Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng đọc cho học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng trong giờ tập đọc ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.39 KB, 13 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:………………………..
Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng đọc cho học sinh theo Chuẩn kiến thức kĩ năng
trong giờ Tập đọc ở lớp 4.
1. Lĩnh vực áp dụng: Tiếng Việt Tiểu học
2. Mô tả bản chất của sáng kiến
2. 1. Tình trạng giải pháp đã biết
- Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
+ Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy đọc bên cạnh những
thành công vẫn còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được như


mong muốn, kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình
thành kĩ năng đọc. Các giờ tập đọc thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc
trơn, số lượng học sinh biết đọc diễn cảm tốt còn hạn chế.
+ Giáo viên Tiểu học còn lúng túng khi dạy tập đọc đồng thời những phương
pháp cụ thể hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học cũng rất ít được
quan tâm. Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài
văn, bài thơ thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng mới đó là “Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học
tập”.
+ Trước tình hình học tập của lớp, của học sinh. Một vấn đề đặt ra là phải
làm thế nào để giúp các em học tốt môn này?
- Ưu điểm của giải pháp cũ

+ Trong thời gian qua cũng như hiện nay, việc áp dụng các biện pháp rèn
đọc diễn cảm cho học sinh có tiến bộ. Học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng
tạo. Các em yêu thích môn học. Khi đọc bài thì tự tin, mạnh dạn chất lượng môn
Tập đọc ngày càng được nâng dần.
+ Nâng cao năng lực giảng dạy của giáo viên. Các giải pháp đã đưa ra được
sự đồng tình, ủng hộ của đồng nghiệp và của Ban giám hiệu. Dạy tập đọc theo
-1-


quan điểm đổi mới nội dung và phương pháp dạy học đã cung cấp cho học sinh
kiến thức, kĩ năng và thái độ cần thiết để giúp các em phát triển nhân cách thông
qua việc đọc văn bản bằng nhiều thể loại khác nhau, những nội dung thuộc nhiều

chủ điểm khác nhau, học sinh được mở rộng hiểu biết về văn hoá và văn học, giúp
cho các em có một công cụ tiếp nhận thông tin, học tập trong nhà trường và tự học
sau này. Giáo dục lòng ham đọc sách hình thành phong cách và thói quen làm việc
với sách của học sinh, thấy được rằng việc đọc có lợi cho các em trong cuộc đời,
đó là một trong những con đường đặc biệt để giúp các em học tốt và tạo cho mình
một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
- Nhược điểm của giải pháp cũ
+ Những năm qua được trực tiếp giảng dạy lớp 4, qua dự giờ thăm lớp của
các đồng nghiệp tôi thấy mặc dù giáo viên đã vận dụng đổi mới phương pháp dạy
học nhưng trên thực tế giáo viên vẫn còn coi trọng khâu tìm hiểu bài học, phần
luyện đọc diễn cảm hiệu quả ở học sinh chưa cao. Cụ thể, khi tôi dạy phân môn
Tập đọc, phần đọc diễn cảm còn có những tồn tại: Nhiều em đọc ngắt nghỉ sai; đọc

theo thói quen cá nhân; chưa hiểu rõ ngắt nghỉ ở đâu và như thế nào ? Nhất là
những câu văn dài các em ngắt nghỉ còn tuỳ tiện. Từ chỗ đọc chưa trôi chảy, ngắt nghỉ chưa đúng, tốc độ đọc còn chậm, hoặc nhanh nên kỹ năng đọc diễn cảm ở các
em rất thấp. Nhiều em chưa biết nhấn mạnh các từ ngữ cần nhấn giọng, đọc ngắt
nghỉ, đọc diễn cảm chưa tốt nên trong giọng đọc của các em chưa thể hiện tâm
trạng, tính cách của từng nhân vật trong bài tập đọc làm cho người nghe chưa cảm
nhận được sự khác biệt ở từng đoạn văn, bài thơ hay một vở kịch,…Từ đó khả
năng cảm thụ bài học, đọc diễn cảm bị hạn chế.
+ Trong giờ luyện đọc nhiều em chưa thực sự tự giác, hứng thú và tích cực
học tập. Nếu giáo viên quản lý chưa chặt chẽ thì một số em đọc qua loa hoặc chỉ
đọc một lượt rồi quay sang nói chuyện với bạn làm mất trật tự. Học sinh chưa
mạnh dạn xung phong đọc, một số học sinh diễn đạt đọc bằng ngôn ngữ của chính
mình còn ít, chưa chịu khó đọc theo ý đồ của tác giả qua mỗi bài tập đọc đã học.

Bên cạnh đó một số học sinh đã biết đọc diễn cảm hay và tốt thì lại bị một số bạn
chế giễu là "đọc điệu" dẫn đến học sinh rụt rè không đọc diễn cảm nữa. Việc chuẩn
-2-


bị cho việc đọc của học sinh chưa chu đáo. Đọc mẫu của giáo viên chưa thật sự thu
hút học sinh.
2. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
- Mục đích của giải pháp
Giúp học sinh đọc đúng tiến đến đọc hiểu. Qua các bài tập đọc, học sinh
được bồi dưỡng về nhiều mặt: Trao dồi kiến thức về ngôn ngữ, đời sống cũng như
giáo dục tình cảm, mĩ cảm, góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Đồng thời

còn giúp học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp, cách sử dụng từ chính xác, cách
đặt câu gọn gàng, phong phú, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn.
- Nội dung của giải pháp
+ Tiến hành thống kê các lỗi học sinh đọc sai, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra
biện pháp khắc phục. Tìm ra phương pháp dạy đọc tốt nhất để giúp học sinh học
tốt phân môn Tập đọc. Qua các bài tập đọc, học sinh được bồi dưỡng về kiến thức,
ngôn ngữ, tình cảm, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
+ Động viên khuyến khích sự tiến bộ của học sinh kịp thời để tạo hứng thú
cho các em trong học tập.
- Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp đang được áp dụng
+ Tìm hiểu khả năng đọc của học sinh, có kế hoạch dạy học phù hợp.
+ Thiết kế bài dạy, chuẩn bị tranh ảnh, phương tiện dạy học, nghiên cứu các

văn bản chuyên môn.
+ Hướng dẫn tư thế đọc của học sinh.
+ Xây dựng nề nếp, thói quen cho học sinh trong quá trình luyện đọc.
+ Vận dụng đa dạng các phương pháp dạy học, hình thức dạy học để hướng
dẫn học sinh đọc.
+ Rèn kĩ năng đọc cho học sinh giúp bản thân giáo viên có thể tự hoàn thiện
mình đồng thời tạo sự say mê hứng thú cho học sinh khi học môn Tập đọc.
+ Sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy: thiết kế giáo án điện tử, sưu
tầm tranh ảnh trên mạng để giải nghĩa từ, khai thác nội dung bài, liên hệ mở rộng
kiến thức; khắc phục tình trạng viết nhiều bảng phụ để hướng dẫn học sinh luyện
đọc câu dài, đọc diễn cảm; thực hiện trò chơi luyện đọc,...
-3-



- Cách thức thực hiện, các bước thực hiện của giải pháp mới
+ Đầu năm
Tôi gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm lớp cũ để tìm hiểu về chất lượng học tập của
học sinh. Khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại học sinh. Từ đó lên kế hoạch
dạy học và thiết kế giáo án cho phù hợp với thực tế lớp.
+ Công tác chuẩn bị
Thiết kế bài giảng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, các từ ngữ học sinh
có thể phát âm sai, câu dài cần hướng dẫn ngắt, nghỉ hơi, dự kiến câu trả lời; câu
hỏi phụ dẫn dắt và từ mới cần giải thích. Ngoài ra tôi còn luyện giọng đọc của
mình thật chuẩn, diễn cảm để làm mẫu cho các em.

+ Thực hiện dạy trên lớp
Hướng dẫn tư thế ngồi đọc, cách cầm sách, cách lấy hơi, tốc độ đọc, cường
độ đọc,…Lắng nghe học sinh đọc, phát hiện và sửa chữa kịp thời khi học sinh đọc
chưa đúng. Đặc biệt là những học sinh đọc còn yếu, phát âm chưa chuẩn, tôi
thường quan tâm sát sao hơn như gọi đọc thường xuyên, cho các em đọc nhóm đôi,
đọc thầm theo bạn, động viên khuyến khích kịp thời. Trong giảng dạy tôi luôn linh
hoạt kết hợp nhiều phương pháp dạy học, các hình thức luyện đọc (đọc thành tiếng,
đọc thầm, đọc tiếp nối, đọc nhóm đôi, đọc theo vai, thi đọc…)
+ Giáo viên nắm chắc các văn bản chuyên môn
Nội dung, chương trình sách giáo khoa theo Chuẩn kiến thức kĩ năng và
Công văn 5842/BGD - ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo; các nội dung lồng ghép.
Nghiên cứu kĩ các văn bản chỉ đạo chuyên môn để thực hiện đúng, chính xác. Quy

định đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư số 30 /2014/TT – BGD ĐT, ngày
28/8/2014.
+ Xây dựng lớp học có nề nếp, thói quen học tập
Trong một tiết tập đọc tôi luôn chú ý rèn cho học sinh kỹ năng đọc ngày
càng thành thạo: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Đây chính là: “Hai biện pháp dạy
đọc”.
Hai hình thức đọc này gắn bó chặt chẽ với nhau, đạt một mục đích cuối cùng
của đọc: Thông hiểu nội dung văn bản. Đọc thành tiếng bao gồm 4 mức độ: Đọc
-4-


đúng, đọc nhanh (lưu loát), đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn bản) và đọc

diễn cảm.
+ Chuẩn bị cho việc đọc: Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh. Khi
ngồi đọc cần ngay ngắn khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30-35cm, cổ và đầu
thẳng. Khi cô giáo gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Tư thế
đứng đọc phải ngay ngắn, đứng thẳng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm
bằng hai tay. Tôi luôn cho học sinh hiểu khi đọc thành tiếng các em đọc không phải
chỉ cho mình cô giáo nghe mà để cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe, nên cần
đọc đủ cho tất cả nghe rõ. Nhưng không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Đối
với học sinh đọc quá nhỏ “lí nhí”, tôi kiên nhẫn luyện và động viên các em đọc to
dần. Còn tôi mỗi khi có giờ Tập đọc, tôi cũng đã tập đọc bài văn, bài thơ nhiều lần
ở nhà để luyện giọng đọc diễn cảm và còn dự kiến được một số từ khó mà học sinh
có thể mắc phải.

+ Luyện đọc đúng: Đầu năm tôi đã phân loại để nắm được trình độ đọc của
học sinh, từ đó có kế hoạch luyện đọc cho từng em. Trước khi lên lớp, tôi dự tính
các lỗi học sinh lớp tôi dễ mắc, những từ, những câu khó lần trước chưa đọc tốt để
luyện. Luyện đọc đúng các âm đầu: cá rô, khoẻ khoắn, giành lấy, sóng vỗ... Đọc
đúng các vần khó: Chai rượu, con hươu, đêm khuya, lưu luyến… Phần luyện này
tôi kết hợp luôn trong lúc đọc cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”, (Sách TV4, tập 1, trang
4). Học sinh A đọc đoạn 1. Học sinh B nhận xét: bạn đọc chưa chính xác “chùng
chùng”, sửa lại là: “chùn chùn”, “vặn chân” sửa lại là: “vặt chân”... Tôi gọi học
sinh A đọc lại cho đúng. Đọc đúng bao gồm đúng cả tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi,
ngữ điệu câu. Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy,
nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Tôi dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách

ngắt nhịp đúng các câu.
Ví dụ: “Họ ngạc nhiên/ thấy một cậu bé lấy vành tai tác nước suối/ lên một
thửa ruộng cao bằng mái nhà.” (Bài: Bốn anh tài, TV4 - tập 2). Đối với những bài
thơ, ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Ví dụ: Bài “Chợ Tết”, (TV4, tập 2, trang 38), mỗi đoạn là 4 dòng thơ, mỗi
-5-


dòng thơ có 8 tiếng, nhịp thơ phổ biến là 3/5 và 5/3:
“ Dải mây trắng/ đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam/ ôm ấp nóc nhà gianh
…………

Họ vui vẻ kéo hàng/ trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ/ chạy lon xon”.
Với bài thơ lục bát “Ngắm trăng - Không đề (TV 4, tập 2, trang 137”, nhịp
thơ phổ biến 2/4 và 4/4:
“ Đường non/ khách tới/ hoa đầy
Rừng sâu quân đến/ tung bay chim ngàn
Việc quân/ việc nước đã bàn
Xách bương, dắt trẻ/ ra vườn hái rau.”
Đối với một bài thơ, đoạn văn, câu văn học sinh đọc cá nhân thành tiếng
chưa ngắt nghỉ hơi đúng, tôi cho một học sinh khác đứng tại chỗ hoặc lên bảng
đánh dấu lại chỗ ngắt, nghỉ hơi và cho học sinh đọc cá nhân nhiều lần. Học sinh
đều tham gia vào đọc thành tiếng. Tuỳ theo từng bài, từng mức độ đọc của học

sinh, tôi cho học sinh đọc 1 đến 2 lần câu văn, đoạn văn khó. Với bài thơ tôi cho
học sinh đọc cá nhân 1, 2 khổ thơ hoặc cả bài. Ngoài ra khi luyện đọc đúng, tôi còn
cho các em luyện đọc trong nhóm đôi, nhóm ba, … để tất cả học sinh trong lớp đều
được tham gia đọc.
+ Luyện đọc lưu loát: Tôi hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng
cách đọc mẫu để học sinh đọc thầm theo. Ngoài ra, tôi còn dùng biện pháp đọc tiếp
nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ: Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc đọc một khổ thơ, một đoạn
văn tôi đều nhắc cả lớp đọc thầm theo. Tôi còn gây hứng thú cho học sinh bằng
những trò chơi cuối giờ như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện... Kết thúc trò
chơi bao giờ tôi cũng cho học sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc nhanh nhất,
giỏi nhất và gợi ý rút kinh nghiệm cho lần chơi sau. Muốn học sinh đọc nhanh,

đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt, học sinh phải được đọc trước nhiều.
Em nào đọc chậm tôi phải giúp các em luyện thêm sau giờ học.
-6-


+ Luyện đọc có ý thức (Đọc hiểu): Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn
bản, hiểu văn bản thì trong việc dạy môn Tập đọc phải chú ý rèn luyện khả năng
đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 4.
Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì mới có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm
được. Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Sự thực thì
đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc thành tiếng từ
1,5 đến 2 lần. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả

đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ
những gì đọc được. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Tôi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài rồi đến rèn đọc diễn cảm.
Ví dụ: Dạy bài thơ “Chợ Tết” (TV4 - Tập 2) Sau khi học sinh tìm hiểu nội
dung bài: Cảnh chợ Tết miền trung du có nhiều nét đẹp về thiên nhiên, gợi tả
cuộc sống êm đềm của người dân quê. Tôi tiến hành cho học sinh luyện đọc lại
bằng cách gọi bất kì I em nào đọc, sau đó hỏi cách đọc đoạn 1. Học sinh sẽ trả lời
được ngay: giọng đọc chậm rãi để tả cảnh đẹp thiên nhiên hôm có phiên chợ; nhấn
giọng những từ ngữ gợi cảm: đỏ dần, ôm ấp, viền trắng, tưng bừng. Tiếp đó, tôi
cho học sinh hiểu tiếp các đoạn còn lại cho đến đoạn diễn cảm thì tôi sẽ hướng dẫn
các em luyện đọc hay hơn ở bảng phụ hoặc trên màn hình (nếu dạy giáo án điện tử)
“từ Dải mây trắng… đuổi theo sau”. Cách dạy này được tôi thực hiện trong tất cả

các tiết dạy tập đọc. Một tiết Tập đọc tôi cho học sinh đọc thầm nhiều lần. Đồng
thời tôi giao nhiệm vụ cho học sinh trong khi đọc thầm để kiểm tra kỹ năng đọc
hiểu.
Ví dụ: Bài “ Bốn anh tài” (TV4, tập 2 - trang 1, 2). Đọc thầm lần 1:
Sau khi giới thiệu bài, gọi 1 học sinh đọc toàn bài, đồng thời cả lớp đọc thầm theo
để nắm được nội dung của bài và chia đoạn để luyện đọc đúng. Đọc thầm lần 2:
Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 1, cho một học sinh đọc, cả lớp đọc thầm theo.
Giáo viên giao yêu cầu: Cẩu Khây có sức khỏe, tài năng thế nào? Đọc thầm lần 3:
Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 2, giáo viên cho cả lớp đọc thầm và trả lời: Có
chuyện gì xảy ra với quê hương Cẩu Khây? Tương tự cho đến hết bài. Như vậy là
tôi đã cho học sinh đọc thầm trước khi phân tích nội dung bài, đồng thời với đọc cá
-7-



nhân thành tiếng để học sinh nắm được nội dung văn bản và từ đó có cách đọc
đúng. Thế là tôi đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đọc thành tiếng và đọc thầm. Để
giúp học sinh đọc hiểu tốt, tôi đã chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh nêu nội
dung, nghệ thuật, cách đọc bài. Tôi chú ý các câu hỏi để học sinh tìm hiểu nghĩa
của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ; tìm các từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa...
Ví dụ: Tìm hiểu đoạn 1 bài “Bốn anh tài”, tôi đặt các câu hỏi sau:
Tìm những từ ngữ nói lên tài năng của Cẩu Khây. (tinh thông)
Em hiểu nghĩa của từ “tinh thông” là thế nào? (hiểu biết thấu đáo, có khả
năng vận dụng thành thạo). Tương tự các từ còn lại (Cẩu Khây, yêu tinh)
Yêu cầu học sinh nắm ý chính của bài, lập được dàn ý, hiểu được giá trị

nghệ thuật của bài văn, bài thơ. Tất cả việc phân tích trên nhằm cho học sinh hiểu
nội dung, nghệ thuật bài để có cách đọc đúng, đọc diễn cảm. Để đảm bảo dạy học
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong từng tiết học tôi luôn xác định được nội dung
cơ bản cần thiết để truyền thụ cho học sinh. Bên cạnh các câu hỏi tìm hiểu nội
dung bài đọc cho học sinh cả lớp, tôi còn lưu ý một số câu hỏi khó (trên chuẩn) và
hướng dẫn cho học sinh khá, giỏi xung phong để trả lời. Qua đó, vừa đảm bảo
trong cùng một thời gian, học sinh trung bình hiểu được hết các kiến thức của nội
dung bài đọc, còn học sinh khá-giỏi hiểu luôn cả bài tập trên chuẩn. Qua đó, tất cả
học sinh trong lớp có thể tiếp cận được với các nội dung trên chuẩn qua phần sửa
bài của giáo viên nhằm giúp tất cả học sinh có đủ điều kiện để phát triển.
Ví dụ: Bài “ Hơn một nghìn ngày vòng quanh trái đất ” (TV2, tập 2,
trang 114) có 5 câu hỏi trong đó từ câu 1 đến 4 là các câu hỏi trong chuẩn, còn câu

hỏi 5 là câu hỏi trên chuẩn có nội dung: Câu chuyện giúp em hiểu những gì về các
nhà thám hiểm? Với câu hỏi này tôi không chỉ định học sinh trả lời mà tôi chỉ gợi
ý để học sinh khá - giỏi có thể xung phong nêu lên cảm nhận của mình, rồi sau đó
tôi chọn lại ý đúng nhất và bổ sung cho hoàn chỉnh hơn: Câu chuyện cho em thấy
các nhà thám hiểm rất dũng cảm, dám vượt mọi khó khăn để đạt được mục đích
đặt ra. Từ đó, tôi còn liên hệ thêm để giáo dục thực tế cho học sinh.
+ Luyện đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những
câu văn bản văn chương hoặc có các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc
-8-


đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng ... để

biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời
biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn
cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng
và đọc lưu loát. Nội dung của bài đọc đã qui định ngữ điệu của nó nên tôi không
bao giờ áp đặt sẵn giọng đọc bài mà để học sinh tự nêu cách đọc và đọc trên cơ sở
hiểu từ, hiểu nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe, sửa cách đọc của từng học sinh. Tôi
cũng luôn kích thích, động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm.
Ví dụ: Cứ cuối mỗi tiết Tập đọc tôi lại hỏi học sinh: Em hãy đọc đoạn văn
(khổ thơ) mà em thích nhất cho cô và cả lớp cùng nghe? Em hãy đọc diễn cảm
đoạn văn (hoặc khổ thơ)? Hoặc tôi tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc
phân vai, đóng kịch (đối với các tác phẩm có nhiều lời hội thoại). Đọc diễn cảm chỉ
có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng:

vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm,... phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù
hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm,
gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ
được chỗ ngắt giọng (kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm chủ được tốc độ đọc (độ
nhanh, chậm, chỗ ngân hay dãn nhịp đọc), làm chủ cường độ giọng (đọc to hay
nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng
hay hạ giọng). Ở Tiểu học, khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một
số kỹ thuật như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ và ngữ điệu. Ngắt giọng biểu
cảm là phương tiện tác động đến người nghe, thiên về cảm xúc. Ngắt giọng biểu
cảm là những chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm, góp phần tạo nên hiệu
quả nghệ thuật cao. Đó là sự ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật.
Ví dụ: với bài “Đoàn thuyền đánh cá”, (TV4, tập 2, trang 59), tôi hướng

dẫn học sinh câu: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” có 2 cách ngắt nhịp: Nếu ngắt
“Mặt trời xuống/ biển như hòn lửa” thì chỉ có mặt trời xuống và biển sẽ so sánh
như hòn lửa. Nếu ngắt “Mặt trời xuống biển/ như hòn lửa” thì hay hơn vì khi mặt
trời xuống biển được so sánh với biển vào buổi chiều. Câu thơ sẽ giàu hình ảnh,
thật nên thơ. Ngoài ra tốc độ đọc ảnh hưởng đến sự diễn cảm, đặc biệt là chỗ có
-9-


thay đổi tốc độ gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt.
Ví dụ: khi đọc bài “Đoàn thuyền đánh cá” cần đọc nhanh hơn, gấp gáp,
khẩn trương hơn ở đoạn cuối bài để thấy được tinh thần lao động sôi nổi, hào hứng
của những người đánh cá.

Ngữ điệu là sự lên cao hay hạ thấp giọng. Mỗi kiểu câu chia theo mục đích
nói đều có ngữ điệu riêng, hạ giọng cuối câu kể, lên giọng ở câu hỏi. Như vậy lên
giọng, xuống giọng khi đọc một bài tập đọc tạo ra một hiệu quả nghệ thuật cao.
Trong từng bài tập đọc, các em cũng cần có giọng đọc thích hợp.
Ví dụ: Đọc bài “Trung thu độc lập (TV4, tập 1, trang 66” giọng tha thiết,
thể hiện rõ giọng người anh nói chuyện thân mật với các em thiếu nhi yêu quí.
Đoạn 1: Nhấn mạnh các từ tả vẻ trong sáng, đẹp đẽ của trung thu độc lập qua các
từ: bao la, vằng vặc… Đoạn 2: Nhấn mạnh các từ ngữ nói lên lòng tin tưởng của
anh chiến sĩ ở tương lai của đất nước như: các em có quyền, các em sẽ thấy, cũng
dưới ánh trăng này,... Như vậy, ngữ điệu là sự hoà đồng của chỗ ngừng, tốc độ,
chỗ nhấn giọng, cao độ.... tạo nên âm hưởng của bài đọc. Đọc diễn cảm không phải
là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc

diễn cảm là sự sử dụng ngữ điệu để diễn tả cảm xúc của bài đọc. Hoà nhập được
với bài văn, bài thơ, có cảm xúc sẽ tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính văn bản qui
định ngữ điệu cho người đọc chứ không phải người đọc tự đặt ra ngữ điệu. Để đọc
diễn cảm hay, tôi luôn đàm thoại cho học sinh hiểu ý đồ tác giả, thảo luận vì sao
đọc như vậy? Sử dụng hình thức đọc phân vai. Hay khi học sinh đọc cá nhân, giáo
viên đọc mẫu, tôi thường đặt câu hỏi: Vì sao đọc như thế? Chỗ nào trong cách đọc
của cô, của bạn làm em thích? Những học sinh đọc còn kém. Tôi kiên trì luyện tập
thêm, không bỏ qua mà cũng không đòi hỏi ráo riết. Tôi còn tổ chức đọc theo
nhóm để các em khá, giỏi kèm các em kém. Làm thế nào trong cùng một tiết học
thì học sinh trung bình biết đọc trôi chảy, đọc đúng là đã đạt chuẩn; còn học sinh
khá - giỏi còn biết đọc hay, diễn cảm.
+ Đọc mẫu của giáo viên: Giáo viên đọc mẫu tốt cũng đã dạy học sinh đọc

tốt nhiều. Bởi vậy, trước tiết Tập đọc, tôi phải nghiên cứu nội dung, cách đọc và
tập đọc nhiều lần. Có nhiều cách đọc mẫu: Đọc mẫu toàn bài để giới thiệu, gây
- 10 -


hứng thú cho học sinh; đọc câu, đoạn: Giúp học sinh nhận xét, giải thích, tìm ra
cách đọc. Vậy là, tuỳ theo từng bài mà giáo viên đọc cả bài; một đoạn; đọc vào đầu
tiết hay cuối tiết,....
Ví dụ: dạy bài: “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa”, (TV4-Tập 2,
trang 21), tôi đọc mẫu đoạn 2, đó là đoạn khó đọc, học sinh đọc chưa tốt. Dạy bài:
“Chợ Tết” tôi đọc mẫu cả bài, ngay từ lúc giới thiệu bài để gây hứng thú cho học
sinh.

+ Cách trình bày bảng: Bảng lớp cũng là một đồ dùng trực quan giúp học
sinh đọc tốt. Chính vì vậy, tôi luôn trình bày bảng gọn, rõ, đảm bảo tính đặc trưng
của bộ môn để học sinh nhìn vào cũng có được cách đọc.
Ví dụ dạy bài: “Vương quốc vắng nụ cười”, (TV4 - tập 2, trang143), tôi
đã trình bày:
Thứ ........, ngày...... tháng........ năm 20…
Tập đọc
Tựa bài:…………………
* Luyện đọc
* Tìm hiểu bài
- Giáo viên ghi những từ học sinh đọc sai để - Giáo viên ghi những từ ngữ cần
sửa lại


giải thích

- Giáo viên ghi những câu văn dài cần ngắt, - Giáo viên ghi nội dung bài
nghỉ
- Luyện đọc diễn cảm (đính bảng phụ có
ghi đoạn văn)
Tôi còn chuẩn bị một bảng phụ, chép sẵn nắn nót một câu văn dài hoặc một
đoạn văn khó đọc để gọi học sinh lên đánh dấu chỗ ngắt, nghỉ hơi, nhấn
giọng...,trước khi đọc cá nhân. Học sinh lớp tôi quen thuộc và dùng rất tốt các ký
hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài.
Ví dụ: Dấu “/ ” dùng khi ngắt hơi; dấu “// ” để chỉ sự nghỉ hơi dài; dấu

“ ↑ ” chỉ lên giọng; dấu “↓ ” chỉ sự xuống giọng; “...→ ...” chỉ đọc chậm lại, kéo
dài giọng; dấu gạch dưới biểu thị sự nhấn giọng ( __ )
2. 3. Khả năng áp dụng của giải pháp
- 11 -


- Từ những biện pháp ở trên, tôi thấy giờ học có hiệu quả hẳn lên, nhiều em
đọc đúng, đọc hay, đọc ngắt nghỉ đúng và diễn cảm tốt. Các em không còn e dè
như trước nữa mà đã mạnh dạn xung phong đọc tốt hơn, giờ học rất sôi nổi.
- Hướng tới tôi sẽ nhân rộng hơn nữa với nhiều kinh nghiệm thu nhặt được để
tất cả học sinh khối 4, 5 đều đọc tốt. Đề tài này có thể áp dụng cho các trường khác
và sử dụng được ở các năm học.

2. 4. Hiệu quả, ích lợi thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
- Học sinh hiểu bài sâu, đồng thời góp phần làm cho các em diễn đạt tốt hơn
trong phân môn Tập làm văn.
- Học sinh có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống, tự tin trong giao tiếp và
trong học tập.
- Tạo cơ sở tốt để học sinh học tập và tạo ra tiền đề cho các lớp trên.
- Góp phần quan trọng trong việc hình thành tính cách của học sinh.
- Hình thành thái độ tự tin khi giải quyết vấn đề trong cuộc sống tốt hơn.
- Học sinh lớp tôi và cả học sinh trong khối không còn ngại ngùng, e dè khi
đọc diễn cảm trước cả lớp (hay lúc có đông người dự), hoặc không còn đọc qua
loa, nhanh nhanh cho xong bài. Số học sinh đọc kém, lí nhí,... không còn nữa. Số

học sinh đọc đúng, diễn cảm đã tăng lên nhiều.
- Tôi đã rèn đọc cho học sinh của lớp tôi trong thời gian qua rất tốt. Tôi còn
hướng dẫn cho các bạn đồng nghiệp cùng thực hiện.
- Tôi tự thấy đã tìm được hướng đúng, cách làm đúng cho việc dạy tập đọc:
Dạy đúng đặc trưng bộ môn; tôi thấy rất say sưa, hứng thú khi rèn đọc cho học
sinh. Các tiết dạy tập đọc của tôi không bị biến thành giờ giảng văn, cô giảng là
chính, trò chỉ ngồi nghe....nặng nề, khô khan nữa. Hàng năm, tôi có thể dạy thao
giảng, dự giờ, thi tay nghề phân môn Tập đọc.
- Kết quả khảo sát đầu năm theo chuẩn kiến thức, kĩ năng (Sĩ số: 31)

Đọc đúng


Khảo sát đầu năm
Ngắt, nghỉ Giọng đọc
Tốc độ đọc
- 12 -

Trả lời đúng


tiếng, từ
Tỉ lệ
%
25

80.6

hơi đúng
Tỉ lệ %
23 74.2

có biểu cảm
Tỉ lệ
%
18
58.1


Tỉ lệ
25

%
80.6

câu hỏi
Tỉ lệ
%
28 96.8

- Kết quả đạt được ở học kì I theo chuẩn kiến thức, kĩ năng (Sĩ số: 31)

Đọc đúng
tiếng, từ
Tỉ lệ
%
30
96.8

Kết quả đạt được cuối
Ngắt, nghỉ Giọng đọc
hơi đúng có biểu cảm
Tỉ lệ %
Tỉ lệ

%
29 93.5
25
80.6

học kì I
Tốc độ đọc
Tỉ lệ
30

%
96.8


Trả lời đúng
câu hỏi
Tỉ lệ
%
31
100

- Song song với những điều trên thì một trong những yếu tố quan trọng nữa
là góp phần cho học sinh có hứng thú luyện đọc diễn cảm chính là giáo viên đã thể
hiện được phong thái sư phạm nhẹ nhàng, truyền cảm, ân cần, gần gũi với học
sinh, động viên, khích lệ học sinh kịp thời./.


- 13 -



×