Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Cơ sở văn hóa Việt NamThánh địa Mỹ Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Đề tài: THÁNH ĐỊA MỸ SƠN
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu
DANH SÁCH NHÓM
Đào Thị Mỹ Tiên

15124147

Lê Hồng Quỳnh Như

15124121

Võ Thị Kiều Duyên

15124078

Trần Thị Quỳnh Mai

15124110

Nguyễn Văn Thống
Nguyễn Thị Thanh Kim Ngân

Tp.HCM, ngày 9 tháng 5 năm 2016

15124140


15124113


Đề tài: Thánh Địa MỹDanh
Sơn sách sinh viên thực hiện đề tài Nhóm 3
1. Đào Thị Mỹ Tiên
2. Lê Hồng Quỳnh Như
3. Võ Thị Kiều Duyên
4. Trần Thị Quỳnh Mai
5. Nguyễn Văn Thống
6. Nguyễn Thị Thanh Kim Ngân

Lớp: sáng thứ 5 tiết 3-4 (8h50 – 10h30)
Giảng viên hướng dẫn: Trương Thị Mỹ Châu
Điểm

Nhận xét của giảng viên:

Giảng viên ký tên

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

2


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................4
KIẾN THỨC CƠ BẢN

CHƯƠNG 1: Tổng quan về Thánh địa Mỹ Sơn...............................................7
1.1. Lịch sử hình thành thánh địa Mỹ Sơn.....................................................7
1.1.1. Vị trí địa lí và đặc điểm chung........................................................7
1.1.2. Quá trình hình thành thánh địa Mỹ Sơn.........................................8
1.1.3. Quá trình đề nghị và công nhận....................................................10
1.2. Những nét đặc sắc của nền văn hóa Chăm Pa ở di sản Mỹ Sơn............11
1.2.1. Nét đặc sắc về điêu khắc...............................................................11
1.2.2. Nét đặc sắc về kiến trúc................................................................12
1.2.2.1 Bố cục Thánh địa...................................................................12
1.2.2.2 Kiến trúc................................................................................16
1.2.3. Nét đặc sắc về nghệ thuật ca múa nhạc........................................16
1.2.4. Nét đặc sắc về tôn giáo tín ngưỡng..............................................19
1.2.5. Nét đặc sắc về chữ viết, bi ký.......................................................19
CHƯƠNG 2: Thực trạng hiện nay và giải pháp.............................................20
2.1. Thực trạng khai thác di sản phục vụ du lịch..........................................20
2.1.1 Hiện trạng của di sản......................................................................20
2.1.2 Thực trạng khai thác.......................................................................21
2.1.2.1 Những kết quả đạt được........................................................21
2.1.2.2 Những hạn chế và và kiến nghị.............................................23
2.2. Những biện pháp khắc phục và giải pháp thực hiện.............................25
KẾT LUẬN..........................................................................................................27
PHỤ LỤC.............................................................................................................28

LỜI NÓI ĐẦU
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

3


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

1.

Lý do chọn đề tài.
Du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã từng bước vươn lên góp phần xứng

đáng trong tăng trưởng kinh tế hàng năm và có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội của nước ta. Nếu như tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang
sơ, độc đáo, tính truyền thống cũng như tính địa phương của nó thì tài nguyên du lịch nhân
văn thu hút khách bởi tính đa dạng, phong phú, độc đáo, tính truyền thống cũng như tính địa
phương của nó. Đây là cơ sở tạo nên các loại hình du lịch văn hoá phong phú.
Xu hướng du lịch chung cho những năm tới chính là sự thống trị của du lịch văn hóa,
trong đó có du lịch tâm linh. Đây cũng là thế mạnh và cũng là yếu tố cạnh tranh của du lịch
Việt Nam với nền văn hóa phương Đông giàu bản sắc.Nam Định là một địa phương có tiềm
năng du lịch to lớn. Có thể nói rất ít địa phương trong cả nước lại tập trung nhiều tài nguyên
du lịch có giá trị quốc gia và quốc tế như Nam Định: nổi bật là Thánh địa Mỹ Sơn. Tuy
nhiên việc khai thác và phát triển du lịch Nam Định trong những năm qua lại chưa tương
xứng với những tiềm năng phong phú đó.
Là một công dân của đất nước Việt Nam, em cảm thấy tự hào khi mình được học và
tìm hiểu về văn hóa Việt Nam, về truyền thống lịch sử, về những nét đẹp tâm linh.... Bằng
tình cảm “uống nước nhớ nguồn” thế hệ chúng em mong muốn được duy trì bảo tồn và phát
triển các tinh hoa văn hóa của dân tộc để giới thiệu với mọi người và bạn bè trên thế giới
những tinh hoa đó. Chính vì những lý do trên nhóm em đã chọn đề tài “ Thánh địa Mỹ Sơn”
để làm đề tài tiểu luận của nhóm mình.
2.

Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát, đánh giá về những di sản Mỹ Sơn, đề tài khẳng định tiềm

năng và sức hút của loại hình du lịch tâm linh này tại vùng đất có bề dày truyền thống văn
hóa Nam Định mà đặc biệt hơn là của Mỹ Sơn. Từ đó, đề xuất những hướng đi phù hợp để

có thể phát huy hiệu quả thế mạnh của du lịch tâm linh ở Việt Nam nói chung và ở Nam
Định nói riêng.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

4


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Để thực mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Đưa ra một số khái niệm, quan điểm để bước đầu tìm hiểu về loại hình du lịch tâm
linh
- Khảo sát, đánh giá các tiềm năng cũng như thực trạng phát triển du lịch tâm linh
thánh địa Mỹ Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi để khai thác có hiệu quả các tiềm năng văn hóa và
thúc đẩy sự phát triển các hoạt động du lịch tại đây.

4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Tiểu luận tập hợp và xây dựng hệ thống lý luận về du lịch văn hóa
tâm linh Mỹ Sơn và đưa ra biện pháp cho các phương thức hoạt động của di sản thánh địa
Mỹ Sơn. Đề tài là một nghiên cứu mới đóng góp cho ngành du lịch ở Việt Nam. Đây cũng
có thể là cơ sở tham khảo cho các đề tài khác có lien quan.
- Ý nghĩa thực tiễn: các kết quả nghiên cứu của bài tiểu luận sẽ đóng góp làm tài liệu
tham khảo cho các cơ quan, doanh nghiệp du lịch khai thác loại hình văn hóa tâm linh và nổi
bật là thánh địa Mỹ Sơn.
5.


Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:Với đề tài này, tiểu luận tập trung vào nghiên cứu các đối
tượng cụ thể sau: về các hoạt động du lịch ở Mỹ Sơn, hiện vật ở Mỹ Sơn, các hạt động văn
hóa tâm linh, đền tháp…
- Phạm vi nghiên cứu:


Nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của Mỹ Sơn trong từng giai đoạn, biết
được cấu trúc phân bố cũng như những vẻ đẹp ri6ng về kiến trúc, điêu khắc mà chỉ Mỹ
Sơn mới có.



Nghiên cứu về thực trạng khai thác của thánh địa Mỹ Sơn cũng như những kết quả đạt
được. Từ đó có những giải pháp khả thi để bảo tồn và phát huy tìm năng du lịch của đất
ng.ước nói nói chung , của Quảng Nam nói riêng.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

5


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập thông tin từ mạng, từ tài liệu tham khảo như sách, báo, tạp chí có nội dung
liên quan, các báo cáo về du lịch của thánh địa Mỹ Sơn của tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: là việc lựa chọn, sắp xếp các nguồn tài liệu nhằm
định lượng chính xác và đầy đủ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, từ đó tổng hợp thành
những quan điểm, nhận xét để đưa ra cái nhìn khái quát về đối tượng nghiên cứu.


GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

6


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÁNH ĐỊA MỸ SƠN
1.1. Lịch sử hình thành của thánh địa Mỹ Sơn
1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm chung
Di sản Văn hóa Thế giới Khu đền tháp Chăm Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam có vị trí tọa độ địa lý:
Vĩ độ Bắc: 15o515
Kinh độ Đông: 108o573
Quy hoạch bảo tồn và phát huy có tổng diện tích: 1.158 ha
- Mỹ Sơn cách Trà Kiệu (Kinh thành Simhapura) 20 km.
- Cách Di sản Văn hóa Thế giới Đô thị cổ Hội An 45 km.
- Cách cố đô Huế - Di sản Văn hóa Thế giới 145 km.
- Cách thành phố Đà Nẵng 68 km.
Đây là khu di tích tôn giáo vĩ đại nhất của người Champa, được khởi công xây dựng từ
thế kỉ IV với quần thể hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc khác nhau.
Tháng 12 năm 1999, Thánh Địa Mỹ Sơn được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế
giới.

Toàn cảnh Thánh địa Mỹ Sơn

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

7



Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc-thể hiện ở các đền tháp
đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ và về văn hóa, thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ
Phạn cổ trên các tấm bia.

Bia ký bằng chữ Phạn (Ấn Độ)

1.1.2. Quá trình hình thành Thánh địa Mỹ Sơn.
Thánh địa Mỹ Sơn được một toán lính Pháp tình cờ phát hiện vào năm 1885. Mười
năm sau (1895), Camille Paris đến đây nghiên cứu và ông đã cho phát quang, dọn dẹp khu
di tích này.
Đến năm 1898-1899, hai nhà khoa học người Pháp là Louis Finot và Lunet de
Lajonquiere đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia.
Năm 1901-1902, kiến trúc sư kiêm nhà khảo cổ học người Pháp là Henri Parmentier
thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp đến đo đạc và nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc của Mỹ Sơn. Trong hai năm (1903-1904), Henri Parmentier cùng với Charles
Carpeaux đã tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây. Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản
nhất để tìm hiểu về văn bia và nghệ thuật của Mỹ Sơn được Louis Finot và Henri
Parmentier công bố trên đặc san nghiên cứu của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Bulletin
de I’Ecole francaise d’Extreme-Orient), số 4/1904.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

8


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

Tháp cổ tại Thánh địa Mỹ Sơn

Trên nền tảng đó sau này Louis Finot đã công bố bản dịch ra tiếng Pháp 25 văn bia tìm
thấy tại Mỹ sơn có niên đại từ cuối thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XIII, không kể hàng năm
mảnh vỡ của những bia ký bị đập phá. Còn Henri Parmentier đã kiểm kê được khoảng 68
dấu tích và công trình kiến trúc, ông chia thành từng nhóm A, B… đến M, N. Một số tác
phẩm điêu khắc nổi bật tại Mỹ Sơn được đưa về trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà
Nẵng, số khác và phần lớn các bia ký đều được bảo quản và trưng bày tại chỗ.
Qua những văn bia tìm thấy được, phần nào đã cho chúng ta biết về quá trình hình
thành các đền tháp Champa tại Mỹ Sơn. Theo nội dung của một tấm bia có niên đại thế kỷ
thứ IV tại Mỹ Sơn cho biết, vua Bhadravarman đã cho xây dựng tại đây một ngôi đền bằng
gỗ để thờ Linga của thần Siva-Bhadresvara. Văn bia có đoạn : “Ngài đã cúng dâng cho thần
Bhadresvara một khu vực vĩnh viễn, phía đông là núi Sulaha, phía nam là núi Mahaparvata,
phía tây là núi Kusala, phía bắc là núi … làm ranh giới. Ngài cúng dâng cho thần tất cả
ruộng đất và đân cư trong phạm vi đó, hoa lợi phải dâng cúng cho thần,… Hai thế kỷ sau,
dưới triều vua Rudrsvarman, tại đây đã xảy ra hỏa hoạn và ngôi đền này bị thiêu rụi, sau đó
được vị vua kế vị là Sambhuvarman khôi phục lại. Có lẽ, những triều vua kế tiếp đã cho
dựng thêm những kiến trúc đền tháp khác, nhưng cũng được làm bằng gỗ, mãi đến thế kỷ
thứ VII-VIII thì mới chuyển sang xây dựng bằng các chất liệu bền vững như gạch, đá, là thứ
chất liệu quý để cúng dâng thần linh do ảnh hưởng các đền thờ ở miền Nam Ấn Độ.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

9


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

Một số di sản còn sót lại về kiến trúc
Dưới triều đại của hai vị vua Vikrantavarman I và Vikrantavarman II (629-757), tại
Mỹ sơn, vị thần- vua Bhadresvara vẫn được chú ý đặc biệt. Ngoài việc xây dựng thêm nhiều
đền miếu tại Mỹ Sơn, vua Vikrantavarman I còn dâng cúng đất đai, kosa bằng kim loại quý

để bọc Linga và nhiều đồ quý khác cho thần Bhadresvara. Sau đó, do nhiều nguyên nhân, có
thể do sự hưng thịnh của Phật giáo, suốt một thời gian dài, Mỹ Sơn và vị thần ở Mỹ Sơn
không còn giữ vai trò là thánh địa quốc gia và vị thần chủ của quốc gia. Phải đến đầu thế kỷ
thứ X, do Siva giáo đã lấy lại được vị trí chủ đạo trong đời sống vương quyền ở champa nên
Thánh địa Mỹ Sơn được phục hồi. Phần lớn những kiến trúc đẹp nhất, lớn nhất ở Mỹ Sơn
như tháp A1, nhiều kiến trúc của các nhóm B, C, D, K, G, H… đều được xây dựng vào thế
kỷ thứ X.

1.1.3. Quá trình đề nghị và được công nhận.
Theo Công ước quốc tế, một di sản quốc gia được công nhận là di sản văn hóa thế giới
phải đảm bảo đầy đủ 1 trong 6 tiêu chuẩn sau:
1

. Là tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con người.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

10


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
2

. Có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật cấu
tạo không gian trong một thời gian nhất định, trong một khung cảnh văn hóa nhất
định.

3

. Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã biến mất.


4

. Cung cấp ví dụ hung hồn cho một thể loại xây dựng, hoặc kiến trúc phản ánh một
giai đoạn lịch sử có ý nghĩa.

5

. Cung cấp ví dụ hùng hồn về một dạng nhà ở truyền thống nói lên được một nền văn
hóa đang có nguy cơ bị hủy hoại trước những biến động không cưỡng lại được.

6

. Có mối liên hệ trực tiếp với những sự kiện, tín ngưỡng đáp ứng được những tiêu
chuẩn xác thực về ý tưởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng như về vị trí.
Để tiếp tục công việc bảo tồn di tích, năm 1995, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn đã phối

hợp với Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương thiết lập các dự án tu bổ cấp thiết
từng cụm di tích trên cơ sở quy hoạch toàn vùng. Nổi bật nhất trong những năm 1998-1999,
Ban đã hoàn thành được hồ sơ để trình UNESCO công nhận Mỹ Sơn là Di sản Thế giới.
Tháng 12 năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế
giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn (2) như là một ví dụ điển
hình về trao đổi văn hóa với sự hội nhập vào văn hóa bản địa từ những ảnh hưởng văn hóa
bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo từ tiểu lục địa Ấn Độ; và theo tiêu
chuẩn (3) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh Châu Á đã biến mất, phản ánh sinh
động tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa Champa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á.

1.2. Những nét đặc sắc của nền văn hóa Chăm Pa ở di sản Mỹ Sơn
1.2.1. Nét đặc sắc về điêu khắc
Nghệ thuật Champa là một trong những nền nghệ thuật đặc sắc trong lịch sử phát triển

nghệ thuật của khu vực nói riêng và nghệ thuật Việt Nam nói chung, là nghệ thuật có tính
hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu và công chúng yêu nghệ thuật.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

11


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Nghệ thuật Champa tiếp nhận những ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ - cũng giống
như một số nền văn hóa trong khu vực Nam Á, Đông Nam Á, nhưng quá trình bản địa hóa
đã diễn ra nhanh chóng và sớm tạo ra những nét độc đáo, hấp dẫn của một phong cách nghệ
thuật.
Điêu khắc cổ Champa có niên đại chung từ thế kỷ VII – XVI với các phong cách Mỹ
Sơn E1(thế kỷ VII – VIII), Hòa Lai (đầu thế kỷ IX), Đồng Dương (cuối thế kỷ IX), Trà Kiệu
(thế kỷ X), Tháp Mẫm (thế kỷ XII – XIII), Po Klaung Garai (thế kỷ XIV – XVI).
1.2.2.

Nét đặc sắc về kiến trúc

1.2.2.1 Bố cục Thánh địa
Theo các công trình nghiên cứu của Henri Parmentier ở Mỹ Sơn có hơn 70 công trình
kiến trúc và ông đã chia thành ba khu vực chính. Mỗi khu vực lại có từ một đến
nhiều kiến trúc. Trong đó: khu tháp Chùa (khu A và khu A1) có 19 di tích; khu tháp
Chợ (khu B, C, D) có 27 di tích và các khu khác có từ một đến 2 di tích. Trong đó, khu tháp
Chùa (A1) được xem là đỉnh cao nghệ thuật của đền tháp Champa.
Theo Philippe Stern, một học giả lỗi lạc về nghệ thuật Đông Dương, quản thủ Bảo tàng
Guirnet tại Paris, thì nghệ thuật Champa phát triển liên tục theo các phong cách kế tiếp nhau
như sau: Phong cách cổ - Phong cách Hòa Lai – Phong cách Đồng Dương – Phong cách Mỹ
Sơn – Phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn và phong cách Bình Định – Phong

cách Bình Định – Phong cách muộn.
Nhìn chung, các đền tháp Mỹ Sơn được xây dựng theo một cách tổng thể như sau: Một
đền thờ chính ở giữa (người Chăm gọi là Kalan) tượng trưng cho ngọn núi Mêru, trung tâm
của vũ trụ, nơi ngự trị của thần linh, thờ Linga hoặc linh tượng của thần Siva, đối diện là một
tháp cổng (gopura), rồi đến một tiền đình (mandapa), là nơi chuẩn bị lễ vật hoặc múa hát
cúng dâng thần linh. Những tháp phụ biểu tượng cho các lục địa, những châu lục. Ở Ấn Độ,
người ta đào chung quanh những công trình này những rãnh sâu biểu tượng cho đại dương.
Ở Mỹ Sơn lại không thấy chi tiết đó.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

12


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Và một công trình kiến trúc khác có một hoặc hai phòng luôn luôn xoay về hướng bắc,
làm hướng của thần Tài Lộc Kuvera, gọi là kosagrha để chưa đồ tế nhuyễn hoặc nấu thức ăn
dâng cúng chư thần. Phía trước đền thờ chính thường có một ngôi tháp nhỏ có bốn cửa để
đựng bia ký.

Một số kiến trúc tiêu biểu

Bố cục tháp
NHÓM THÁP A:
Tháp A1: Đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa vào thế kỉ thứ V, sau thế kỉ thứ X thì nghệ
thuật Chămpa càng bị mai một, bị bom đạn chiến tranh làm cho sụp đổ vào năm 1969.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

13



Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Tháp A1 cao 24m, cao nhất ở Mỹ Sơn đá xây tháp được lấy cách đó khoảng 15km.
Người ta cho rằng người Chăm đã dùng sức vật để kéo đá dọc theo bờ suối. Tháp A1 có hai
cửa Đông và cửa Tây. Ở trung tâm tháp có Linga lớn nhất Mỹ Sơn, không biết lí do gì mà
Linga bị khiêng ra ngoài. Sự kết hợp giữa vương và thần được thể hiện qua ngẩu tượng
Linga. Linga có ba phần: phần trụ ở trên cùng tương ứng với thần Siva- huỷ diệt chưa hoàn
thiện để sáng tạo cái mới. Phần bát giác ở giữa tượng trưng cho thần Vishnus- thần bảo tồn.
Phần hình vuông ở dưới tượng trưng cho Brahma- thần sáng tạo. Linga nay là một biểu
tượng cho tam vị nhất thể.

Bản vẽ tháp A1

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

14


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
NHÓM THÁP B:
Tháp B1: đối diện với tháp A1 là biểu tượng của núi Mêru, là trung tâm vũ trụ, nơi
tập trung các vị thần. Tháp có thờ thần Siva. Có một cửa ra vào, các ô quanh tường là
nơi thắp đèn cầy.
Tháp B3: thờ thần Skanda - thần chiến tranh.
Tháp B4: thờ thần Ganesa - con thần Siva, có đầu voi mình người. Đây là thần may
mắn và hạnh phúc.
Tháp B5: quay về hướng Bắc, thờ thần Kover, thần tài lộc. Tháp cũng là nơi giữ đồ
hành lễ.
Tháp B6: bên trong có một hồ nước thánh dùng trong các nghi lễ. Tháp B2: là tháp

cổng đối diện với tháp chính. Kế nữa là nhà tĩnh tâm, nơi các người đi hành lễ tĩnh tâm,
chuẩn bị cho nghi lễ. Xung quanh B1 có nhiều miếu phụ. Mỗi miếu phụ thờ một vị
thần: thần mặt trời, Kubera...mỗi vị thần giữ một hướng bảo vệ tháp chính. Những tháp
đó ngày nay không còn, chỉ còn lại B7.
Bên cạnh nhóm B về hướng Bắc là nhóm C với ngôi đền chính C1. Trong tháp

C1

thờ linh tượng của thần Siva ở tư thế đứng. Kết hợp với tháp B1, tháp C1 đã phản một tục
thờ đặc biệt của thánh địa Mỹ Sơn là: thờ một cặp gồm linh tượng của đấng thần vua trong
hình tượng của thần Siva và một bộ Linga của thần.
NHÓM THÁP E & F: Là nhóm tháp muộn nhất. Hiện không còn gì nhiều, có hai pho
tượng; giữ thần cửa - hộ pháp Dravabala, thần bò Nandin. Nhóm tháp này hiện nay chỉ còn
hai tháp và một cái Mukha Linga.
NHÓM THÁP G: Nhóm G này được xây dựng vào thế kỉ thứ XIII. Ở nhóm tháp này
người Chămpa đã dùng chất liệu mới để xây tháp là đá ong. Xung quanh tháp có trang trí
những mặt nạ thần Kala- thần thời gian. Bốn góc tháp có hình bốn con sư tử bảo vệ cho tháp.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

15


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Cách bài trí bàn thờ ở Mỹ Sơn biểu hiện tín ngưỡng và vũ trụ quan độc đáo của cư
dân Champa xưa nên đã khiến cho Mỹ Sơn trở thành di tích duy nhất trong hệ thống đền thờ
Champa thể hiện tục thờ tự này.

1.2.2.2. Kiến trúc
Bằng vật liệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên

một quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: đền chính (Kalan) thờ Linga – Yoni biểu
tượng của năng lực sáng tạo, bên cạnh tháp chính là những tháp thờ nhiều vị thần khác hoặc
thờ những vị vua đã mất. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều khu tháp thành
phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại
những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu một
thời huy hoàng của văn hóa kiến trúc Champa nói riêng cũng như Đông Nam Á nói chung.
“Trong từng viên gạch, từng tấm phù điêu vũ nữ đang say múa, từng ngôi tháp cổ đổ nát…
như đang kể cho khách phương xa những câu chuyện về thời kỳ rực rỡ đã qua”.
1.2.3.

Nét đặc sắc về nghệ thuật ca múa nhạc

Trong suốt quá trình lịch sử, người Chăm đã sáng tạo nên một nền văn hóa phát triển
cao, một nền nghệ thuật dân gian đặc sắc. Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm cùng với
Giava và Khơme được đánh giá là một trong ba nền nghệ thuật đặc sắc ở Đông Nam Á mang
tầm cỡ thế giới.
Ca múa nhạc dân tộc Chăm phản ánh khá rõ nét cách nhận thức, quan niệm, thẩm mỹ,
thể hiện tình cảm, sự tưởng nhớ của mình đối với các bậc tiền nhân đã có công xây dựng quê
hương đất nước đem sự bình yên cho dân làng , hay sự sùng bái một hoặc một vài vị vua
được thần hóa.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

16


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

Vũ điệu Chăm
Nghệ thuật ca múa nhạc dân gian – loại hình nghệ thuật gắn với lễ hội Chăm

Người Chăm đang lưu giữ một kho tàng dân ca với những làn điệu, cung bậc có quan
hệ mật thiết với dân ca người Việt và các làn điệu dân ca của các dân tộc sống cộng cư, cận
cư khác .
Kho tàng nhạc lễ, hát lễ được các tu sĩ Balamôn lưu truyền và hát ở các nghi lễ, đây là
nhạc lễ có nguồn gốc tôn giáo Balamôn từ Ấn Độ xa xưa.
Mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bị lớp bụi thời gian phủ lấp, cuộc chiến
tranh chống Pháp và chống Mý kéo dài, ác liệt đã hủy diệt bao đền đài, tháp cổ và cả những
giá trị văn hóa phi vật thể khác, nhưng ca múa nhạc dân gian Chăm như những viên ngọc quí
vẫn âm thầm tồn tại trong cộng đồng dân tộc Chăm nhờ vào môi trường lễ hội.
Nghệ thuật ca múa nhạc không tách rời giá trị đặc trưng trong từng lễ hội với những
bài ca nghi lễ (Dcannuy), hát dân gian (Douh Mưduôn), dân ca, dân vũ (Paran douh), hát
giao duyên (Douh Dam Dara)…

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

17


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn


Âm nhạc dân gian Chăm: Nền âm nhạc mang nặng tính thiêng

Người chăm có một nền âm nhạc dân gian truyền thống rất phong phú, được hình thành và
phát triển sớm trong lịch sử dân tộc. Ngày nay, đến xã hội Chăm, chúng ta sẽ chứng kiến
những lễ hội đan xen, dày đặc trong năm mang đậm chất tôn giáo. Bởi thế, nên bất kỳ lễ hội
nào của họ cũng có âm nhạc và múa. Âm nhạc trở thành một yếu tố của lễ, là nghi thức của
buổi lễ và còn là linh hồn của buổi lễ. Đồng bào Chăm ví âm nhạc như phần hồn của cả dân
tộc và dường như bất biến với thời gian.



Múa dân gian Chăm: Một đặc trưng của văn hóa Chăm

Không chỉ có một nền âm nhạc dân tộc độc đáo và đa dạng, người Chăm có nghệ thuật
múa dân gian đặc sắc, và là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của
dân tộc Chăm. Tiếng trống paranưng nổi lên hòa quyện với tiếng kèn saranai như cuốn hút
những bước chân của những chàng trai, cô gái Chăm bước vào những điệu múa uyển chuyển
nhịp nhàng, những điệu múa say cuốn, mê hoặc lòng người mang đậm phong cách văn hóa
Chăm.
Đa phần các điệu múa của người Chăm đều gắn liền với lễ hội, mà hệ thống lễ hội của
người Chăm thì vô cùng phong phú. Mỗi điệu múa chứa đựng những nội dung khác nhau,
nhưng đều phản ánh ước vọng của người Chăm trước thần linh, dân tộc, thiên nhiên và cộng
đồng.
Vũ điệu múa Chăm thường bắt nguồn từ những động tác lao động, sinh hoạt hàng ngày
và đều phản ánh những ước vọng của con người trước thần linh, thiên nhiên và cuộc sống
cộng đồng.
Trong nghệ thuật múa dân gian Chăm, múa “thiêng” chiếm giữ một vị trí quan trọng.
Những phong cách múa truyền thống Chăm còn thể hiện trên các mảng điêu khắc như
Vũ nữ Trà Kiệu, Apsara và các tượng thần Ấn Độ giáo như Siva, Brahma, Visnu...
Múa Chăm thường sử dụng các loại đạo cụ như khăn, roi, trống, quạt... và dựa vào
từng loại đạo cụ mà đặt tên cho điệu múa.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

18


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
1.2.4.


Nét đặc sắc về tôn giáo tín ngưỡng

Văn hóa Chămpa thuộc một nhánh của đạo Bàlamôn . Nếu như đạo Bàlamôn ở Ấn Độ
tôn thờ thần Brama (thần sáng tạo), thần Visnu (thần bảo vệ), thần Siva (thần hủy diệt) trong
đó đặc biệt coi trọng thần Brama. Đạo Hindu cũng thờ ba vị thần như đạo Bàlamôn, nhưng
lại thiên về thờ thần Visnu và thần Siva.
Còn ở Mỹ Sơn, thần Siva được tôn sùng như một vị thần có đủ sức mạnh, sản sinh ra muôn
loài và sáng tạo thế giới. Đạo Bàlamôn đã thay đổi theo đặc tính “chất dương tính trong tích
cách bản địa”, thần Siva đại diện cho uy lực, sức mạnh, thuộc đặc tính dương.
1.2.5.

Nét đặc sắc về chữ viết, bi ký

Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn đến các trước tác
về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa
thích.
Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công
nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các
bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ
Từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn,
nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn.
Xuất phát từ dạng tự chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong
tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo
các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ
thảo của người Ấn Độ.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

19



Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng khai thác di sản phục vụ du lịch
2.1.1 Hiện trạng của di sản
Di sản Văn hóa Thế giới Khu đền tháp Chăm Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Khu thánh địa tọa lạc trong một thung lũng kín có địa thế núi non
hùng vĩ, thâm nghiêm. Nơi đây, với hơn 70 công trình kiến trúc đền tháp của nền văn minh
Chămpa được kết tinh trong những di chứng vật chất trường tồn, chứa đựng những giá trị về
lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật được tạo lập trong một thời gian dài suốt 9 thế kỷ (từ
thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII), được đánh giá ngang hàng với các di tích nổi tiếng trong khu
vực Đông Nam Á như Ăngko, Pagan, Bôrôbudua. Trước những giá trị nổi bật toàn cầu của
một khu di sản văn hóa cần phải được bảo vệ vì lợi ích của cả nhân loại, ngày 4 tháng 12
năm 1999, tại thành phố Marr kesk - Nước cộng hòa Marocco, khu di tích Mỹ Sơn được ghi
danh vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO.
Nhiều thế kỷ sau đó, các tháp lớn nhỏ đã tiếp tục được bổ sung và trở thành khu di tích
chính của văn hóa Chăm pa tại Việt Nam. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, chịu sự tàn phá của
chiến tranh, nhiều tháp và lăng mộ đã bị hư hỏng nặng nề mặc dù công tác bảo tồn từng
được triển khai từ những năm 1937 bởi các nhà khoa học Pháp.
Là di sản có tầm quan trọng đặc biệt, cùng với môi trường cảnh quan độc đáo có giá trị
to lớn, thế nhưng Mỹ Sơn có những giai đoạn đứng trước nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng
bởi chiến tranh, thiên tai và sự bào mòn của thời gian, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ( như
khí hậu, dòng chảy...). Vào cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, suýt nữa Mỹ Sơn còn bị chìm
xuống lòng hồ, khi người ta định đắp con đập ngăn dòng suối Khe Thẻ, để làm công trình
thủy lợi. Đến thời điểm hiện tại khu di tích Mỹ Sơn chỉ còn lại khoảng 20 công trình kiến
trúc và phần lớn không còn nguyên vẹn. Hầu hết các di tích đều bị bom đạn chia cắt thành
từng mảng, phá thủng, đánh sập, vùi lấp trong những đống đất, rạn nứt, xiêu vẹo; chấn động

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu


20


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
của bom đạn làm mất liên kết giữa các viên gạch và các bộ phận chịu lực. Gạch và đá bị
phong hóa do độ ẩm cao và sự khắc nghiệt của khí hậu. Cỏ cây xâm thực khắp mọi nơi, mọi
chỗ trên toàn bộ khu di tích. Hầu hết các hệ mái đều sụp, hư hại nặng. Tất cả đều ở trong
tình trạng kĩ thuất rất xấu, các đền tháp chưa được trùng tu có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào.
Gần đây nhất là tình trạng sụt lún, nghiêng và rạn nứt đang làm ảnh hưởng tới tháp B3 của
quần thể di tích. Đây là tháp bị ảnh hưởng nặng nề nhất do bom đạn chiến tranh. Cách chân
tháp khoảng 5m vẫn còn dấu vết của một hố bom để lại, chính điều này đã dẫn đến hiện
tượng sụt lún, khiến tháp nghiêng 8 độ về hướng Tây Nam với khe nứt sâu 7cm, rộng 4m.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, Tháp B3 là tháp có những giá trị vô cùng độc đáo bởi
không chỉ mang những tiêu chí cơ bản của phong cách kiến trúc nghệ thuật Chăm mà còn là
điển hình cho kiến trúc nghệ thuật đương thời, góp phần tạo nên nét độc đáo hiếm có của
toàn bộ quần thể di tích.
Nhìn chung, tình trạng khu di tích có thể chia làm 3 dạng chính như sau: - Các di tích
đã được gia cố, tái định vị, khôi phục từng phần gồm các di tích thuộc nhóm B, C, D. Các di
tích này có tình trạng kỹ thuật tương đối tốt song vẫn tiếp tục bị xâm thực bởi môi trường tự
nhiên; - Các di tích đã được phát lộ nhưng chưa có điều kiện trùng tu gồm các di tích thuộc
nhóm F, một phần nhóm E và một phần nhóm A. - Các di tích trong trình trạng đổ nát, bị vùi
lấp ở các nhóm di tích còn lại.

2.1.2 Thực trạng khai thác
2.1.2.1 Những kết quả đạt được
Mỹ Sơn sau khi được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới (12-1999) càng
có sức hút với khách du lịch, lượng khách du lịch đến với thánh địa Mỹ Sơn đã tăng rõ rệt.
Giai đoạn 1997-2004, lượng du khách từ 22.272 lượt người tăng lên 107.512 lượt, trong đó
khách quốc tế tăng 3,7 lần; khách nội địa tăng 9 lần. Năm 2006, hơn 140.000 lượt khách,

doanh thu gần 6,2 tỷ đồng. Năm 2010, có hơn 200.000 lượt khách đến Mỹ Sơn, doanh thu
đạt 10,5 tỷ đồng. Hiện nay, khu du lịch Mỹ Sơn thu hút khoảng 500.000 lượt khách mỗi
năm.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

21


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Hình ảnh du lịch của Mỹ Sơn đang được quảng bá tích cực thông qua những hoạt động
về du lịch của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Chương trình “Hành trình
văn hóa” được tổ chức định kì 2 năm một lần, nhằm quảng bá hình ảnh của Mỹ Sơn nói
riêng và tỉnh Quảng Nam một cách rộng rãi hơn và kích thích nhu cầu tham quan tìm hiểu
của du khách. Bên cạnh đó, hình ảnh Mỹ Sơn còn được giới thiệu kèm với những địa danh
khác, chẳng hạn như chương trình du lịch “ Ba địa phương, một điểm đến” ( Thừa Thiên
Huế- Quảng Nam- Đà Nẵng). Hoặc nằm trong hành trình “ Con đường di sản miền Trung”,
bên cạnh các di sản văn thế giới khác như: Quần thể Kiến trúc Cố đô Huế, Phong Nha – Kẻ
Bàng, Phố cổ Hội An. Ấn tượng về Mỹ Sơn còn được xây dựng giữa lòng thủ đô Hà Nội với
tuần lễ văn hóa du lịch “Hương sắc Quảng Nam” với những điệu múa tái hiện lại nghi thức
thờ cúng trong tôn giáo, những nét đặc sắc riêng biệt của người Champa, mô phỏng không
gian Mỹ Sơn…được khách du lịch tại Hà Nội và người dân thủ đô hết sức hoan nghênh.
Để phát triển du lịch tại Mỹ Sơn, tỉnh nhà Quảng Nam cùng với các công ty du lịch đã
xây dựng nhiều chương trình du lịch, lễ hội đặc sắc, thu hút một lượng lớn du khách trong và
ngoài nước. Từ năm 2006, thánh địa Mỹ Sơn được đẩy mạnh du lịch văn hóa với những
khám phá hết sức ấn tượng cùng các lễ hội như: lễ hội Bà Thu Bồn, Mùa xuân bên tháp cổ,
Đêm Mỹ Sơn huyền ảo…Đặc biệt chương trình lễ hội “ Đêm Mỹ Sơn huyền ảo” được đầu
tư khá kĩ lưỡng với những hoạt động mở của đón du khách khám phá vẻ đẹp huyền ảo, thú
vị của khu đền tháp cổ kính trong không gian đêm; thưởng thức những “vũ điệu Champa bên
tháp cổ”. Những tour “Mỹ Sơn sớm” tham quan Mỹ Sơn lung linh trong sương sớm được tổ

chức và đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ du khách. Ngoài ra còn có những tour tham
quan Mỹ Sơn bằng thuyền, xe đạp…
Song song với việc khai thác du lịch từ các tháp cổ Mỹ Sơn, chính quyền địa phương
huyện Duy Xuyên đã đầu tư xây dựng Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh – Champa, rộng 500m2.
Đây là một trong những công trình quan trọng để khách dừng chân trên hành trình từ phố cổ
đến thánh địa Mỹ Sơn. Cũng trên cung đường này, du khách có thể kết hợp thăm làng Phú
Bông – một làng quê còn mang đậm chất làng quê xứ Quảng và một số làng quê truyền
thống như chiếu cói An Phước, trồng dâu nuối tằm, ươm tơ dệt lụa Đông Yên, gốm sứ La

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

22


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Tháp. SỰ đa dạng về sản phẩm du lịch nơi đây đã tạo điều kiện thu hút được nhiều lượt
khách du lịch đến thánh địa.

2.1.2.2 Những hạn chế và và kiến nghị
Tuy nhiên, việc xây dựng chương trình phát triển du lịch ở Mỹ Sơn vẫn chưa triệt để,
chưa mang tính lâu dài. Hầu hết chỉ mang tính tạm thời, ngắn hạn. Như chương trình “ Đêm
Mỹ Sơn huyền ảo” được đầu tư rất kĩ, dự kiến là chương trình dài ngày và được tổ chức
thường niên. Nhưng, chỉ tồn tại 3 năm (từ 2006-2009) thì phải tạm ngừng vì tếu kinh phí và
khai thác kông hiệu quả. Bên cạnh đó, quang cảnh xung quanh kh di tích thánh địa Mỹ Sơn
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển du lich.Giữa khu đến có hai hàng tượng đá
không đầu, chẳng phải do thời gian làm hư hỏng mà chính do con người đánh cắp làm của
riêng. Kèm theo đó là sự xuống cấp trầm trọng của các di tích, đền thờ, tượng cổ…đang làm
cho cảnh quang du lịch nơi đây dần biến mất. Ngoài ra, khu thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn tồn
tại hàng tấn bom mìn còn sót lại trong chiến tranh nằm sâu trong long đất, đê dọa đến sự an
toàn của du khách và di tích.

Công tác quảng cáo tuy có được quan tâm song chỉ mang tính địa phương, chưa được
quảng bá một cách rộng rãi trên các phương tiện thong tin đại chúng như truyền hình,
Internet…Và đặc biệt chưa có một chương trình nào giới thiệu về du lịch tại Mỹ Sơn trên
các kênh truyền hình nước ngoài (CNN, BBC, TV5…). So với khu đền Angkor của
Campuchia, đền Boropudua của Indonesia…thì Mỹ Sơn của Việt Nam vẫn chỉ như một nơi
“hoang dã, xa xôi hẻo lánh và không ai biết đến”.
Về cơ sở kĩ thuật phục vụ du lịch (cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất) còn rất thấp, nhu cầu
du khách chưa được đáp ứng thỏa mãn. Vì nhiều lí do, đến nay, Mỹ Sơn vẫn chưa được khai
thác hết giá trị, tiềm năng của một di sản văn hóa thế giới, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu
cầu. Khu thánh địa nằm ở vị trí rất xa trục lộ, xa vùng dân cư sinh sống; thêm vào đó đường
dẫn vào khu di tích nhỏ, hẹp, trước đây chỉ là con đường đất đỏ lầy lội, đi lại khó khăn, hiện
tại thì có đoạn được bê tông hóa, có đoạn thì vẫn còn là đất đỏ. Điện đường hầu như không
có; các dịch vụ công cộng như y tế, chỗ nghỉ chân, vệ sinh cá nhân và các hàng quán phục

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

23


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
vụ khách dọc đường thiếu nghiêm trọng. Về cơ sở vật chất phục vụ du lịch thiếu và yếu trầm
trọng. Hệ thống cơ sở lưu trú hầu như không có, nếu có chỉ mang tính chất nhỏ lẻ.
Đến nay, chưa có một cơ sở lưu trú nào ở Mỹ Sơn hay Duy Xuyên đạt tầm chất lượng
quốc tế, đa số là những nhà nghỉ rẻ tiền, bình dân…Chính điều này là điểm yếu nhất của cả
tỉnh Quảng Nam và Mỹ Sơn trong việc giữ chân du khách, đa số du khách đến tham quan
trong ngày rồi về. Bên cạnh đó, bên trong khu di tích cũng khá sơ sài, chỉ mới dựng nên các
con đường lót đá cho du khách tiện đi lại. Ngoài ra thiếu các bảng chỉ đường, hướng dẫn du
khách vào khu di tích, du khách không biết lối nào đi tiếp, lỗi nào ra, làm mất thời gian của
du khách. Còn các hướng dẫn hay các chú thích trên các di vật thì gần như là con sô 0, có
chăng chỉ là các code mã của những khu vực để tiện cho các nhà khảo sát nghiên cứu.

Đội ngũ cán bộ, nhân viên ở đây thiếu trầm trọng và trình độ còn chưa được cao. Thiếu
đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp, thiếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn và kĩ năng tác
nghiệp; sự hướng dẫn cho khách còn hạn chế, thiếu nhiệt tình. Thiếu nhân lực phục vụ trong
các lĩnh vực nhà hàng, khách sạn và các dịch vụ khách. Phần lớn đều do cơ sở vật chất phục
vụ du lịch còn yếu kém.
Để giải bài toán cho việc cải thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ ở Mỹ Sơn, vừa qua UBND
tỉnh có tờ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị
khu di tích Mỹ Sơn đến năm 2020 với tổng kinh phí là 282 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và
nguồn vốn huy động. Ngoài ra, tại hội thảo kêu gọi đầu tư vào Quảng Nam được tổ chức ở
Hội An vào tháng 8 vừa qua, một số nhà đầu tư như Vina Capital, Vinpearl... cũng đã có ý
định triển khai các dự án khai thác tiềm năng du lịch ở Mỹ Sơn, Hội An... Ông Hồ Tấn
Cường - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết: Sở sẽ tổ chức một hội
thảo với thành phần là các nhà đầu tư, các công ty du lịch, những người có tâm huyết với du
lịch Quảng Nam, đặc biệt là Mỹ Sơn nhằm tìm hướng khai thác hết giá trị vốn có. Nội dung
hướng tới giải bài toán: cải thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ; tạo ra nhiều sản phẩm du lịch hơn
tại Mỹ Sơn; khôi phục lại sản phẩm du lịch “Đêm Mỹ Sơn huyền ảo” vào năm 2009...
Việt Nam và UNESCO đã phối hợp thực hiện thành công giai đoạn 1 của dự án với
trọng tâm là nghiên cứu, khảo cổ, lập bản đồ thông tin địa lý khu đền tháp di tích Mỹ Sơn.

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

24


Đề tài: Thánh Địa Mỹ Sơn
Gắn các điểm đến văn hóa với các danh lam thắng cảnh ( tài nguyên du lịch thiên nhiên)
Không chỉ có di sản văn hóa, Duyên hải Nam Trung bộ còn có nhiều thắng cảnh đẹp, nổi
tiếng: vịnh Nha Trang, biển Phan Thiết, núi Ngũ Hành Sơn… Nếu kết hợp cả hai hoạt động
này gắn kết với nhau để phát triển du lịch một cách hiệu quả thì khu vực Nam Trung bộ sẽ là
nơi hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch ngày

một nhiều .

2.2. Những biện pháp khắc phục và giải pháp thực hiện
Dấu mốc quan trọng trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Mỹ Sơn là
vào năm 1999, khi Mỹ sơn được vinh danh Di sản Văn hóa Thế giới, đây là niềm tự hào,
đồng thời cũng là trọng trách đặt lên vai người làm công tác bảo tồn và quản lý Mỹ Sơn.
Công cuộc bảo tồn không còn là chuyện chống đỡ cho di tích khỏi xuống cấp mà phải đảm
bảo tính toàn vẹn, tính xác thực theo quy định của Công ước bảo tồn di sản của thế giới, đảm
bảo sự bền vững cho di tích kiến trúc có giá trị ngàn năm của nhân loại.
Công tác bảo tồn trùng tu di tích bao gồm việc rà phá bom mìn, vật liệu nổ, xử lý chất
độc hóa học; phát quang giải tỏa thu gom các thành phần chi tiết của các di tích bị đổ, phát
lộ khảo cổ học và gia cố các di tích, tôn tạo, tổ chức không gian các nhóm đền tháp và cải
tạo kỹ thuật hạ tầng khu vực di tích...
Trong công tác bảo tồn, trùng tu, Mỹ Sơn đã nhận được sự quan tâm của các cấp,
ngành từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức quốc tế bằng nhiều chương trình, dự án
như đề án tổng thể Bảo tồn và Phát huy giá trị Khu di tích Mỹ Sơn 2008-2020 của Chính
phủ; các Nghị quyết về Phát triển du lịch Duy Xuyên giai đoạn 2010-2015 và tầm nhìn 2020
của địa phương; Chương trình hợp tác với tổ chức Jica-Nhật Bản, xây dựng nhà trưng bày
Mỹ; hợp tác với tổ chức Foundation thực hiện chương trình thông tin địa lý (GIS); hợp tác
ba bên Việt Nam-UNESCO -Italia thực hiện dự án "Thuyết trình và đào tạo các tiêu chuẩn
quốc tế về bảo tồn nhóm tháp G, Mỹ Sơn"... Trong những năm qua, di sản Mỹ Sơn đã được
phát huy giá trị theo hướng tích cực. Hàng năm đón trên 200 nghìn lượt khách tham quan...

GVHD: Trương Thị Mỹ Châu

25


×