Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tieu luan con dg di len cnxh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.41 KB, 24 trang )

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
-----------------------

Tiểu luận
Quá trình hình thành những nhận thức mới
về con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta

Học viên:
Lớp:

Nguyễn thị xuân

Cao học khóa 10

Hà Nội - 2005


Quá trình hình thành những nhận thức mới
về con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta

CNXH và con đờng đi lên CNXH ở nớc ta là vấn đề lý
luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp
đến đờng lối chính trị của Đảng, phơng hớng phát triển
của đất nớc. Đây là vấn đề trung tâm, cốt lõi trong đờng
lối cách mạng nớc ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc
phòng, xây dựng Đảng.
Vì vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đều
tập trung vào việc xác định mục tiêu và con đờng đi lên
CNXH ở nớc ta. Đó là những thành tựu lớn trong sự phát
triển t duy của Đảng và nhân dân ta về xây dựng CNXH.


Những thành tựu đó có ý nghĩa đặc biệt trong điều
kiện hiện nay, là một trong những nhân tố quyết định
đối với sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH trên
đất nớc ta. Bởi lẽ:
Thứ nhất, các nớc XHCN đang lâm vào cuộc khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng cha từng thấy trong lịch
sử cả về chính trị, kinh tế, xã hội, cả lý luận về mô hình
CNXH của nhiều đảng. Trớc cuộc khủng hoảng đó, nhiều
đảng có sự đánh giá lại về công cuộc xây dựng CNXH, về
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đề ra chủ trơng cải tổ,
cải cách, đổi mới. Trong quá trình thực hiện chủ trơng
này, có đảng trung thành và vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác - Lênin, tổng kết kinh nghiệm, đề ra đợc đ-

2


ờng lối cải cách, đổi mới, giành đợc những thành tựu, giữ
vững thành quả của CNXH; có đảng xa rời chủ nghĩa Mác
- Lênin, đi vào con đờng xã hội - dân chủ. ở một số nớc,
chế độ XHCN đã bị lật đổ.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đến nớc ta. Nếu
Đảng ta không vững vàng, không đủ bản lĩnh, không kịp
thời đổi mới, không xác định đợc và xác định đúng
quan niệm về CNXH và con đờng xây dựng CNXH thì
cuộc khủng hoảng nói trên sẽ tác động nguy hiểm đến sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã
vợt qua cuộc khủng hoảng đó, tiếp tục đứng vững và
ngày càng phát triển. Điều đó do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân quan trọng là Đảng ta đã sáng

suốt đề ra đờng lối đổi mới đúng đắn và sự nghiệp đó
đã giành đợc những thành tựu quan trọng, từng bớc hình
thành quan niệm về con đờng xây dựng CNXH ở nớc ta.
Thứ hai,bên cạnh những thành tựu quan trọng đã
giành đợc, công cuộc xây dựng CNXH của chúng ta cũng
gặp không ít khó khăn. Trong những năm 80 của thế kỷ
XX, nớc ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cuộc
khủng hoảng này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân sâu xa là trong suốt nhiều năm, chúng ta đã có
những quan niệm đơn giản hoặc không đúng về xây
dựng CNXH thể hiện ở những khuyết điểm sai lầm mà
Đảng ta đã tự phê bình trong Đại hội VI. Việc đề ra đờng
lối đổi mới, hình thành những quan niệm đúng đắn về
CNXH, về con đờng xây dựng CNXH chẳng những tạo

3


điều kiện để đất nớc ta từng bớc thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, mà còn là cơ sở để chúng ta tiến lên trên
con đờng xây dựng CNXH. Những quan niệm đó đã củng
cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta đối với con đờng đã lựa chọn; mở đờng cho toàn
Đảng, toàn dân phát huy khả năng sáng tạo trong t duy,
trong hành động, trong việc đa những quan điểm đó
vào cuộc sống; góp phần vào việc bổ sung, phát triển,
hoàn chỉnh những quan niệm đó. Tuy nhiên những điều
mà Đảng và nhân dân ta nhận thức đạt tới hôm nay sẽ còn
tiếp tục đợc bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau
này của thực tiễn của t duy lý luận.

Quá trình hình thành những nhận thức mới về con
đờng đi liên CNXH ở nớc ta đợc phản ánh ngày càng rõ nét
qua lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ 1930 đến nay.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cơng lĩnh đầu tiên
(2/1930), Đảng ta đã khẳng định mục tiêu, lý tởng phấn
đấu của cách mạng nớc ta là độc lập dân tộc và CNXH. Cơng lĩnh chỉ rõ "Làm t sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Bổ sung cho
Chánh cơng vắn tắt của Đảng và Luận cơng chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dơng (10-1930), Đảng ta cũng chỉ ra
rằng "Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dơng sẽ là một
cuộc cách mạng t sản dân quyền... nhờ giai cấp vô sản
chuyên chánh các nớc giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua
thời kỳ t bổn mà tranh đấu thẳng lên con đờng XHCN"(1).
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, CTQG, H, 1998, tr.93-94.

4


Tuy nhiên trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân,
hoạt động t duy của Đảng phải tập trung vào việc thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng ấy. Hoạt
động t duy về CNXH và con đờng xây dựng CNXH của
Đảng chỉ đợc tiến hành với quy mô lớn khi nhân dân ta
bắt tay vào xây dựng CNXH, từ 1955 là ở miền Bắc, sau
1975 là trên cả nớc. Quá trình đó đợc hình thành trên cơ
sở khẳng định những cái đúng, cần kế thừa, những cái
trớc kia đúng, nhng nay không còn phù hợp phải thay đổi,

những gì trớc đây không đúng phải kiên quyết khắc
phục.
Trong những năm 1955-1965, hoạt động t duy về
CNXH và con đờng tiến lên CNXH của Đảng đợc triển khai
thể hiện việc Đảng ta xác định nớc ta đã bớc vào thời kỳ
quá độ lên CNXH. Chẳng hạn nh: Tháng 8-1955, Hội nghị
Trung ơng lần thứ 8 xác định "Đờng lối củng cố miền Bắc
là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến
dần từng bớc vững chắc lên CNXH". Tháng 1-1956, trong
văn kiện về đờng lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị
nhấn mạnh "Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nớc ta
chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN". Hội nghị Trung ơng lần thứ 13 (12-1957) nhận định: "Từ khi hòa bình
lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ta đã bớc vào thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH". Năm 1957, Hội nghị các Đảng
Cộng sản và công nhân quốc tế đã khẳng định những
quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng CNXH, chủ

5


yếu rút ra từ thực tiễn Liên Xô. Lúc này Đảng ta ch a đề ra
đờng lối chung về xây dựng CNXH.
Trong mấy năm đầu sau khi hoàn thành thắng lợi
khôi phục kinh tế, trong khi cha đề ra đờng lối chung,
Đảng ta vẫn chỉ đạo xây dựng CNXH, đặt trọng tâm vào
cải tạo XHCN, coi chuyển nhanh nền kinh tế nhiều thành
phần sang nền kinh tế XHCN bao gồm kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể chiếm u thế là điều kiện cơ bản để
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH. Điều đó thể hiện rõ
qua Hội nghị Trung ơng lần thứ 14 (11-1958) với việc chủ

trơng đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN đối với thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo
XHCN đối với các thành phần kinh tế quốc doanh là lực lợng
lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khâu chính là cải
tạo và phát triển nông nghiệp; Hội nghị Trung ơng lần thứ
16 (4-1959) thông qua hai Nghị quyết quan trọng về hợp
tác hóa nông nghiệp và về cải tạo công thơng nghiệp t
bản t doanh ở miền Bắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (91960) đã xác định đờng lối chung của cách mạng XHCN ở
miền Bắc. Sau khi xác định mục tiêu là "đa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố
miền bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện hòa bình thống nhất nớc nhà". Muốn thực hiện
đợc mục tiêu đó, Đại hội đã nêu lên những biện pháp cơ
bản sau: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm

6


nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện
cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thơng
nghiệp nhỏ và công thơng nghiệp t bản t doanh; phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công
nghiệp hóa XHCN bằng cách "u tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ"; đẩy mạnh cách mạng XHCN
về t tởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nớc ta thành một nớc
XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn
hóa và khoa học tiên tiến.

Với sự chỉ đạo công cuộc xây dựng CNXH từ 1955
của Đảng, nhất là đờng lối chung của cách mạng XHCN ở
miền Bắc đề ra ở Đại hội III, từ 1955 đến 1965, miền
Bắc đã đạt đợc những thành tựu quan trọng nh bảo đảm
đợc lơng thực, tự giải quyết đợc 90% hàng tiêu dùng,...
đặc biệt đã trở thành hậu phơng vững chắc cho cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tuy nhiên cũng nảy sinh nhiều khó khăn trong quá
trình xây dựng CNXH ở miền Bắc. Nguyên nhân là do có
một số sai lầm trong chủ trơng về cải tạo XHCN, về cơ
chế quản lý nh nhanh chóng biến nền kinh tế nhiều thành
phần thành nền kinh tế XHCN thuần nhất, trong đó kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm u thế tuyệt đối...
Từ 1965 đến 1975, miền Bắc tiến hành xây dựng
CNXH trong điều kiện cả nớc tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nớc. Đảng ta đã dành nhiều trí tuệ, công sức

7


vào việc lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến; đồng thời quan
tâm, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc.
T duy của Đảng về cách mạng XHCN trong thời kỳ này
đợc thể hiện cả trong các Nghị quyết của Đảng, cả trong
nhiều tác phẩm, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng,
cán bộ quản lý, cán bộ khoa học. Những quan niệm về
CNXH và con đờng xây dựng CNXH thể hiện ở những nét
lớn sau:
+ Phát triển đờng lối của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III, hình thành nội dung và tiến hành đồng thời ba

cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
then chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn
hóa mới và con ngời mới.
+ Nêu lên "bớc đi ban đầu" trong thời kỳ quá độ ở nớc ta.
+ Xây dựng quan điểm về cơ cấu kinh tế, xác
định quan hệ công nghiệp và nông nghiệp thể hiện ở
phơng hớng phát triển kinh tế phải theo đờng lối u tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng
kinh tế Trung ơng, đồng thời phát triển kinh tế địa phơng.
+ Xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giữa
hai con đờng ở miền Bắc là tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng, đa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn...

8


+ Tìm tòi con đờng đi lên sản xuất lớn: cuộc vận
động cải tiến quản lý, tổ chức các hợp tác xã với quy mô
lớn, xây dựng huyện thành huyện nông - công nghiệp...
+ Trong quản lý kinh tế, đã đề ra phơng hớng: xóa bỏ
quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phơng
thức kinh doanh XHCN.
Tuy nhiên, do điều kiện đất nớc lúc đó, mô hình
xây dựng CNXH của ta lúc đó qua bộc lộ hết những nhợc
điểm, khuyết điểm. Nhng thực tế đã cho thấy có nhiều cái
không phù hợp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất...
Nh vậy, t duy của Đảng trong thời kỳ này đã trải qua
trên bề rộng và có đi vào chiều sâu trên một số lĩnh vực
chủ yếu, trong đó vấn đề mục tiêu, phơng hớng vẫn là cơ

bản. Một số vấn đề mới đợc phát hiện có giá trị nh chỉ ra
bớc đi ban đầu của thời kỳ quá độ ở nớc ta. Việc nghiên
cứu để đa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn trong điều kiện
nớc ta là cần thiết, nhng một số giải pháp đa ra không phù
hợp. Thiếu sót của ta là chậm nhìn ra nguyên nhân sâu xa
của sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh, chậm tìm ra
những hình thức kinh tế mới để khắc phục nhợc điểm,
khuyết điểm của mô hình cũ, cho phép sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
- Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến năm
1986, sự nhận thức về CNXH và con đờng tiên lên CNXH của
Đảng ta ngày càng sáng rõ.
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bớc
đờng lối của Đại hội III, vạch ra đờng lối xây dựng CNXH

9


trên phạm vi cả nớc: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ
sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng t tởng
văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ
làm chủ tập thể XHCN; xây dựng nền sản xuất lớn XHCN;
xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con ngời mới XHCN;
xóa bỏ chế độ ngời bóc lột ngời, xóa bỏ nghèo nàn và lạc
hậu..." (1).
Tuy nhiên chúng ta đã phạm một số sai lầm, khuyết

điểm trong việc thiết kế các mô hình cụ thể và tổ chức
chỉ đạo thực hiện. Việc duy trì và áp dụng cơ chế cũ
theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp
với tình hình mới. Không những thế lại thực hiện việc xóa
bỏ thành phần kinh tế t bản chủ nghĩa, làm cho kinh tế
XHCN bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ
vai trò độc tôn. Điều này trái với những quy luật khách
quan trong thời kỳ quá độ và không phù hợp với điều kiện
thực tế ở Việt Nam. Chính vì vậy, vào cuối những năm
1970, nền kinh tế nớc ta bị mất cân đối nghiêm trọng,
khủng hoảng kinh tế - xã hội đã diễn ra. Cuộc khủng hoảng
này thật sự là một thách thức đối với cả dân tộc và chế
độ xã hội ta.

(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị BCHTW Đảng Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H, 1977, tr.67.

10


Trong hoàn cảnh đó, Hội nghị Trung ơng 6 (khóa IV)
đã thông qua 2 Nghị quyết: Nghị quyết số 20-NQ/TW về
tình hình và nhiệm vụ cấp bách và Nghị quyết số 21NQ/TW về phơng hớng, nhiệm vụ phát triển hàng công
nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phơng. Tinh thần cơ
bản của Hội nghị Trung ơng 6 là "làm cho sản xuất bung
ra" nhằm khắc phục khuyết điểm trong quản lý kinh tế,
đề ra chủ trơng phù hợp để phát triển lực lợng sản xuất.
Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Tháng 101979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ

các trạm kiểm soát ngăn sông, cấm chợ, ngời sản xuất đợc
tự do lu thông hàng hóa ngoài thị trờng, không phải nộp
thuế sau khi đã làm tròn nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà nớc.
Tiếp sau Nghị quyết Hội nghị Trung ơng 6, chỉ thị
100-CT/TW ngày 13-1-1981 về cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và ngời lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp đã tạo ra động lực mới
trong sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp,
Quyết định 25-CP ngày 21-1-1981 của Chính phủ về một
số chủ trơng và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền
chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài
chính của các xí nghiệp quốc doanh đánh dấu sự đổi mới
trong quản lý công nghiệp, giúp cho các cơ sở khắc phục
đợc khả năng sản xuất, giải phóng sức sản xuất, mở ra một
hớng mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

11


Tháng 3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
của Đảng họp nêu rõ nhiệm vụ trong những năm 80 là tập
trung sản xuất công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục
xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng
trong mộtc ơ cấu công nông nghiệp hợp lý. Đại hội coi đây
là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đờng
trớc mắt nhằm phát triển sức sản xuất, chuẩn bị tiền đề
và lực lợng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong
những năm tiếp theo.
Tuy nhiên kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Ban

Chấp hành Trung ơng đã tiến hành nhiều Hội nghị, trong
đó có 8 Hội nghị bàn về kinh tế - xã hội. Quan trọng nhất
là Hội nghị Trung ơng 8 (khóa V) tháng 6-1985 đã chủ trơng phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán
kinh tế và kinh doanh XHCN. Hội nghị cũng thừa nhận sản
xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nớc ta trong thời
kỳ quá độ lên CNXH.
Nh vậy, sự đổi mới t duy trong quá trình nhận thức
về con đờng đi lên CNXH ở nớc ta là hết sức quan trọng,
là cơ sở để Đảng ta có thể hoạch định đờng lối đổi mới
toàn diện sau này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) tiếp
tục khẳng định sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng
hóa và kinh tế thị trờng. Đại hội chỉ rõ: Cơ chế tập trung

12


quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo đợc động
lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử
dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản
xuất, làm giảm năng suất, chất lợng hiệu quả, gây rối loạn
phân phối lu thông và đẻ ra nhiều hiện tợng tiêu cực trong
xã hội. Đại hội quyết định chuyển từ cơ chế quản lý kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN, phát huy quyền
tự chủ kinh doanh của đơn vị và cá nhân trong khuôn
khổ pháp luật, giải phóng mọi tiềm năng sản xuất.
Với đờng lối đổi mới nêu trên, Đại hội VI của Đảng

đánh dấu sự đổi mới quan trọng trong nhận thức của Đảng
ta về CNXH và con đờng đi lên CNXH ở nớc ta.
Đại hội VI đã có những nhận thức mới về cơ cấu kinh
tế. Đại hội xác định rõ các thành phần kinh tế ở nớc ta
gồm: kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể); kinh tế tiểu
sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những
ngời buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế t
bản, t nhân; kinh tế t bản Nhà nớc dới nhiều hình thức mà
hình thức cao nhất là công t hợp doanh; kinh tế tự nhiên,
tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số. Với nội dung đổi mới và những quan điểm nêu trên, Đại
hội VI không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận
thức đúng đắn hơn về CNXH và con đờng đi lên CNXH ở
nớc ta.
Một thành tựu rất quan trọng về t duy của Đại hội VI
là đã rút ra những bài học rất cơ bản có ý nghĩa thiết

13


thực, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc. Các bài học đó là:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt t tởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và
phát triển quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, Đảng phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.

Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với
một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc
cách mạng XHCN.
Từ 1986 đến nay, là thời kỳ triển khai Nghị quyết
Đại hội VI. Sự phát triển t duy của Đảng ta ở thời kỳ này
diễn ra trong quá trình vừa cụ thể hóa, bổ sung và phát
triển Nghị quyết Đại hội VI, vừa dựa vào những thành tựu
t duy từ trớc để xây dựng Cơng lĩnh, hình thành quan
niệm về CNXH và con đờng xây dựng CNXH trong thời kỳ
quá độ ở nớc ta.
Trong nhiệm kỳ Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ơng
đã họp nhiều Hội nghị Trung ơng để triển khai Nghị
quyết Đại hội VI, đặc biệt Hội nghị Trung ơng lần thứ 6,
khóa VI (3-1989) đã cụ thể hóa và phát triển nhiều quan
điểm của Đại hội VI, nhất là về điều chỉnh cơ cấu kinh
tế theo hớng tập trung thực hiện các mục tiêu của ba chơng trình kinh tế; thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế

14


nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất, đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh
tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển
nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần
đi lên CNXH; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại; xây
dựng và phát huy dân chủ XHCN, đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Hội nghị Trung ơng 6 khóa VI đã rút ra nhiều kết
luận quan trọng nh: chính sách kinh tế nhiều thành phần
có ý nghĩa chiến lợc lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên CNXH. Các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất

vốn có bản chất riêng, nhng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn
hợp đan kết với nhau vừa cạnh tranh nhau trên cơ sở bình
đẳng trớc pháp luật. Kinh tế quốc doanh cần có đủ lực lợng chi phối thị trờng, song không nhất thiết chiếm tỷ
trọng lớn trong mọi ngành nghề... Những kết luận đó thể
hiện trình độ t duy của Đảng đã đợc nâng lên. Nghị
quyết Đại hội VI, do đó đã đợc cụ thể hóa và phát triển
một bớc quan trọng.
Những quan điểm của Hội nghị Trung ơng lần thứ 7
và lần thứ 8 chủ trơng đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo
định hớng XHCN, đổi mới có nguyên tắc, có bớc đi phù
hợp.
Đại hội VI nêu lên phơng hớng và nhiệm vụ về các
mặt đối ngoại, an ninh, quốc phòng nhng đến Nghị
quyết 7 của Trung ơng và các Nghị quyết 02, 13 của Bộ

15


Chính trị thì sự đổi mới t duy của Đảng rõ nét hơn thể
hiện ở sự điều chỉnh lớn về chiến lợc quốc phòng, về
chính sách an ninh và chính sách đối ngoại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp trong điều
kiện tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp: chế
độ XHCN ở các nớc Đông Âu đã bị sụp đổ, Liên Xô đã tiến
hành cải tổ nhng chệch hớng và đang có nguy cơ tan rã.
Điều đó đã tác động xấu đến một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta. Các thế lực thù địch nhân cơ hội
tấn công quyết liệt vào các nớc XHCN còn lại, trong đó có
Việt Nam. Trên cơ sở tổng kết thực hiện đờng lối đổi mới

của Đại hội VI, Đại hội VII đã thông qua Cơng lĩnh xây dựng
đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lợc ổn
định và phát triển kinh tế đến năm 2000.
Cơng lĩnh tiếp tục khẳng định việc kiên định con
đờng đi lên CNXH ở nớc ta và nêu rõ 6 đặc trng cơ bản
của CNXH ở Việt Nam. Đó là:
+ CNXH ở nớc ta là xã hội do nhân dân lao động làm
chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lợng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các t liệu sản xuất
chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân
tộc.
+ Con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hởng theo lao động, có cuộc sống

16


ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nớc bình đẳng, đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nớc trên thế giới.
Đồng thời với việc xác định 6 đặc trng mang tính
mục tiêu, Cơng lĩnh của Đảng đã nêu lên những phơng hớng cơ bản trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc. Những phơng hớng đó là: "Xây dựng nhà nớc XHCN,
Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy
liên minh giữa giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm

nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cơng xã
hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân.
Phát triển lực lợng sản xuất, công nghiệp hóa đất nớc
theo hớng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bớc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân.
Phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất, thiết
lập từng bớc quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với
sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hớng XHCN, vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.

17


Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực t tởng văn
hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và t tởng đạo đức
Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần
xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nớc, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con ngời.
Chống t tởng văn hóa phản tiến bộ, trái với những giá trị
cao quý của loài ngời.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc củng cố
và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực

lợng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh.Thực hiện
chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nớc; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, đoàn kết với các nớc XHCN, với tất cả các lực lợng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ thế giới.
Xây dựng CNXH phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc...
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,
t tởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
XHCN ở nớc ta"(1).
Những phơng hớng nêu trên chính là những nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng CNXH trong thời
kỳ quá độ ở nớc ta. Đờng lối của Đại hội VII tiếp tục đợc bổ
sung, phát triển và cụ thể hóa qua các Nghị quyết của
(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam: Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, ST, H, 1991, tr.9-10.

18


BCHTW và Bộ Chính trị. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) đã khẳng định những thành
tựu trong quá trình thực hiện đờng lối đổi mới và đã
thẳng thắn chỉ ra những thách thức lớn đối với nớc ta. Đó
là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hớng
XHCN; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu và
nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Với đờng lối đúng đắn của Đại hội VI và Đại hội VII,

công cuộc đổi mới đã thu đợc những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng. Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng (6-1996) đã khẳng định: "Nớc ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội' và "nhiệm vụ đề ra cho
chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nớc"; "con đờng đi lên CNXH ở nớc ta ngày càng
đợc xác định rõ hơn.
Nh vậy, đến trớc Đại hội IX của Đảng, nhận thức về
CNXH và con đờng đi lên CNXH ở nớc ta theo tinh thần
đổi mới đã đợc xác lập và từng bớc đợc bổ sung, hoàn
thiện dần.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) đã
tổng kết thành tựu 15 năm đổi mới, khẳng định tính
đúng đắn của Cơng lĩnh xây dựng đất nớc đã thông
qua tại Đại hội VII của Đảng về con đờng đi lên CNXH ở nớc
ta.

19


Đại hội IX một lần nữa khẳng định sự kiên định
mục tiêu cách mạng của nhân dân ta là xây dựng một nớc
Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên CNXH. Độc lập dân
tộc luôn gắn liền với CNXH. Mục tiêu phấn đấu đề ra
trong Đại hội IX là "xây dựng nớc Việt Nam dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nớc ta, Đại hội chỉ rõ:
"con đờng đi lên CNXH của nớc ta là sự phát triển quá độ

lên CNXH bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tức bỏ qua việc
xác lập vị trí thống nhất của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng phải tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ
t bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh lực lợng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại. Đi lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đờng, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, Đại hội
IX xác định: Trong thời kỳ quá độ ở nớc ta tất yếu phải tồn
tại các hình thức sở hữu đa dạng, đan xen với 6 thành
phần kinh tế khác nhau: kinh tế nhà nớc; kinh tế tập thể;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế t bản t nhân; kinh tế t
bản nhà nớc; kinh tế có vốn đầu t của nớc ngoài. Đại hội
chỉ rõ các thành phần kinh tế này đều là những bộ phận
quan trọng của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Về vấn đề đấu tranh giai cấp và động lực chủ yếu
để phát triển đất nớc, Đại hội nêu rõ: Do nền kinh tế nớc ta

20


là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở
hữu t liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều giai cấp,
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Sự tồn tại, đan xen giữa
cái cũ và cái mới tất yếu dẫn tới đấu tranh với nhau. Nhng
về cơ bản lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích của các giai cấp, tầng lớp và cả dân tộc trong mục tiêu
chung độc lập dân tộc ngắn liền với CNXH, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Do đó mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp là vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong
nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dới sự lãnh đạo của
Đảng.
Từ đặc điểm về quan hệ giai cấp nêu trên, Đại hội
chỉ rõ "Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong
giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hớng XHCN... đấu
tranh làm thất bại mọi âm mu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng đất nớc ta thành một nớc XHCN phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc"(1).
Với tinh thần đó, Văn kiện Đại hội IX khẳng định:
động lực chủ yếu để phát triển đất nớc là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo,
kết hợp hài hòa các lợi ích...

(1)

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, CTQG, Hà
Nội, 2001, tr.86.

21


Nh vậy Đại hội IX đã nêu rõ các đặc trng CNXH và nội
dung cơ bản của con đờng đi lên CNXH ở nớc ta. Những
đặc trng và nội dung đó chính là mục tiêu, cơ sở cho

toàn Đảng, toàn dân ta vững bớc trên con đờng xây dựng
CNXH, xây dựng đất nớc phồn vinh.
Con đờng phát triển đi lên CNXH không qua CNTB
đã đợc Đảng ta nêu ra ngay từ khi thành lập nhng trải qua
15 năm thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ, qua gần 30 năm chống Pháp và chống Mỹ, con
đờng đó mới ngày càng đợc nhận thức cụ thể hơn, với
những bớc đi thích hợp.
Nhờ những nhận thức mới về CNXH và con đờng đi
lên CNXH, công cuộc xây dựng CNXH của Đảng và của
nhân dân ta nói chung, sự nghiệp đổi mới của Đảng ta
hiện nay đã và đang đạt đợc những thành tựu vô cùng to
lớn về mọi mặt, đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, tăng trởng kinh tế cao, lạm phát chấm dứt, đời
sống nhân dân ngày càng đợc cải thiện. Thành tựu lớn
nhất là chúng ta vẫn đứng vững, CNXH ở Việt Nam ngày
càng trở thành hiện thực, trở thành mục tiêu, động lực vơn tới của toàn Đảng toàn dân ta.
Để nhận thức đúng CNXH, con đờng đi lên CNXH và
xây dựng thành công CNXH, chúng ta cần nắm vững các
điểm sau:
+ Vấn đề hình thành quan niệm về CNXH và con
đờng đi lên CNXH là quá trình lâu dài, gian khổ. Quá
trình đó sẽ còn tiếp tục đợc bổ sung, phát triển thông

22


qua thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đến Đại
hội IX; nhiều vấn đề cơ bản đã đợc khẳng định và điều
đó phản ánh sự năng động, sáng tạo của Đảng ta trớc những

biến đổi quan trọng của thời cuộc và mở ra những triển
vọng mới cho việc cụ thể hóa những nhiệm vụ chiến lợc của
cách mạng nớc ta trong các bớc phát triển tiếp theo.
+ Trên cơ sở xác định đợc mục tiêu, phơng hớng
XHCN, chúng ta phải tìm ra đợc những hình thức phơng
pháp và bớc đi thích hợp để xây dựng CNXH. Đây là một
vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi tầm cao trí tuệ của
toàn Đảng, toàn dân. Thực tiễn công cuộc đổi mới của
Đảng và nhân dân ta đang tìm tòi, hình thành từng bớc
và đạt những thành tựu quan trọng.
+Trong khi xây dựng quan niệm về CNXH và con đờng xây dựng CNXH phải nắm vững bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, những thành quả
khoa học - kỹ thuật trên thế giới, phải tham khảo kinh
nghiệm của các nớc, kể các các nớc không phải là XHCN,
nghiên cứu sâu truyền thống lịch sử, điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của nớc ta... để rút ra những
kết luận bổ ích. Đặc biệt là chúng ta phải bám sát thực
tiễn xây dựng CNXH, thực tiễn sản xuất, đời sống của
nhân dân, thực tiễn các cơ sở kinh tế, chính trị, văn
hóa. Thực tiễn đó sẽ là cơ sở cho việc tìm tòi những
hình thức và bớc đi, phơng pháp của việc xây dựng
CNXH.

23


+ Trong quá trình hình thành quan niệm về CNXH
và con đờng đi lên CNXH, chúng ta phải biết kế thừa
những quan niệm đúng, phủ định những quan niệm
không phù hợp trớc đó; tránh khuynh hớng phủ nhận sạch

trơn hoặc tiếp thu nguyên vẹn.
+ Trong quá trình hình thành các quan niệm mới,
phải phát hiện đợc các vấn đề, thẳng thắn vạch ra các
quan điểm khác nhau, nêu một cách khách quan lập luận
của mỗi quan điểm để thảo luận. Trong thảo luận phải
phát huy tự do t tởng, dân chủ. Tuy nhiên, trong tình
hình hiện nay khi các thế lực thù địch tấn công quyết
liệt về t tởng, lý luận làm cho ta chệch hớng; chúng ta phải
bảo đảm sinh hoạt t tởng, lý luận theo nguyên tắc của
Đảng, không thể buông lỏng cuộc đấu tranh chống lại
những quan điểm thù địch, cơ hội.

24



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×