quan đến bài học tồn tại trong di sản. Tiếp cận với di sản, HS sử dụng hệ thống


tín hiệu thứ nhất (sử dụng các giác quan như mắt - nhìn, tai nghe, mũi – ngửi, tay sờ,…) để nghe được, thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu được những
kiến thức cần thiết từ di sản. Những hình ảnh, vật dụng trong bảo tàng sẽ không chỉ
giúp các em có thêm hiểu biết mà còn tác động sâu sắc đến tình cảm của các em.
Ngoài ra, các giá trị có trong di sản còn được Giáo viên (GV) khai thác bằng cách
đặt các câu hỏi mang tính định hướng hoặc gợi ý cho HS tìm hiểu chúng qua đó di
sản được sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận thức của HS.
Những gợi ý đó giúp cho hoạt động tham quan trở nên có ý nghĩa hơn và làm cho
bài học trở nên sống động hơn.
Căn cứ vào đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc, căn cứ vào mục tiêu và
thời lượng của môn học. Căn cứ vào đặc điểm tiếp thụ âm nhạc của học sinh đại
trà, chương trình môn âm nhạc trường THCS được cấu trúc dựa trên những
nguyên tắc: Lấy Học hát làm trọng tâm, học Nhạc lí- Tập đọc nhạc để nâng cao,
coi trọng truyền thụ những kiến thức âm nhạc phổ thông, tất cả nhằm xây dựng và
phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc để hình thành một trình độ học vấn âm nhạc
phổ thông. Cấu trúc chương trình môn học âm nhạc gồm 3 phân môn: Học Hát,

Nhạc lí - Tập đọc nhạc và Âm nhạc thường thức. Đặc biệt, căn cứ vào:
- Luật Giáo dục, Điều 5. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục: “Kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại”.
- Khuyến nghị của UNESCO: “Khuyến nghị về bảo vệ văn hóa truyền
thống và văn hóa dân gian”. Chính vì vậy Bộ Giáo dục và Đào Tạo đã có công văn
liên ngành số 73/HDBGD&ĐT- BVH-TT&DL ngày 16/1/2013 giữa Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo, Bộ Văn Hóa-Thể Thao và Du Lịch về: Sử dụng Di sản trong dạy học
ở trường phổ thông các môn học: Lịch sử, Địa lí và Âm nhạc. Trong hướng dẫn
nhiệm vụ năm học 2013-2014 Bộ GD&ĐT cũng hướng dẫn các Sở GD&ĐT triển
khai nhiệm vụ, trong đó có nội dung Sử dụng Di sản trong dạy học.
Di sản văn hóa có ý nghĩa nhất định đối với quá trình dạy học, giáo dục. Tuy
nhiên muốn sử dụng chúng có hiệu quả, người GV phải chú ý tuân thủ một số yêu


cầu trong chuẩn bị các điều kiện thực hiện dạy học với di sản và triển khai hoạt
động dạy học với di sản.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
a/ Mục đích của giải pháp:
- Thực tế trước đây khi bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn
chung các tài liệu về lí luận dạy học bộ môn âm nhạc hầu như chưa đề cập đến các
điều kiện, phương tiện dạy học là các Di sản văn hóa. Gần đây trong phong trào
xây dựng nhà trường thân thiện, học sinh tích cực, một trong những hoạt động
được đặt ra là tổ chức cho học sinh tham gia chăm sóc các Di sản , chủ yếu là các
di tích mang tính lịch sử của địa phương. Việc khai thác các Di sản văn hóa ở địa
bàn nhà trường như là nguồn tri thức, là phương tiện dạy học, giáo dục ít khi được
quan tâm hoặc nếu có cũng chỉ mang tính tự phát. Vì vậy vai trò, thế mạnh của
những Di sản văn hóa đa dạng, muôn hình muôn vẻ ở địa phương gần như chưa
được ngành Giáo dục biết đến và tận dụng.
- VD trong tiết học âm nhạc phần Âm nhạc thường thức lớp 6: Sơ lược

dân ca Việt Nam, giáo viên vẫn cho các em nghe những bài dân ca, dân vũ.
Nhưng chưa nhấn mạnh tô đậm hát Quan Họ ở Bắc Ninh- Bắc Giang, các em
không được nghe giới thiệu đầy đủ các làn điệu dân ca khác, không được tìm hiểu
về hình thức âm nhạc truyền thống hát Ca Trù ở Hà Nội. Hoặc khi giới thiệu bài:
Âm nhạc thường thức lớp 8: Một số nhạc cụ dân tộc. Giáo viên có cho học sinh
xem, quan sát, hình ảnh Cồng, Chiêng, đàn T'rưng v..v nhưng chưa chú trọng vào
“Không gian văn hóa Cồng- Chiêng Tây Nguyên”, chưa được xem biểu diễn sinh
hoạt văn hóa Cồng, Chiêng Tây Nguyên – là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại được UNESCO công nhận năm 2005.
- Di sản văn hóa phi vật thể là cái vô hình, chỉ được lưu truyền và biểu
hiện bằng hình thức trình diễn - truyền miệng như các làn điệu dân ca, nhã nhạc
cung đình, không gian văn hóa cồng chiêng… Nghe và thẩm thấu chứ không nhìn
thấy được. Là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và
không gian văn hóa liên quan, nên di sản văn hóa phi vật thể thể hiện một bản sắc
riêng không hòa lẫn vào đâu được. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh sinh tồn với


quy luật cuộc sống có những di sản văn hóa đứng trước nguy cơ mai một, thất
truyền. Ca trù là một hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo nhưng ít ai nối gót theo
nghề, hát Xoan, còn xa lạ ngay trên chính mảnh đất mà nó sinh ra. Những trò
chơi dân gian vào các dịp lễ tết đang thưa vắng dần và ngày một lùi xa vào quá
khứ. Tất cả như những hồi chuông đang lên tiếng báo động về “sự ra đi thầm lặng”
của những báu vật tinh thần. Trong lúc đó không thể phủ nhận vai trò và sức bền
của Di sản văn hóa đối với việc hình thành nhân cách và trí tuệ con người đặc biệt
góp phần hoàn thiện những giá trị cao đẹp về chân - thiện - mỹ.
Sử dụng Di sản trong dạy học sẽ giúp thế hệ trẻ có cái nhìn đúng đắn hơn về
những giá trị văn hóa dân tộc, hình thành và nâng cao ý thức trân trọng, giữ gìn và
bảo vệ các tài sản người xưa để lại.
b/ Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp:
* Những nhược điểm của giải pháp cũ:

- Học sinh chưa có hiểu biết nhất định về những giá trị của các Di sản, vì thế
sẽ không có ý thức gìn giữ, bảo vệ các Di sản của đất nước.
- Không tạo được hứng thú trong học tập, không giúp cho quá trình học
của học sinh hấp dẫn hơn. Hạn chế trong phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, phát
triển một số kĩ năng sống cho học sinh
* Tính mới của giải pháp:
Di sản văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta. Đối với giáo dục, việc sử dụng di sản trong dạy học ở trường
phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên
hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc
lập sáng tạo, giáo dục truyền thống, lòng yêu quê hương, đất nước, giáo dục tư tưởng,
đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh góp phần giáo dục toàn diện học sinh. Nhà
trường phổ thông vừa có trách nhiệm giáo dục nâng cao nhận thức cho HS về di
sản văn hoá, góp phần bảo vệ di sản văn hoá. Việc sử dụng di sản văn hoá để dạy
học mang lại những kết quả tích cực vừa có giá trị ở phương pháp giáo dục kiến
thức phổ thông theo quy định của chương trình, vừa nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của HS đối với di sản văn hoá.


- Di sản là phương tiện để hỗ trợ các nội dung trong chương trình Âm nhạc
hiện hành, chứ không phải dạy về di sản. Như vậy nội dung chương trình, chuẩn
kiến thức, kĩ năng của môn Âm nhạc không thay đổi, chỉ thay đổi về phương tiện
dạy học...
- Việt Nam có nhiều di sản, nhưng trong dạy học Âm nhạc ở THCS, chủ yếu
là dùng 6 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, được UNESCO công nhận: Nhã
nhạc cung đình Huế (2003), Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2005),
Dân ca quan họ Bắc Ninh – Bắc Giang (2009), Ca trù (2009), Hát xoan (2011),
Đờn ca tài tử Nam Bộ (2013).
c. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp:
Có nhiều hình thức sử dụng Di sản trong dạy học khác nhau, nhưng đặc

trưng nhất trong việc sử dụng Di sản trong dạy học âm nhạc ở trường phổ thông đó
là:
1. Sử dụng Di sản dạy học trên lớp:
Đây là hình thức sử dụng Di sản trong dạy học dễ thực hiện hơn cả, có
khả năng thực thi rất hiệu quả. Để thực hiện giờ dạy, giáo viên có tìm hiểu kĩ nội
dung bài dạy, tìm hiểu và chọn lọc những tài liệu nào thuộc về di sản liên quan và
có thể phục vụ cho bài dạy. Tài liệu về Di sản đóng vai trò là một nguồn kiến thức
góp phần bổ sung, cụ thể hóa, làm phong phú hơn nội dung bài học. Ngoài các
kênh hình có sẵn trong SGK thì việc sưu tầm tài liệu về các Di sản vào dạy học là
điều cần thiết.
VD: Khi giới thiệu bài Một số nhạc cụ dân tộc (ÂNTT- lớp 8) giáo viên
ngoài thực hiện giải pháp cũ thường làm là giới thiệu cho học sinh biết một số nhạc
cụ dân tộc Việt Nam thì bây giờ giáo viên cho học sinh xem hình ảnh và nghe các
nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ dân tộc. Đặc biệt giáo viên giới thiệu đến các em Không
gian văn hóa Cồng, chiêng Tây Nguyên đã chính thức được UNESCO công nhận
là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Qua đó giáo dục học sinh có ý thức,
bảo vệ và gìn giữ các nhạc cụ dân tộc Việt Nam.
2. Dạy học tại Di sản:


Có một cách gọi khác là dạy học tại thực địa. Đó là cách tiến hành một
giờ dạy học tại nơi có Di sản hay (tại thực địa). Trong một năm, trong một Học kì
có thể tổ chức được 1, 2 tiết dạy học tại Di sản. Có thể gộp 4, 5 tiết trong một học
kì, dùng quỹ thời gian đó để tập trung chuẩn bị cho một giờ dạy tại Di sản. Giáo
viên cũng có những yêu cầu cụ thể và chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng,
kiến thức chuyên môn.
Đối với bài học có trong Sách Giáo khoa (SGK môn học âm nhạc thì bài
giảng tại Di sản cần bổ sung các tài liệu địa phương phù hợp bằng cách vừa giảng,
vừa kết hợp tổ chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu các hiện vật, chứng tích thực
địa có liên quan tới bài học. Hoặc sau khi giảng dạy xong nội dung bài học, giáo

viên tổ chức cho học sinh quan sát, tìm hiểu các loại tài liệu, hiện vật liên quan đến
bài.
VD: Khi dạy bài học Sơ lược dân ca Việt nam phần Âm nhạc thường thức
(ÂNTT) lớp 6. Giáo viên có thể giới thiệu thêm cho HS nắm được đờn ca tài tử
Nam bộ cũng là di sản được Unesco công nhận vào năm 2013. Qua đó giáo viên có
thể cho học sinh tham quan dàn đờn ca tài tử tại địa phương để các em có cái nhìn
rõ hơn về vai trò của bộ môn nghệ thuật này. Các em được nghe và quan sát các
nhạc cụ dân tộc hòa tấu với nhau như đàn nguyệt, đàn bầu, đàn nhị mà các em chí
nghe qua đĩa hoặc tranh ảnh, từ đó tác động đến các em, làm cho các em yêu thích
và có nhu cấu khám phá loại hình nghệ thuật này.
3. Sử dụng Di sản trong tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
Trong một năm học có những ngày lễ lớn của đất nước, những ngày kỉ
niệm, ngày truyền thống của quê hương, đất nước như: Ngày Quốc Khánh 2/9,
ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày thành lập QĐND Việt Nam 22/12…Giáo
viên có thể kết hợp tổ chức cho học sinh các hoạt động có thể theo từng lớp, theo
từng khối học, theo nhà trường…Chúng ta nên kết hợp với cán bộ phụ trách Đoàn,
Đội của nhà trường để tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động gắn liền với Di
sản địa phương. Thông qua các hoạt động này học sinh sẽ phát huy được tính tích
cực, sáng tạo trong học tập, nâng cao năng lực nhận thức và hứng thú học tập, khả
năng giao tiếp, khả năng tổ chức….Tuy nhiên đây là điều kiện khó (do chúng ta


cách xa các di sản), nó còn đòi hỏi phải có nguồn kinh phí lớn nhưng nếu tổ chức
được (Có thể chọn 1 khối cho từng năm) thì là hình thức giáo dục tốt nhất vì các
em có dịp quan sát trực tiếp các di sản.
Về phương pháp: Trong đổi mới phương pháp giáo dục phải luôn đề cao vai
trò hoạt động, chủ động của học sinh. Đó là dạy học theo hướng “phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học”. Theo từ điển tiếng Việt tích cực là “Chủ
động, hướng hoạt động” nhằm tạo ra những thay đổi, phát triển “hăng hái, năng nổ
với công việc”. Theo các nhà giáo dục học “Tích cực hóa” là một tập hợp các hoạt

động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối
tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học
tập. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ
yếu của giáo dục nhằm đạo tạo những con người năng động, thích ứng và góp
phần phát triển cộng đồng. Người ta có thể coi tính tích cực là một điều kiện, là kết
quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Tính tích cực học tập liên quan với động cơ học tập - động cơ sáng tạo ra
hứng thú, hứng thú là tiên đề của tính tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm
lí tạo nên tính tích cực. Phương pháp tích cực hướng tới hoạt động hóa,tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học. Tức là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học dưới sự điều khiển hướng dẫn, lãnh đạo của người dạy. Bởi vì phương
pháp dạy chỉ đạo phương pháp học. Nhưng thói quen học tập của học sinh cũng có
ảnh hưởng tới phương pháp dạy của thầy. Vì vậy giáo viên phải kiên trì dùng
phương pháp dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học
tập chủ động, vừa sức học sinh và nâng dần từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương
pháp phải có sự hợp tác thầy trò, sự phối hợp hoạt động dạy và học thì mới thành
công. Dạy học tích cực hay các phương pháp tích cực có dấu hiệu đặc trưng
là: Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh; dạy học


trú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể, phối hợp với
học tập hợp tác; kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
4. Một số phương pháp dạy học khi sử dụng, giới thiệu Di sản:
* Trình bày miệng:
- Lời nói giữ vai trò chủ đạo đối với việc giảng dạy của giáo viên và học
tập của học sinh. Việc trình bày miệng không chỉ giúp học sinh khôi phục hình ảnh
về nội dung bài học đang nghiên cứu mà còn giúp các em nhận thức sâu sắc kiến

thức, trình bày những suy nghĩ, hiểu biết trong nghiên cứu, tìm tòi.
- Có nhiều cách trình bày miệng: tường thuật, miêu tả, kể chuyện, giải
thích, v..v…
VD: Giáo viên giới thiệu cho học sinh biết được: Có đến 6 Di sản thế giới
ở Việt Nam gắn liền với sinh hoạt văn hóa và âm nhạc, đó là: Nhã nhạc cung đình
Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc NinhBắc Giang, Ca trù, hát Xoan Phú Thọ và Đờn ca tài tử Nam Bộ.
* Sử dụng đồ dùng trực quan:
- Đồ dùng trực quan hiện vật: Bao gồm những di tích văn hóa, di tích lịch
sử và cách mạng, những di vật khảo cổ hoặc di vật thuộc các thời đại lịch sử.
- Đồ dùng trực quan tạo hình: hình vẽ, phim ảnh,tranh ảnh…
- Sử dụng trao đổi, đàm thoại: Khi sử dụng tranh, ảnh về Di sản trong bài
học, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, nêu câu hỏi gợi mở để học sinh tìm
hiểu nội dung bài học, cuối cùng giáo viên đánh giá, chốt lại thành kiến thức. Khi
tham quan học tập, các em sẽ được tận mắt xem các nhạc cụ dân tộc như Trống,
đàn Đáy, đàn Nhị, Cồng, chiêng ...
VD2: Khi dạy bài Học hát Lí cây đa - lớp 7. Giáo viên có thể cho học
sinh xem hình ảnh các “liền anh, liền chị” hát quan họ, và nghe một vài trích đoạn
hát Quan họ, qua đó phân tích cho học sinh hiểu cách hát đặc trưng, cách thể hiện,
trang phục…làm sao để có thể nhìn vào là ta nhận biết đó là dân ca Quan họ.


- Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.VD: Sử dụng máy vi tính và
phần mềm Powerpoint góp phần đảm bảo tính trực quan trong dạy học.
Minh họa một tiết học có ứng dụng Di sản
Bài: Một số nhạc cụ dân tộc
Âm nhạc Lớp 8
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
- Kiến thức: Giới thiệu cho HS biết một số nhạc cụ dân tộc của Việt Nam:
Cồng, chiêng, đàn t’rưng, đàn đá. Biết được cấu tạo, phân biệt được hình dáng âm
sắc của các nhạc cụ.

- Thái độ: Giáo dục HS có ý thức tìm hiểu, bảo vệ và gìn giữ các nhạc cụ
dân tộc Việt Nam, biết cồng, chiêng là một trong những di sản thế giới tại Việt
Nam được Unesco công nhận.
- Kỹ năng: Rèn học sinh cách làm việc: Ghi chép, ghi hình, quan sát, tìm hiểu
nội dung từ di sản.
II. CHUẨN BỊ, THIẾT BỊ, TƯ LIỆU
1. Chuẩn bị của GV
- Nhạc cụ cần dùng...
- Một số hình ảnh hoặc hiện vật về các nhạc cụ dân tộc như: Cồng, chiêng,
đàn t’rưng, đàn đá.
- Máy nghe và băng, đĩa về hình ảnh các nhạc cụ dân tộc, hình ảnh các địa
phương có những nhạc cụ và hình ảnh các nghệ sĩ biểu diễn các nhạc cụ dân tộc.
2. Chuẩn bị của HS
Sưu tầm hình ảnh, tư liệu về các nhạc cụ dân tộc.
Có thể nghe trước các loại nhạc cụ dân tộc (nếu có điều kiện)
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức lớp:...
2. Kiểm tra bài cũ:...
3. Giới thiệu bài mới:...
4. Tổ chức các hoạt động dạy học:


HĐ của GV
GV ghi nội dung

Nội dung

HĐ của HS

Một số nhạc cụ dân tộc

- Giới thiệu bài
GV giới thiệu
+ Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời, HS lắng nghe
rất phong phú và độc đáo. Mỗi dân tộc,
mỗi vùng miền đều có một nền văn hóa
mang đậm bản sắc riêng.
+ Ngoài các làn điệu dân ca trên khắp
các vùng miền, Việt Nam còn có những
nhạc cụ độc đáo khác. Trong số những
nhạc cụ dân tộc phải nói đến đàn t’rưng,
đàn đá và cồng, chiêng của các dân tộc
Tây Nguyên, những di sản văn hóa đặc
sắc rất đáng tự hào của dân tộc Việt
Nam.
Vùng đất Tây Nguyên gồm năm tỉnh
là: Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk
Nông và Lâm Đồng.
Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ
thuật gắn với lịch sử văn hóa của các dân
tộc Tây Nguyên. Người dân Tây Nguyên
sử dụng cồng, chiêng theo cách thức riêng,
mỗi bộ tộc thường chơi những bản nhạc
của riêng mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào
đón năm mới, mừng nhà mới… Cồng,
chiêng Tây Nguyên trải qua bao năm tháng
và trở thành nét văn hóa đặc sắc của
vùng đất giàu truyền thống anh hùng.
GV giới thiệu
Với những nét văn hóa đặc trưng, năm HS quan sát
2005 Không gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên đã chính thức được Unesco công
nhận là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu của nhân loại.
GV mở băng, - GV cho HS xem một số tranh ảnh về HS lắng nghe


đĩa
GV chiếu tranh

GV hỏi

GV hỏi
GV giải thích

GV hỏi
GV giải thích

GV chỉ định

các nhạc cụ của Tây Nguyên như: Đàn
t’rưng, đàn đá, cồng, chiêng.
- Chiếu một số hình ảnh về các nhạc cụ,
cho HS nghe âm sắc của các nhạc cụ qua
băng, đĩa và hình ảnh các nghệ sĩ biểu
diễn các nhạc cụ đó.
- Các em đã được xem, hoặc nghe các
nghệ sĩ biểu diễn các nhạc cụ như: Đàn
t’rưng, đàn đá, cồng, chiêng bao giờ
chưa? Ở đâu?
- Ngoài ở Tây Nguyên, cồng, chiêng còn

có ở địa phương nào?
(Ở nước ta còn có một số dân tộc có sử
dụng cồng, chiêng, nhưng để được gọi là
văn hoá cồng chiêng chỉ có hai vùng:
Tây Nguyên và vùng người Mường ở
Thanh Hoá và Hòa Bình).
GV treo tranh, ảnh hoặc chiếu lên màn
hình hình ảnh về 3 loại nhạc cụ: Đàn
t’rưng, đàn đá, cồng, chiêng và đặt ra các
câu hỏi:
- Em hãy cho biết các nhạc cụ trên được
làm bằng chất liệu gì:
+ Đàn đá: Làm bằng đá
+ Đàn t’rưng: Làm bằng tre, nứa.
+ Cồng, chiêng: làm bằng đồng thau.
- Một em lên bảng chỉ vào hình vẽ đàn
đá và giới thiệu sơ qua về chất liệu chế
tạo, âm thanh, cách sử dụng.
- Một em lên bảng chỉ vào hình vẽ đàn
t’rưng và giới thiệu sơ qua về chất liệu
chế tạo, âm thanh, cách sử dụng.
- Một em lên bảng chỉ vào hình vẽ cồng,
chiêng và giới thiệu sơ qua về chất liệu

HS quan sát

HS trả lời

HS trả lời
HS nghe


HS trả lời
HS lắng nghe

HS lên bảng chỉ
và giới thiệu

HS lắng nghe


GV giới thiệu

GV hỏi
GV giải thích
GV hỏi

GV dặn dò

GV giới thiệu

GV giới thiệu

chế tạo, âm thanh, cách sử dụng.
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những
nhạc cụ truyền thống riêng của dân tộc
mình.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều nhạc cụ
khác nhau, phong phú và độc đáo. Và
cồng, chiêng Tây Nguyên là nhạc cụ đã
được Unesco công nhận là Kiệt tác di sản

văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của
nhân loại.
- Trong những nhạc cụ mà em biết, nhạc
cụ nào nào gắn liền với sinh hoạt văn
hóa và âm nhạc?
(Cồng, chiêng của Tây Nguyên)
+ Chúng ta cần có thái độ gì đối với các
di sản thế giới.
Chúng ta cần có ý thức tìm hiểu, bảo vệ
và tuyên truyền về các di sản thế giới tại
Việt Nam.
+ Các em về sưu tầm các hình ảnh về các
nhạc cụ cồng, chiêng, đàn t’rưng và đàn
đá. Tìm hiểu về đời sống văn hóa và các
lễ hội của dân tộc Tây Nguyên. Sưu tầm
các bản nhạc, các bài hát của các dân tộc
Tây Nguyên.
+ Cho HS xem một số hình ảnh về cồng
chiêng và giới thiệu một số tư liệu, bài
viết nhận định về cồng, chiêng Tây
Nguyên.
Di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên định hướng bảo tồn và phát huy
(Tư liệu)
Trong số 43 di sản của 46 quốc gia
được Unesco công nhận là Kiệt tác
truyền khẩu và di sản phi vật thể của
nhân loại đợt 3 công bố ngày 25-112005, có không gian văn hóa cồng

HS lắng nghe


HS trả lời
HS lắng nghe
HS trả lời

HS Ghi nhớ

HS nghe, quan
sát

HS lắng nghe


chiêng Tây Nguyên của Việt Nam.

Danh tiếng văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên từ nay đã vượt ra khỏi biên giới
quốc gia, trở thành tài sản của nhân loại.
Những giá trị đặc sắc của Không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, một
bộ phận của di sản và tinh hoa văn hóa
Việt Nam được cộng đồng quốc tế biết
đến và được tôn vinh. Di sản Không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của
Việt Nam đã hoàn toàn đáp ứng được
những tiêu chuẩn của một Kiệt tác truyền
khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại
do Unesco đưa ra.
Giá trị nổi bật của Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là nơi đây chứa
đựng những giá trị sáng tạo mang tầm

kiệt tác của nhân loại. Chủ nhân của
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là đồng bào các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên.
Một số hình ảnh về lễ hội cồng, chiêng
ở Tây Nguyên


5. Củng cố:
Dặn dò: Yêu cầu học sinh thực hành, viết thu hoạch.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp:
Qua các tiết dạy, khi áp dụng các phương pháp trên ở các lớp được phân
công giảng dạy tôi nhận thấy rằng:
- Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh:
Các di sản văn hóa dù là vật thật hay ảo (thể hiện qua tranh,ảnh, phim…)
sử dụng trong dạy học,giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan giúp người
học mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng liên quan đến
bài học tồn tại trong Di sản.
- Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức:
Di sản văn hóa là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn một số kĩ năng học
tập như: kĩ năng quan sát, thu thập, xử lí thông tin, thảo luận nhóm, qua đó tự
chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được. Thông qua Di sản có thể tiếp cận với nhiều
kiến thức của các môn học khác.
- Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh: Hứng thú nhận thức là
một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình
học tập. Thông qua Di sản các em có những hiểu biết thêm về Lịch sử đất nước,
lịch sử
- Phát triển trí tuệ của học sinh: Học sinh được tiếp cận Di sản đúng mục
đích, đúng lúc với những phương pháp dạy học phù hợp, với sự hướng dẫn chi

tiết mang tính định hướng, kích thích tư duy, giáo viên sẽ giúp học sinh phát triển


khả
năng quan sát, khả năng xử lí thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so
sánh, qua đó phát triển trí tuệ của các em.
- Giáo dục nhân cách học sinh: Di sản văn hóa là một trong những
phương tiện dạy học đa dạng, sống động nhất. Ẩn chứa trong Di sản là những
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
nên nó có khả năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân
cách của học sinh.
- Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh:
- Cụ thể qua các lần khảo sát về mức độ yêu thích các tiết học có ứng dụng
giới thiệu về di sản đã đạt được kết quả sau:
* Khảo sát lần 1: (HKII: năm học 2014 – 2015)
- Rất thích:

35%

- Thích:

50%

- Không thích

10%

- Không ý kiến

5%


* Khảo sát lần 1: (HKI: năm học 2015 – 2016)
- Rất thích:

70%

- Thích:

29%

- Không thích

1%

- Không ý kiến

0%

5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Không có.
6. Tài liệu kèm theo: Không
Tôi cam đoan những điều khai trong đơn là đúng sự thật.
Mỏ Cày Nam, ngày 19 tháng 2 năm 2016
Người viết
Lê Văn Ngộ



×