Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.71 KB, 21 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng tới, là
mục tiêu chiến lược mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang quyết tâm thực
hiện. Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi có Nghị quyết 26-NQ/TW của Hội
nghị Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nền nông nghiệp
nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn...
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp phát triển nhanh các ngành
kinh tế, trong đó có phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Tốc độ tăng trưởng
của nông nghiệp đang dần tăng cao liên tục trong nhiều năm. Phát triển nông nghiệp
đã đi liền với việc khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, gắn với giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu
chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Nông nghiệp có bước phát triển mới, kinh tếxã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và
tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện, tỷ lệ
nghèo nông thôn giảm nhanh.
Tuy nhiên, nông nghiệp nước ta phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho
phát triển sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất
trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất
lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp, cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn
còn chuyển dịch chậm. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu
hạ tầng kinh tế-xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích
ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của một
bộ phận người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa bền vững, nhất là
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Từ thực trạng phát triển nông nghiệp ở nước ta cho thấy, còn nhiều vấn đề bất
cập cần phải giải quyết; làm thế nào để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
nước ta là câu hỏi lớn cần phải trả lời. Chính vì vậy, nông nghiệp, nông thôn, nông
dân đang rất cần những động lực mới để tăng trưởng, tạo ra đột phá mới.


1


Với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và đề xuất một
số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp, tôi mạnh dạn chọn tiến hành
nghiên cứu đề tài tiểu luận: “Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp
bền vững ở Việt Nam hiện nay”. Do điều kiện hạn chế về trình độ, thời gian nên
trong tiểu luận sẽ có nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp thêm của
thầy cô giáo để tôi có thể hoàn thiện hơn về vấn đề nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
- Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam
- Đề ra một số giải pháp để phát triển nền nông nghiệp bền vững
1.3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp thu thập số liệu
Do điều kiện hạn chế, nên chúng tôi chủ yếu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp
từ các nguồn:
+ Những thông tin, số liệu được thu thập từ các báo, tạp chí, luận văn có liên
quan đến vấn đề đang nghiên cứu. Từ đó chọn lọc những kiến thức, những kết quả có
thể sử dụng được.
+ Thu thập từ các trang web có liên quan trên mạng Internet.
* Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có bên
trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích các số
liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi thời gian
nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp nông thôn Việt
Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần
khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát triển theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu là

phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa Nông
nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền kinh tế.

2


PHẦN II:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số khái niệm liên quan
- Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản xuất
với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn những nhu
cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của
tương lai.
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại, nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. (Hội đồng thế
giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc - WCED)
Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, giảm nghèo và giải
quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt là xử lý, khắc phục ô nhiễm,
phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai
thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
- Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau (Tổ chức
sinh thái và môi trường Thế giới - WORD)
Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu cầu cơ
bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên thiên nhiên
cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng, không khí, khí quyển
và tính đa dạng sinh học…..
Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về sinh

thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.

3


2.2. Vai trò của Nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó
không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi
vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học – cây
trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người không thể
ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà phải trên cơ sở
nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động thích hợp với chúng.
Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoả đáng,
gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản
phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi
và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó còn
bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản nữa.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát
triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Nông nghiệp có vai
trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và khu vực
thành thị. Điều đó được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau đây:
- Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực
dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Trong giai đoạn đầu
của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập trung sống ở khu
vực nông thôn. Vì thế khu vực nông nghiệp, nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân
lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình nông nghiệp hoá và đô
thị hoá, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác đó mà năng suất lao động
nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải
phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công

nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính qui luật của mọi quốc gia trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quí cho công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của
sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản
hàng hoá, mở rộng thị trường …
- Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế
trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây là khu
4


vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có
thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiện của nông dân đầu tư vào các hoạt động
phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản v.v…
trong đó thuế có vị trí rất quan trọng “Kuznets cho rằng gánh nặng của thuế mà nông
nghiệp phải chịu là cao hơn nhiều so với dịch vụ Nhà nước cung cấp cho công
nghiệp”. Việc huy động vốn từ nông nghiệp để đầu tư phát triển công nghiệp là cần
thiết và đúng đắn trên cơ sở việc thực hiện bằng cơ chế thị trường, chứ không phải
bằng sự áp đặt của Chính phủ. Những điển hình về sự thành công của sự phát triển ở
nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông nghiệp để đầu tư cho nông nghiệp. Tuy
nhiên vốn tích luỹ từ nông nghiệp chỉ là một trong những nguồn cần thiết phát huy,
phải coi trọng các nguồn vốn khác nữa để khai thác hợp lý, đừng quá cường điệu vai
trò tích luỹ vốn từ nông nghiệp.
- Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp. ở hầu hết
các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản
xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông
nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác
động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông
nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông
thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng

bước nâng cao chất lượng có thể cạnh tranh với thị trường thế giới.
- Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại
nông, lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hoá công
nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu
dựa vào các loại nông, lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các nước trong quá trình
công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng
cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển
cao của nền kinh tế.
- Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền
vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như phân bón hoá học,
thuốc trừ sâu bệnh v.v… làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình canh tác dễ
gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện tích
đất rừng v.v… Vì thế, trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm những
giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường.
5


Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Ví dụ: Năm 1986, kim
ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2007 đã đạt tới
12 tỷ USD, tăng gấp 30 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông nghiệp không
chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao
đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều
hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những năm qua.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất nước
theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông
thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tếxã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.


6


PHẦN III:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Tình hình phát triển nông nghiệp - nông thôn trong thời gian vừa qua
3.1.1. Thành tựu
Nông nghiệp Việt Nam được ghi nhận có sự tiến bộ vượt bậc. Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu hàng đầu các mặt hàng nông sản, lương thực và nằm trong
nhóm 5 nước xuất khẩu lớn nhất. Những thành tựu cơ bản nhất của ngành nông
nghiệp Việt Nam, đó là:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp liên tục tăng. Trong 30 năm đổi
mới (1986 - 2016), nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn
định trong một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực.
Giá trị sản xuất nông nghiệp của Việt Nam tăng trưởng trung bình với tốc độ 4,06%/
năm giai đoạn (1986 - 2015). Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, mặc dù kinh tế vĩ
mô gặp nhiều khó khăn nhưng nông nghiệp, nông thôn vẫn là ngành giữ được tốc độ
tăng trưởng tương đối ổn định, bảo đảm cân bằng cho nền kinh tế. Việt Nam đã có 10
mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, bao gồm: gạo, cà phê, cao su, điều, tiêu, sắn,
rau quả, tôm, cá tra, lâm sản. Trong khi các ngành kinh tế khác còn đang chịu ảnh
hưởng lớn của suy thoái kinh tế, ngành nông nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn, đạt
kết quả khá toàn diện, tăng trưởng ngành đạt tốc độ khá cao. Năm 2014, ngành nông
nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 3,3% so với 2,6% (2012 - 2013), đánh dấu sự hồi phục
và tăng trưởng cao.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 3,13%, vượt mục tiêu
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra (2,6 - 3%). Chất lượng tăng trưởng tiếp tục
được cải thiện, tỷ trọng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất ngành đã tăng từ
57% (2010) lên 64,7% (2013); 67,8% (2014) và khoảng 68% (2015); năng suất lao

động xã hội ngành nông, lâm, thủy sản tăng gần gấp đôi từ 16,3 triệu đồng năm 2010
lên khoảng 31 triệu đồng năm 2015. Giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đất trồng trọt
đã tăng từ 54,6 triệu đồng/ha năm 2010 lên 79,3 triệu đồng/ha năm 2014 và khoảng
7


82 - 83 triệu đồng/ha năm 2015; cứ mỗi ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ
103,8 triệu đồng/ha (2013) lên 177,4 triệu đồng/ha (2014) và khoảng 183 triệu
đồng/ha (2015). Thu nhập của người dân nông thôn năm 2015 tăng khoảng 2 lần so
với năm 2010 (đạt mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng XI đề ra). Năm 2014, kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt tới 30,8 tỷ USD, mức kỷ lục cao nhất từ
trước đến nay. Mặc dù, năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh không cao,
nhưng nông nghiệp là ngành duy nhất có xuất siêu, giúp Việt Nam trở thành một trong
những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới về nhiều loại nông sản đa dạng như: gạo,
cà phê, hạt tiêu, cao su, các mặt hàng gỗ và thủy sản.
- Thứ hai, chương trình xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Xây dựng
nông thôn mới đã trở thành phong trào rộng khắp trong cả nước, nhờ đó nhiều vùng
nông thôn đã đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã tăng. Năm
2015 đã có khoảng 1.500 xã và 9 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Chính sách phát
triển nông nghiệp đã làm thay đổi rõ rệt nhiều vùng nông thôn, góp phần tích cực xóa
đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn. Việt Nam là một
trong những quốc gia có tỷ lệ xóa đói, giảm nghèo với tốc độ khá nhanh trên thế giới.
Trung bình mỗi năm khoảng 2% dân số thoát khỏi đói nghèo. Tính đến tháng 12-2015
có gần 15% xã và 11 huyện được công nhận nông thôn mới. Mục tiêu đến năm 2020
có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
- Thứ ba, hệ thống thủy lợi, đê điều tiếp tục được nâng cấp, đầu tư. Hệ thống
thủy lợi, đê điều được phát triển theo hướng đa mục tiêu và tăng cường năng lực ứng
phó với biến đổi khí hậu; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tiếp tục được
nâng cấp và hiện đại hóa; công tác quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
đã được quan tâm chỉ đạo; hoạt động hợp tác quốc tế được tăng cường; tham gia tích

cực đàm phán và tổ chức thực hiện các Hiệp định thương mại và tháo gỡ rào cản, phát
triển thị trường. Với hơn 2,7 tỷ USD nguồn vốn ODA đầu tư cho phát triển nông
nghiệp, mức kỷ lục trong giai đoạn 2010 - 2015, nhiều công trình thủy lợi, giao thông
nông thôn… được xây dựng, nâng cấp, sửa chữa.
Hệ thống giao thông trong nông thôn từng bước được xây dựng đồng bộ, hình
thành kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ cho việc xây dựng nền nông nghiệp bền
vững, như hệ thống đường giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống điện, hệ thống
thông tin, hệ thống cơ sở giáo dục và y tế…
- Thứ tư, tái cơ cấu nông nghiệp đã đạt được thành công bước đầu. Chương
trình tái cơ cấu nông ngiệp được triển khai trên cơ sở phát huy lợi thế của cả nước và
8


mỗi địa phương gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Giữ ổn định 3,8 triệu ha
đất trồng lúa nhằm hỗ trợ và nâng cao đời sống người trồng lúa. Sau 3 năm thực hiện
tái cơ cấu nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Ngành
trồng trọt giá trị tăng 3% (2013) và 3,2% (2014). Năng suất, chất lượng và giá cả
nhiều loại sản phẩm đã được nâng cao. Thu nhập bình quân/ha đất trồng trọt đạt 78,7
triệu đồng (2014) và 82,5 triệu đồng (2015). Ngành chăn nuôi đã chuyển từ hình thức
nhỏ, lẻ, phân tán sang hình thức trang trại, gia trại. Tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi
trong tổng giá trị nông nghiệp tăng. Giá các sản phẩm chăn nuôi ổn định, bảo đảm thu
nhập cho người chăn nuôi. Ngành thủy sản đã chuyển dịch cơ cấu giữa khai thác với
nuôi trồng. Năm 2015, tổng sản lượng thủy sản đạt 6,55 triệu tấn (tăng 3,4%).
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, phát triển nông nghiệp Việt Nam vẫn
còn một số những hạn chế, đó là:
- Thứ nhất, hạn chế trong cải cách đất đai và quyền sử dụng đất: Luật Đất đai
năm 2013 ban hành nhằm tăng cường sự phát triển của thị trường đất đai, duy trì thời
hạn quyền sử dụng đất, diện tích đất cho mỗi hộ gia đình, sự lựa chọn các loại cây
trồng, chuyển giao và trao đổi đất. Những quy định này nhằm bảo đảm bình đẳng về

tiếp cận đất đai giữa những người dân nông thôn, nhưng dẫn đến hạn chế khả năng
tích tụ đất đai và gây trở ngại cho đầu tư dài hạn.
Khả năng tích tụ và tập trung ruộng đất của nông dân thấp dẫn đến mức lợi
nhuận thu được từ những mảnh ruộng nhỏ không đủ để bảo đảm chi tiêu trong cuộc
sống của người nông dân. Nhiều nông dân vì làm nông nghiệp không hiệu quả, đã
phải kiếm thêm thu nhập bằng các hoạt động phi nông nghiệp phi chính thức. Nhưng
nghịch lý là họ vẫn muốn giữ đất như một sự bảo hiểm rủi ro vì ở nông thôn thiếu hệ
thống an sinh xã hội. Trong khi đó, với nguồn tích lũy hạn chế và thiếu hỗ trợ tín dụng
nên sẽ khó khăn cho các nông dân giỏi, có nhiều tâm huyết, có đủ khả năng mua hoặc
thuê lại đất của các nông dân khác. Kết quả là, nhiều đất nông nghiệp, đặc biệt tại khu
vực ven đô hoặc đất rừng được các nhà đầu tư thành thị mua hoặc thuê để đầu cơ, sử
dụng kém hiệu quả hoặc hoạt động theo hình thức phát canh thu tô. Chính sách giao
đất bình quân khiến đất nông nghiệp trở nên manh mún. Diện tích quy mô trang trại
của hộ gia đình nông nghiệp Việt Nam vào loại nhỏ nhất ở Đông Nam Á và trên thế
giới, khó có thể cơ giới hóa, hiện đại hóa và tiến hành thực hiện nền sản xuất lớn.
Thêm nữa, do số lao động rút khỏi ngành nông nghiệp không đủ lớn để làm giảm số
lượng lao động nông nghiệp trên diện tích đất đai cùng với việc chuyển diện tích lớn
9


đất nông nghiệp sang sử dụng với mục đích khác dẫn đến quy mô đất nông nghiệp
bình quân đầu người tiếp tục giảm. Trong khi, sức ép về việc làm cho lao động nông
thôn ngày một tăng. Do dân số tăng, hằng năm Việt Nam có thêm ít nhất 1,4 - 1,6
triệu người đến tuổi lao động được bổ sung vào lực lượng lao động, trong đó 0,9 triệu
lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Điều này tạo ra sức ép lớn
về việc làm và dòng người di cư từ nông thôn vào thành thị.
Vì vậy, cần phải xây dựng chính sách để người dân coi đất đai là tài sản của
mình, phải cải cách đất đai để nông dân tích tụ được đất đai với quy mô lớn. Có như
vậy, nông nghiệp mới có thể sử dụng có hiệu quả khoa học công nghệ vào thúc đẩy
nông nghiệp phát triển.

- Thứ hai, khoa học công nghệ trong nông nghiệp vừa thiếu lại vừa lạc hậu.
Mức độ đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp thấp mặc dù một số doanh nghiệp lớn đã
bắt đầu chuyển sang đầu tư vào nông nghiệp, nhưng nhìn chung vẫn còn rất ít, chỉ
khoảng vài phần trăm; đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp không đáng kể. Việc xây
dựng nền nông nghiệp công nghệ cao chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng
cao giá trị gia tăng, tạo cơ sở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp
theo hướng hiệu quả bền vững, gắn theo chuỗi giá trị. Thiết bị và công nghệ chế biến
sau thu hoạch còn lạc hậu, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến còn chưa phát
triển, quy mô nhỏ, tỷ lệ hao hụt, thất thoát cao. Phần lớn vật tư, thiết bị nông nghiệp
dựa vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài. Trong đó hơn 90% số máy kéo bốn bánh và
máy công tác kèm theo, máy gặt đập liên hợp phải nhập khẩu.
Đội ngũ khoa học nông nghiệp tuy đông nhưng không mạnh. Cán bộ có đủ
năng lực chủ trì đề tài nghiên cứu đưa lại kết quả cao chiếm tỷ lệ thấp, còn thiếu cán
bộ đầu ngành giỏi; nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ như công nghệ sinh học
thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của
các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn lạc hậu, không đồng bộ, dẫn đến tình trạng đào tạo
nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý
thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu trên một đơn vị sản phẩm.
- Thứ ba, hạn chế tiếp cận tín dụng nông nghiệp. Thị trường tài chính nông
thôn bao gồm một số tổ chức, trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam (VBARD) và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) có vị trí
hàng đầu, đại diện cho 66% của nguồn tín dụng nông thôn. Mặc dù các ngân hàng hợp
tác xã là các Quỹ tín dụng nhân dân (PCFs) và các tổ chức tài chính tư nhân khác đã
được thành lập, đến nay các tổ chức này không chiếm được vai trò đáng kể về tài
10


chính nông thôn. Thực tế này hạn chế tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng chính thức ở
khu vực nông thôn và lãi suất cao. Thiếu tài sản thế chấp cũng hạn chế tiếp cận tín
dụng của các hộ nông dân quy mô nhỏ. Kết quả là, một nửa số hộ gia đình nông thôn

vẫn không thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng và tín dụng phi chính thức vẫn là nguồn
tín dụng quan trọng nhất ở nông thôn.
- Thứ tư, thiếu kết cấu hạ tầng ở các khu vực nông thôn. Mặc dù Việt Nam đã
có những tiến bộ ấn tượng trong phát triển kết cấu hạ tầng, hiện có hơn 90% dân số
nông thôn được tiếp cận với điện và hơn 98,5% tiếp cận các tuyến đường. Tuy nhiên,
tăng trưởng kinh tế nhanh đã dẫn đến tắc nghẽn nghiêm trọng về kết cấu hạ tầng. Kết
cấu hạ tầng nông thôn ở Việt Nam nhìn chung vẫn lạc hậu. Hệ thống đường trục
chính, đường vận tải còn thiếu. Hầu như không có đường sắt, đường cao tốc để phục
vụ vận chuyển hàng nông sản xuất khẩu. Kết cấu hạ tầng mới thường nằm trong các
khu vực đô thị để kết nối các thành phố lớn, sân bay, cảng biển, khu công nghiệp,
trong khi kết cấu hạ tầng nông thôn thường là trong điều kiện nghèo nàn và không
được bảo dưỡng đúng mức. Việc thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng của chính quyền
địa phương triển khai chậm, dẫn đến cạnh tranh giữa các địa phương, cản trở sự phát
triển toàn diện về kết cấu hạ tầng và kết quả là các dự án kết cấu hạ tầng bị phân tán,
không được sử dụng tối ưu với tỷ lệ sử dụng thấp.
- Thứ năm, việc sử dụng quá nhiều phân bón, nhất là phân đạm trong trồng trọt
dẫn đến thừa nitrat (NO3) và gây nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng. Việt Nam
có khoảng 26 triệu ha đất nông nghiệp với nhu cầu sử dụng phân bón trung bình mỗi
năm khoảng 10 triệu tấn, trong đó gần 20% phân đạm. Để nâng cao năng suất cây
trồng, nông dân đã tăng lượng phân bón gấp 2-3 lần, thậm chí là 5-7 lần so với nhu
cầu, dẫn đến dư thừa lượng nitrat trong rau củ quả. Theo Tổ chức Lương thực và nông
nghiệp Liên hợp quốc, cây trồng chỉ sử dụng khoảng 40-50% số phân bón, còn lại bị
rửa trôi hoặc tồn tại trên các bộ phận của cây. Tập quán lãng phí và bữa bãi trong việc
sử dụng đạm hóa chất khiến dư thừa nitrat và khi vượt ngưỡng nó sẽ biến thành nitrit
gây nguy hại cho con người. Nitrat là một trong bốn yếu tố khiến rau không an toàn,
cùng với kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật và vi sinh vật. Khi làm lượng chất nitrat
vượt quá ngưỡng an toàn thì chúng được xem như độc chất, ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe người sử dụng, gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm.
- Thứ sáu, biến đổi khí hậu và tình trạng ô nhiễm đất nông nghiệp. Mức độ
biến đổi khí hậu những năm gần đây xảy ra nhanh, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông

Cửu Long ngày càng diễn biến phức tạp. Thời tiết khí hậu nóng bức ở miền Bắc
11


không thuận lợi cho cây lúa phát triển. Đặc biệt, dịch bệnh xảy ra đối với gia súc, gia
cầm có thể lây nhiễm sang người. Việc bảo vệ, ngăn chặn ngày càng khó khăn do nảy
sinh thêm những chủng loại mới; Sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong thời gian dài
đã sử dụng quá nhiều phân hóa học làm cho độ phì đất suy giảm, một khối lượng lớn
về đạm, lân đã bị rửa trôi, nước bị ô nhiễm hữu cơ, hàm lượng nitrat, nitrit tăng mạnh
đã làm cho môi trường nước, đất giảm chất lượng và ngày càng xấu đi. Việc sử dụng
phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách
tùy tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái, dẫn đến
thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại đến sức khoẻ con người.
Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm
dụng tài nguyên thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng
mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài
nguyên nước ngầm ở Tây nguyên, nguồn lợi hải sản ven bờ, đa dạng sinh học...). Môi
trường ở nông thôn chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở các khu công
nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế
bền vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy sản.
3.1.3. Những hạn chế trong phát triển nông nghiệp Việt Nam là do những
nguyên nhân cơ bản sau:
- Một là, cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp chưa rõ ràng, thiếu tính đột
phá. Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn cần làm rõ vai trò trung tâm
trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp để áp dụng các phương thức cho vay và cung
ứng sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp. Cho vay nông nghiệp không nhất thiết ngân
hàng phải đưa vốn trực tiếp cho nông dân mà có thể thông qua doanh nghiệp ứng
trước vật tư hàng hóa đầu vào, sau đó sẽ khấu trừ khi thu mua sản phẩm. Cần có chính
sách ưu đãi cho doanh nghiệp đối với diện tích đất cho xây dựng kết cấu hạ tầng chế
biến nông nghiệp như đất cho phơi sấy, đất xây dựng cơ sở chế biển, đất kho chứa...

Xây dựng và hoàn thiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên
cứu, áp dụng khoa học công nghệ trong chọn tạo giống, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
cho các doanh nghiệp chọn tạo giống.
- Hai là, môi trường kinh doanh nông nghiệp không hấp dẫn. Theo Báo cáo của
Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có điểm số thấp về điều kiện quản lý, kinh
doanh nông nghiệp. Môi trường kinh doanh giống cây trồng của Việt Nam ở mức
62,5/100 điểm, thấp hơn cả Campuchia, Bangladesh và Philippines. Thời gian đăng
12


ký cấp giấy phép kinh doanh giống nông nghiệp mới ở Việt Nam lên tới 901 ngày so
với Philippines (571 ngày) và Myanmar (306 ngày). Môi trường kinh doanh máy móc
nông nghiệp chỉ đạt 24,4/100 điểm (hơn Lào và Myanmar). Thủ tục và quy định cho
phép hưởng ưu đãi về thuế, phí còn nhiều bất cập. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam
vẫn chủ yếu dưới dạng thô. Vì vậy, cần xây dựng mô hình mẫu, đầu tư vào khu vực,
sản phẩm cụ thể để tạo nên sản phẩm, giá trị của Việt Nam.
- Ba là, đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Để thúc đẩy
sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn, điều kiện tiên quyết là tạo vốn cho nông
nghiệp và khơi thông dòng tín dụng nông nghiệp. Mặc dù, dòng tín dụng nông nghiệp
tăng trong thời gian qua, nhưng do năng lực sản xuất của lĩnh vực này vẫn còn rất lớn
nên chính sách tín dụng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa phát huy được hiệu
quả như mong đợi. Để tín dụng nông nghiệp, nông thôn được khơi thông cần có điều
kiện cần và điều kiện đủ. Điều kiện cần, đó là: Đơn giản hóa thủ tục vay vốn để nông
dân không mất nhiều thời gian làm thủ tục tín dụng. Điều chỉnh linh hoạt điều kiện
cho vay phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp, cải thiện điều kiện tiếp cận vốn
(bao gồm cả điều kiện về tài sản thế chấp). Mở rộng gói tín dụng cho vay theo vụ cây
trồng, cho vay tiêu dùng đối với hộ nông dân. Điều kiện đủ, bao gồm nghiên cứu cơ
chế bảo lãnh tín dụng cho nông dân một cách đơn giản, rõ ràng thay vì phải cầm cố
hay giao nộp sổ đỏ. Hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro trong nông nghiệp cho nông dân, bảo

hiểm lãi suất cho vay đối với một số sản phẩm… Nhờ vậy, rủi ro trong hoạt động đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ giảm, thúc đẩy các ngân hàng mạnh dạn hơn trong
đầu tư vốn vào lĩnh vực nông nghiệp.
- Bốn là, công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng cho các vùng sản xuất nông
nghiệp chưa đầy đủ. Quy hoạch kết cấu hạ tầng nông thôn chưa bảo đảm cho nhu cầu
phát triển, cơ giới hóa, hiện đại hóa (quy mô đồng ruộng, giao thông nội đồng); Kết
cấu hạ tầng nông thôn còn nhiều yếu kém, chưa tạo điều kiện ứng dụng máy móc
trong sản xuất. Bên cạnh đó, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, vốn tích lũy bình
quân một hộ nông thôn 16,8 triệu đồng (2011) và rất bấp bênh. Vì vậy, khả năng tích
lũy để đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị sản xuất của nông dân gặp nhiều khó
khăn; công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện và quản lý nông nghiệp của nhà nước còn
chưa hiệu quả; triển khai thực hiện các chính sách còn hạn chế.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu cũng như với đặc điểm tự
nhiên, kinh tế, xã hội đặc thù thì đẩy mạnh phát triển nông nghiệp là một hướng phát
13


triển phù hợp tại Việt Nam. Để phát triển nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh nhằm phát
triển bền vững cần định hướng cần đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao và
xây dựng thương hiệu nông sản. Chính hai định hướng cơ bản này sẽ nâng cao hiệu
quả sản xuất nông nghiệp và tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản nhằm góp phần nâng
cao doanh thu trong sản xuất nông nghiệp và mức thu nhập cho nông dân.
3.2. Một số đề xuất giải pháp để phát triển nền nông nghiệp nước nhà bền vững
Một là, xác định đúng vai trò của nông nghiệp trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội tạo căn cứ để đề ra chính sách và giải pháp phù hợp
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX của Đảng đã ban
hành Nghị quyết “Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn”. Nghị quyết khẳng định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”.

Để thống nhất nhận thức đối với chủ trương của Đảng ta về vai trò của nông
nghiệp, nông thôn trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo chúng tôi cần
lưu ý những vấn đề sau đây:
Trước đổi mới, các chính sách phát triển nông nghiệp thường thiên về thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp, có phần chưa coi trọng đúng mức vai trò, lợi ích của chủ thể
chính, động lực chính của phát triển nông nghiệp là nông dân. Cần quán triệt rằng,
mọi chính sách, chủ trương phát triển nông nghiệp phải chú ý đến nông dân, vì mục
tiêu, động lực chính để phát triển nông nghiệp là nông dân. Hay nói một cách khác,
phát triển nông nghiệp trước hết là do nông dân và vì nông dân. Đến nay, ở nước ta
vẫn còn hiện tượng được mùa nhưng nông dân không phấn khởi, được mùa mà thu
nhập không tăng.Nếu tình hình này kéo dài mà không được giải quyết sẽ làm mất
động lực phát triển nông nghiệp. Do đó, yêu cầu cơ bản của mọi chính sách nông
nghiệp là huy động được sức mạnh, tinh thần nhiệt tình của nông dân và mỗi bước
của quá trình phát triển nông nghiệp phải là mỗi bước nâng cao thu nhập và đời sống
của nông dân.
Nông thôn không đơn thuần là khu vực xã hội mà còn là khu vực kinh tế - kinh tế
nông thôn. Trên địa bàn nông thôn, ngoài nông nghiệp, còn có công nghiệp, dịch vụ thường gọi chung là những hoạt động phi nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là quá trình phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn về mặt xã hội phải gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ lệ các hoạt động phi nông nghiệp.

14


Như vậy, phát triển nông nghiệp nước ta không thể tách rời việc tiếp tục giải
quyết vấn đề nông dân và xây dựng nông thôn mới.
Đến nay, nông nghiệp nước ta vẫn tạo ra khoảng 22% GDP, 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu và gắn liền với việc làm, thu nhập và đời sống của khoảng 55% lao
động và khoảng 65% dân số cả nước. Trong quá trình hội nhập, nông sản nước ta
đang phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong và ngoài nước. Chủ thể sản xuất
chính, chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong kinh tế nông nghiệp Việt Nam hiện nay là hộ nông

dân. Có thể nói, kinh tế hộ nông dân đang là lực lượng tạo ra hầu hết các nông sản chủ
yếu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.Tuy có nhiều ưu thế nhưng kinh tế hộ nông
dân gặp không ít khó khăn, hạn chế. Đa số các hộ nông dân, nhất là ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, thiếu vốn, thiếu kiến thức kinh doanh, thiếu khả năng dự
báo, tiếp cận với thị trường - nhất là thị trường quốc tế. Vì thế, họ thường xuyên phải
đối mặt với rủi ro trong kinh doanh mà nguyên nhân chủ yếu là thiên tai, dịch bệnh và
sự thay đổi thường xuyên của thị trường. Do đó, thiếu sự tác động của Nhà nước
thông qua luật pháp, chính sách và của chính khu vực kinh tế nhà nướcthì tự thân
hàng chục triệu hộ nông dân nước ta rất khó trụ vững trước sự cạnh tranh gay gắt của
tự do giao lưu hàng hoá, mở cửa và hội nhập.
Đối với phát triển bền vững ở nước ta, vai trò của nông nghiệp, nông thôn thể
hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Đối với bền vững kinh tế: Ngành nông nghiệp ít phụ thuộc nguồn đầu vào từ
nước ngoài, tạo ra khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu; tạo nguyên liệu cho công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, v.v..
Đối với bền vững chính trị - xã hội: Nông nghiệp, nông thôn liên quan đến thu
nhập, việc làm, đời sống của gần 65% dân cư, 55% lao động xã hội, cung cấp lương
thực, thực phẩm - nhu cầu cơ bản của con người, là ngành gắn liền với dân cư ở vùng
biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, v.v..
Đối với bền vững tài nguyên, môi trường: Sử dụng đất đai, nguồn nước, bảo vệ
và phát triển rừng, sử dụng các biện pháp sinh học, v.v..
- Hai là, tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cây lương thực vẫn chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong cơ cấu cây trồng. Trong cây
lương thực, lúa vẫn là cây trồng chiếm vị trí tuyệt đối về diện tích, lao động và vốn
đầu tư của toàn ngành trồng trọt.

15



Trong thập kỷ tới, định hướng cơ bản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp là:
Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. An ninh lương thực quốc gia không chỉ
là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội. Tuy vậy, phải giải quyết vấn đề
an ninh lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá và nâng cao hiệu quả chung của
ngành nông nghiệp.
Trong thời gian tới cần có những biện pháp kinh tế phù hợp để giữ cho được
khoảng gần 4 triệu héc ta đất trồng lúa, tăng năng suất lúa để đạt sản lượng hằng năm
khoảng 40 triệu tấn lương thực. Hình thành những vùng lúa cao sản để tạo ra nguồn
nông sản ổn định.
Trong chuyển dịch ngành trồng trọt, tạo điều kiện và hỗ trợ cho các hộ nông
dân chuyển dịch theo hướng tạo ra thu nhập và lãi lớn nhất trên một đơn vị diện tích
đất đai. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, vừa phải điều tra nắm bắt nhu cầu thị
trường, vừa phải tiết kiệm chi phí sản xuất, chế biến, tiêu thụ hàng hoá.
Cần lựa chọn nhóm các hướng cây trồng, vật nuôi sau: (1) Nhóm khả năng
cạnh tranh nhưng buộc phải có sự tác động lớn; (2) Nhóm các sản phẩm Việt Nam có
lợi thế để xuất khẩu (thuỷ sản, cà phê, cao su, rau quả...); (3) Nhóm các sản phẩm thay
thế nhập khẩu.
Dù có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng hiện nay, hằng năm Việt Nam vẫn
phải nhập khẩu bông, thịt bò cao cấp, một số loại rau. Mở rộng diện tích bông không
những giải quyết vấn đề nguyên liệu cho ngành may mà còn góp phần tạo thêm hàng
trăm nghìn việc làm mới cho dân cư (trồng bông và dệt, may).
Mở rộng nuôi trồng thuỷ sản, ưu tiên chăn nuôi những ngành ít tiêu dùng lương
thực. Nhanh chóng thực hiện thâm canh ngành chăn nuôi.
- Ba là, thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn
Ở nước ta, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quy
hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được thực hiện trước đổi mới. Trong
những năm gần đây, công tác quy hoạch bước đầu được chú trọng hơn. Trong thời
gian tới cần đẩy mạnh nghiên cứu các căn cứ để xây dựng và điều chỉnh quy hoạch,
trong đó, cần lưu ý những căn cứ chính:

- Khảo sát, dự báo thị trường và những thay đổi về kinh tế - chính trị khu vực
và quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp. Trong đó, cần chú ý đến sự thay đổi
của quan hệ kinh tế quốc tế trực tiếp ảnh hưởng đến Việt Nam như: (a) Về sản phẩm
16


chủ lực của nông sản Việt Nam; (b) Về quan hệ của Việt Nam đối với các tổ chức
kinh tế quốc tế như ASEAN, WTO; (c) Về quan hệ với các đối tác và đối thủ cạnh
tranh chính cho những mặt hàng chủ lực.
- Điều tra toàn diện về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các vùng làm căn
cứ xác thực, toàn diện cho việc xây dựng, điều chỉnh quy hoạch phát triển nông
nghiệp.
- Điều chỉnh quy hoạch về quy mô, cơ cấu các sản phẩm chủ lực trong nông
nghiệp nước ta. Trong việc xác định các nhóm nông sản cho tương lai, cần so sánh rõ
hơn với các đối tác và đối thủ cạnh tranh quốc tế, ít nhất cho ba nhóm sản phẩm nông
nghiệp sau đây:
Nhóm 1 gồm các nông sản có lợi thế và có quy mô xuất khẩu lớn như lúa gạo,
cà phê, điều, hồ tiêu, một số thuỷ sản...
Nhóm 2 gồm các nông sản có khả năng cạnh tranh, có điều kiện như chè, rau
quả, một số sản phẩm chăn nuôi.
Nhóm 3 gồm các nông sản có khả năng phát triển để thay thế nhập khẩu như
sữa, thịt bò, bông...
Trước mắt, cần ưu tiên thực hiện quy hoạch nông thôn cho các vùng nông thôn
ven đô thị, vùng nông thôn đồng bằng, vùng có tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá
cao. Trong quy hoạch nông thôn, ít nhất phải thể hiện việc quy hoạch không gian đất
đai cho các mục đích sau đây:
+ Đất đai dùng cho sản xuất nông nghiệp.
+ Đất đai dùng làm nhà ở, xây dựng các khu dân cư theo yêu cầu kết hợp giữa
kinh tế với văn hoá, xã hội và môi trường.
+ Đất dành cho sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ.

+ Đất dành cho giao thông, thuỷ lợi và các kết cấu hạ tầng khác.
+ Đất dành cho các cơ sở văn hoá, phúc lợi.
- Bốn là, đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Điểm đột phá, động lực quan trọng tạo nên những thay đổi lớn trong nông
nghiệp nước ta là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giao quyền sử dụng
đất đai lâu dài cho hộ nông dân và nông dân được tự do phân phối kết quả sản xuất.
Đến nay, về cơ bản, những điều trên đã được thể chế hoá bằng pháp luật, chính sách
và triển khai trong thực tiễn. Nhưng sau động lực đó, động lực tiếp theo của phát triển
17


nông nghiệp là gì? Theo chúng tôi, những thay đổi lớn trong nông nghiệp chủ yếu là
thay đổi cách quản lý, thay đổi cơ chế, chưa có sự thay đổi lớn lao về cách làm nông
nghiệp. Trong thời gian tới, cùng với tiếp tục hoàn thiện về cơ chế, chính sách, cần
xúc tiến một cuộc cách mạng về công nghệ trong nông nghiệp.
- Năm là, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng tiêu thụ hàng nông sản
và các hàng hoá từ nông thôn
Trong nền nông nghiệp hàng hoá, do nhiều nhân tố khác nhau tác động, nông sản
phẩm đến tay người tiêu dùng thường diễn ra tình trạng: sản xuất nông nghiệp trải rộng ra
trên không gian rộng nên thường tạo ra sự chênh lệch giữa giá nông trại và giá thị trường;
sản phẩm nông nghiệp ứ đọng trong khi thị trường vẫn khan hiếm hoặc đắt đỏ.
Trong những năm gần đây, tiêu thụ nông sản đã trở thành một vấn đề khó khăn,
thách thức lớn đối với nông nghiệp nước ta. Trong khi nhu cầu sử dụng thực phẩm
tươi sống thường xuyên quanh năm; nhưng sản phẩm lại theo mùa vụ do gắn với đất
đai và khí hậu nên sản xuất nông sản được trải ra trên không gian rộng; nơi sản xuất
và thị trường tiêu thụ thường cách xa nhau. Do đó, phát triển công nghệ sau thu
hoạch, công nghiệp chế biến, xử lý quan hệ giữa giá nông sản tại nơi sản xuất và nơi
tiêu dùng cuối cùng có vai trò rất quan trọng đối với kinh tế nông nghiệp.
Hiện nay, chi phí đầu tư còn cao, giá nông sản tại ruộng của nông dân cao và sự
yếu kém của bảo quản, chế biến, vận tải, dịch vụ... làm cho giá của nông sản phẩm rất

cao, làm giảm khả năng cạnh tranh và tiêu thụ nông sản. Thực tế này đòi hỏi phải
được nghiên cứu, phân tích lợi thế của từng vùng để quy hoạch các vùng nông sản
phù hợp; giảm thiểu chênh lệch giữa giá nông trại và giá thị trường của nông sản cũng
như giảm thiểu hao hụt sau thu hoạch; kết hợp ngay từ đầu giữa sản xuất nguyên liệu
nông sản với công nghiệp chế biến; giảm thiểu chi phí vận tải, dịch vụ lưu thông nông
sản; tổ chức tiêu thụ sản phẩm khoa học chủ động, hiệu quả.

18


PHẦN IV: KẾT LUẬN
Nông nghiệp Việt Nam đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế đất
nước, đặc biệt góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
cư dân nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá quan trọng,
tham gia ngày càng sâu sắc vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nền nông nghiệp
của Việt Nam đã và đang chuyển mạnh từ sản xuất theo mục tiêu số lượng sang hiệu
quả và chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bền vững. Phát triển bền
vững nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm mà Đảng và Chính phủ quan
tâm và đã được thể hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách như Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
phát triển nhanh, bền vững”.
Như vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững theo tinh thần Đại hội
XII chính là quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh
thái, nhằm thỏa mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho sản xuất
của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai.
Tính bền vững của hệ thống sản xuất nông nghiệp là kết quả của sự kết hợp hài
hòa các nội dung nói trên. Nếu một yếu tố nào đó gây tác động tiêu cực hoặc giữa

chúng phát sinh những tác động ngược chiều nhau thì toàn bộ hệ thống bị ảnh hưởng.
Phương thức phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững là sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, chuyển từ khai thác tài nguyên thiên nhiên, đến phát triển “bảo
dưỡng”, tiến tới làm phong phú thêm thiên nhiên. Từ việc lấy hàng hóa nông sản làm
trung tâm, chuyển sang lấy con người làm chủ thể phát triển là trung tâm. Từ phương
thức phát triển chủ yếu gia tăng sản lượng và giá trị đến phương thức phát triển cần
đồng thời đạt được các mục tiêu về cả kinh tế, môi trường và xã hội. Trên cơ sở ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ gien, công nghệ sinh học,
bảo vệ các loài thiên địch. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi phù hợp
với lợi thế vùng, miền, nâng cao năng suất và giá trị lao động trong nông nghiệp, gắn
với giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, hạn chế tác động của
biến đổi khí hậu, nước biển dâng và bảo vệ môi trường bền vững.
Để thực hiện tốt những vấn đề nêu trên, cần đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững; đồng thời, phải tạo sự đột
phá về tổ chức và quản lý quy hoạch cùng với hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế chính
19


sách để thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước. Việc ứng dụng khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sạch nhằm bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái cũng là một vấn đề cần được quan
tâm. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư và trợ giúp kỹ thuật, công nghệ cho các tiểu
ngành có giá trị gia tăng cao trong nông nghiệp để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ
cấu lao động đáp ứng tốt yêu cầu của một nền nông nghiệp hiện đại và hiệu quả./.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Nguyên lý kinh tế nông nghiệp, Đỗ Kim Chung, NXB nông
nghiệp 2009;
2. Đề án “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”;
3. Phát triển và hội nhập: Phát triển Nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi
mới, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn, Báo Nông
nghiệp;
4. Website của Bộ Nông nghiệp và PTNT: www.mard.gov.vn
5. Website của Tổng cục thống kê:
6. Theo Vneconomy, chính sách nào để phát triển Nông thôn, nâng cao thu
nhập nông dân, Châu Văn Ly.

21



×