ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÍ
TIỂU LUẬN
NHỮNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
CỦA PHÁP GIA
Học viên
: Trần Thị Nguyên Quí
Người hướng dẫn
: TS. PHẠM HUY THÀNH
Đà Nẵng, tháng 06 năm 2017
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 2
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 2
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 2
1.3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 2
CHƯƠNG 2. NHỮNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA ............... 3
2.1. Nguyên nhân xuất hiện học thuyết Pháp trị .......................................... 3
2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết Pháp trị của Hàn Phi ................ 6
2.2.1. Những cơ sở của học thuyết ................................................................ 6
2.2.2. Những nội dung cơ bản ....................................................................... 7
2.2.3. Những mặt tồn tại.............................................................................. 11
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ ĐẾN XÂY
DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM ................ 16
3.1. Nhà nước pháp quyền trong thời đại mới............................................ 16
3.1.1. Chế độ Pháp trị trong Nhà nước pháp quyền ................................... 16
3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền ............................ 17
3.1.3. Giá trị cơ bản cần thừa kế và phát huy của Nhà nước pháp quyền . 18
3.2. Các nội dung cần thực hiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam......................................................................................................... 19
1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Đặt vấn đề
Vào thời kỳ Trung Quốc cổ, các nhà triết học xuất sắc đã đưa ra những giải
pháp khác nhau trong vấn đề quản lý nhà nước. Trong bối cảnh đó, học thuyết
Pháp trị của trường phái Pháp gia, đặc biệt là tư tưởng của Hàn Phi Tử đã được
Tần Thủy Hoàng sử dụng có hiệu quả trong việc thống nhất Trung Quốc và có vai
trò rất to lớn trong việc trị nước trong những năm sau đó của nhà Tần.
Tư tưởng pháp trị của Pháp gia tuy có những hạn chế hình thành bởi điều
kiện lịch sử và sự chi phối của lợi ích giai cấp, nhưng nếu biết cách vận dụng thì
vẫn có ý nghĩa để vận dụng vào quản lý Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay. Ý nghĩa và bài học lịch sử đó là tinh thần thượng tôn pháp luật, đó là tư
tưởng “biến pháp”, đó là tính nghiêm minh trong thi hành pháp luật, đó còn là
chính sách đào tạo sử dụng con người (dụng nhân) trong bộ máy Nhà nước.
Những giá trị của tư tưởng pháp trị có tác dụng thiết lập pháp luật nhằm ổn
định chính trị và xã hội. Chính vì vậy, trong điều kiện lịch sử hiện nay, việc nghiên
cứu, tham khảo và sử dụng tư tưởng Pháp trị một cách phù hợp là điều rất cần
thiết trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay
nhằm tăng cường pháp chế Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam và quản lý xã hội bằng pháp luật.
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những tư tưởng pháp trị của pháp gia.
Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu những tư tưởng pháp trị ảnh hưởng đến
đời sống con người Việt Nam
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết dựa trên các tài liệu lịch sử về pháp gia.
2
CHƯƠNG 2. NHỮNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA
2.1. Nguyên nhân xuất hiện học thuyết Pháp trị
Tất cả các học thuyết cũng như trường phái tư tưởng đều không thể tách rời
cuộc sống và luôn bị qui định bởi những điều kiện vật chất của xã hội. Sự ra đời
của học thuyết Pháp trị, có thể khái quát bởi một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do thực tiễn xã hội khủng hoảng đặt ra yêu cầu cho lí luận giải đáp.
Trải qua thực tiễn sản xuất lâu dài, người Trung Quốc cổ đại đã tích lũy được
nhiều kinh nghiệm phong phú ở nhiều lĩnh vực và khái quát thành những tri thức
khoa học ở trình độ tiên tiến. Những kinh nghiệm và tri thức khoa học đó đã được
vận dụng trong thực tiễn, góp phần quan trọng để thúc đẩy sản xuất đi lên. Đó là
lí do có thể giải thích vì sao trong điều kiện xã hội Trung Quốc cổ đại liên tục có
chiến tranh nhưng kinh tế vẫn không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành
tựu hết sức to lớn.
Khi mới thi hành chính sách phân phong, sự ràng buộc của nhà Chu đối với
các nước chư hầu, một mặt dựa vào quan hệ họ hàng, mặt khác dựa vào quan hệ
giữa tôn chủ và bồi thần, đã tạo ra một trật tự xã hội đẳng cấp ban đầu tương đối
ổn định. Nhờ đó mà nhà Chu và giai cấp thống trị đã tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Nhưng đến thời Xuân Thu, mối quan hệ họ hàng đã trở nên xa xôi và nhà Chu với
tư cách là lãnh chúa lớn không còn đủ thế lực để bắt những người được kế thừa
đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Ở các nước chư hầu, tình hình cũng
tương tự: ngoài thái ấp là bổng lộc và ruộng đất được ban thưởng ra, các đại phu
còn tranh giành đất đai của nhau, thậm chí còn xâm chiếm đất đai của nhà vua và
biến dần thành ruộng đất tư của họ. Ở thời kì này, hiện tượng mua bán ruộng đất
đã xuất hiện, là kết quả tất yếu của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, đồng thời
là việc mua bán ruộng đất lại thúc đẩy chế độ ruộng đất tư phát triển nhanh chóng.
Quan hệ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất được hình thành và phát triển như một
xu thế không thể đảo ngược. Sang thời Chiến Quốc, chế độ ruộng tư càng phát
triển mạnh. Năm 359 TCN, nước Tần thực hiện cải cách của Thương Ưởng, tuyên
bố bỏ chế độ tỉnh điền, cho dân được mua bán ruộng đất. Quá trình tan rã của các
3
chế độ phân phong và tỉnh điền diễn ra song song với quá trình xác lập chế độ
chiếm hữu tư nhân về ruộng đất để phát triển thành quan hệ sở hữu thống trị. Từ
chỗ là cái tích cực ban đầu, chế độ ruộng đất của nhà Chu đã trở thành lạc hậu,
cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự ra đời của quan hệ sản xuất mới
tiến bộ là sự thay thế khách quan.
Chế độ phân phong, chế độ tỉnh điền, trật tự tông pháp bị phá bỏ là hệ quả
tất yếu của những mâu thuẫn đó. Đồng thời những mâu thuẫn kinh tế được biểu
hiện thành mâu thuẫn xã hội, giữa một bên là các tập đoàn thống tri với một bên
là tầng lớp địa chủ mới nổi và quí tộc chủ nô đang suy tàn, là nguyên nhân của
tình trạng cát cứ, tiếm ngôi, tranh giành bá chủ và khủng hoảng xã hội triền miên.
Đó là thời kì bá đạo lấn át vương đạo và bạo lực, chiến tranh được xem là phương
thức giải quyết quan hệ giữa các nước. Xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ trải qua
những biến động lục sử lớn lao do những nguyên nhân nội tại và thực chất của
biến động ấy là bước chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn và phong kiến sơ kì
sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền.
Chính trong bối cảnh thời đại biến động toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
những vấn đề triết học, kích thích lòng người, khiến các bậc tài sĩ đượng thời quan
tâm lí giải, để tìm ra phương pháp giải quyết cứu người, cứu đời, làm nảy sinh
một loại các đại biểu và các trường phái tư tưởng nổi tiếng, đại diện cho lợi ích
của các tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau, vừa đấu tranh hết sức quyết liệt: Lão
gia kêu gọi vô vi, Nho gia chủ trương lễ trị, Mạc gia đề xuất kiêm ái, Pháp gia
theo đường lối pháp trị…
Thứ hai, do sự bất lực của các học thuyết chính trị đương thời.
Lão Tử cho rằng xã hội loạn lạc là do con người vi phạm quy luật tự nhiên,
nên ông chủ trương vô vi nhi trị, khuyên mọi người từ bỏ mọi thành quả văn minh
và chạy trống vào tự nhiên, thoát li thực tế. Trang Tử, học trò của ông, lại muốn
đi về một nẻo xa hơn, bi quan yếm thế gần như thoát tục, chỉ còn mong “được làm
con rùa để lết cái đuôi trong bùn”. Khổng Tử cho rằng xã hội loạn là do lễ chế nhà
Chu buông lỏng nên chủ trương khôi phục lễ. Làm quan ở nước Lỗ trong vài
4
tháng, còn lại suốt cuộc đời ông chu du hơn mười nước để truyền bá chủ trương
của mình nhưng chẳng có ai nghe. Hơn 50 tuổi, ông về quê dạy học và đến cuối
đời cũng phải kêu lên: “Đạo của ta sắp mất rồi chăng?”. Gần 200 năm sau, trong
khi chiến tranh loạn lạc bên ngoài xã hội vẫn diễn ra gay gắt, Mạnh Tử tiếp tục tư
tưởng của thầy mình. Nhiệt tình, say mê với lí tưởng, ông cũng không tiếc sức
khuyên răn các bậc cầm quyền đi theo con đường vương đạo, lấy đức trị dân. Khi
sang nước Lương, được Lương Huệ Vương đón tiếp và hỏi: “Thầy chẳng quản
đường xa đến đây, chắc sẽ dạy cho quả nhân được điều gì có lợi?” Mạnh Tử đáp
rằng: “Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi; chỉ nên bàn về nhân nghĩa mà thôi”. Nước
Đằng nhỏ bé bị Tề, Sở ở hai bên lăm le thôn tính, gặp được Mạnh Tử sang truyền
bá vương đạo, Đằng Văn Công mừng rỡ hỏi thầy có cao kế gì cứu nước Đằng
trong lúc nguy nan, Mạnh Tử chỉ biết khuyên họ Đằng hãy lấy đức thu phục lòng
dân để vua tôi đồng lòng chống giặc, còn trường hợp không chống nổi địch thì
đành … bỏ đi nơi khác!
Là người đề xuất chủ trương Kiêm ái, kêu gọi xây dựng xã hội trên cơ sở
tình thương không phân biệt giai cấp, Mạc Tử cùng hàng ngàn đệ tử bôn ba truyền
đạo khắp nơi, song cuối cùng cũng chẳng được ai trọng dụng. Khổng Tử, Mạnh
Tử, Mạc Tử đều là những nhà tư tưởng lớn, nhiệt tình lo toan cứu đời, không quản
thời gian và nhiệt huyết để truyền bá chủ trương nhưng không một nhà cầm quyền
nào nghe theo; học thuyết tư tưởng của họ đều được ra đời tương đối sớm nhưng
không có một học thuyết nào trở thành hệ tư tưởng thống trị. Khổng Tử đứng trên
lập trường của giai cấp quí tộc cấp tiến; lập trường của Lão Tử là của giai cấp quí
tộc cũ đã suy tàn, Mạc Tử đại diện cho tầng lớp lao động bình dân … đều là những
giai cấp đã lỗi thời hoặc không giữ vai trò lịch sử tiên phong. Lịch sử đã tiến về
phía trước nhưng các ông lại muốn quay về quá khứ; trong khi mọi người cho
rằng sức mạnh là chân lí thì các vị lại kêu gọi đạo đức và tình thương (là những
điều mà ở thời điểm đó người ta đang muốn phế bỏ), cho nên học thuyết của các
ông đều mang tính không tưởng và không đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Sự
bế tắc của lí luận là một nguyên nhân kéo dài khủng hoảng xã hội của thời kì Xuân
Thu – Chiến Quốc.
5
Thứ ba, sự ra đời của học thuyết Pháp trị đáp ứng những yêu cầu khách quan
của lịch sử.
Trong bối cảnh lịch sử giao thời, những giá trị đạo đức cũ bị băng hoại,
những chuẩn mực mới chưa hình thành, xã hội ngày một rối ren. Thống nhất
Trung Quốc, chấm dứt chiến tranh trở thành yêu cầu bức thiết của xã hội. Vào lúc
tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết Pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, đề xuất
chủ trương chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu. Các nhà Pháp trị cho rằng,
đặc điểm của thời đại lúc đó là tranh đua sức mạch, do đó không thể trông chờ
vào đạo đức và tình thương để tái lập trận tự xã hội mà phải dùng công cụ bạo lực
để chấm dứt sự hoành hành của bạo lực. Chủ trương của Pháp gia đã đứng trên
mảnh đất của hiện thực để giải quyết hiện thực.
Pháp trị là đại diện cho tiếng nói của tầng lớp địa chủ mới sinh ra trong quá
trình chuyển biến kinh tế - xã hội, từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, đem
lại sự phát triển mạnh mẽ cho kinh tế. Tầng lớp quí tộc mới nảy sinh trên nền tảng
tư hữu ruộng đất, có sức mạnh cả về kinh tế lẫn tri thức và mang một phong cách
tư duy mới: thực tế, thực tiễn. Là tiếng nói của giai cấp đại diện cho xu thế đi lên
của lịch sử, nên Pháp trị đã nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng để nhà Tần
thực hiện thành công sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết Pháp trị của Hàn Phi
2.2.1. Những cơ sở của học thuyết
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên xã hội. Ông yêu cầu
con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biên hóa mà hành động phù hợp.
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có chế độ xã hội
nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông
người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm
của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho
thích hợp. Ông cho rằng không có thứ pháp luật nào là luôn luôn đúng trong mọi
thời đại mà nó luôn có sự thay đổi.
6
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: do bản tính con người là ác và
trong xã hội, số người tốt là ít. Với nhiều kẻ xấu như vậy để xây dựng được một
xã hội bình yên không nên trong chờ vào số ít hay mong họ làm việc thiện mà
phải xuất phát từ số đông ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
2.2.2. Những nội dung cơ bản
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ
lý thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân
đức của nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “Nhân trị”, “Đức trị” hay “Lễ trị”)
hay những lý tưởng chính trị Nghiêu Thuấn là trái với thực tế lúc bấy giờ và nếu
áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước.
Về lý luận chính trị, ông tiếp thu điểm nổi bật của ba trường phái trong Pháp
gia: “Pháp” (Thương Ưởng), “Thuật” (Thân Bất Hại), “Thế” (Thận Đáo) làm nội
dung cơ bản; từ đó, phát triển và xây dựng một hệ thống lý luận pháp trị tương
đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Ông cho rằng ba yếu tố nói trên phải
thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Sở dĩ Hàn
Phi đưa ra chủ trương sử dụng pháp luật, mệnh lệnh và hình phạt để cai trị là
phương pháp có hiệu lực nhất vì “dân vốn lờn với lòng thương mà chỉ vâng theo
uy lực”.
Pháp: được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước.
- Nghĩa hẹp "Pháp" là những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của Pháp gia thời trước, Hàn Phi cho
rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin
chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như
vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ
trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền:
7
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những
nguyên tắc chính như:
- Pháp luật phải hợp thời.
- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành.
- Pháp luật phải công bằng.
- Pháp luật có tính cách phổ biến.
Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh
phận, phải trái, tốt, xấu, thiện, ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về
một mối, đều lấy pháp làm chuẩn, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp
luật.
Thế là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Thế tức là quyền thế, địa
vị, thế lực, quyền uy của người đứng đầu. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp
rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có
"Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là
vua;
- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung.
- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện
hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng
phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó
dựa theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng
8
hậu, phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô
tư; Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có
bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền
vậy... "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân,
của đất nước, của vận nước. Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên
lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng
thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như
thế nào. Nhiệm vụ chính của thuật cai trị là phân biệt quan lại trung thành, tận tâm
và những quan lại ma giáo, thử năng lực của họ kiểm tra công trạng và những sai
lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp
và chế độ chuyên chế.
Theo Hàn Phi “Thuật” có hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật: là
phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại. Tâm thuật tức mưu mô để chế
ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.
Tâm thuật: có rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc
nào ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như
ra lệnh và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều
khác; Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được.
Kỹ thuật cũng được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng
người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân thích của
vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm của
vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương, vua
phải: Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không cho họ biết mưu tính
của mình; Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng
phải hỏi mình trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng
9
pháp luật trong việc thưởng phạt họ; Xem hành động của họ có hợp với lời nói
của họ không… Tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người
khác thì xét xem ai là kẻ có lợi.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật
dùng người theo Pháp gia là thuyết Hình danh và Chính Danh, Thực Danh. Thuyết
này là Pháp gia kế thừa từ Khổng Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc
thực tế, không bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị,
ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ở
đây danh là lời nói và hình là việc thực hiện. Chẳng hạn như một người hứa đến
thăm ta, lời hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy.
Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình (hay danh và thực) hợp
nhau gọi là chính danh, ngược lại danh và thực nếu không hợp nhau, tức là chỉ có
danh mà không có hình hay không có thực nghĩa là không chính danh, từ đó sẽ
căn cứ thưởng phạt một cách nghiêm minh. Nếu pháp luật là danh thì sự việc là
hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp nhau. Nếu quan vị là danh thì
chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị thì danh và hình không hợp nhau.
Thuật phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định,
danh lệch thì vật đổi.Vua nắm lấy danh còn bề tôi làm ra hình.
Hàn Phi cho quy
tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan lại, nếu không
theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó thưởng
phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được.
Ngoài ba yếu tố trên, Hàn Phi còn coi trọng việc xây dựng quân đội hùng
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Ông cũng rất chú trọng phát triển
nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng Pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc
lúc bấy giờ đòi hỏi các tư tưởng Pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới, hoàn
thiện và thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị
10
nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức
tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã
đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc
sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
2.2.3. Những mặt tồn tại
Học thuyết chính trị của Pháp gia tuy đã có đóng góp rất to lớn trong việc
đưa nước Tần trở nên hùng mạnh và tiến tới thống nhất toàn bộ đất nước Trung
Quốc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau đó, Tần Thủy Hoàng đã cứng nhắc và áp dụng
triệt để các tư tưởng của Pháp gia vào thời bình khiến nhà Tần nhanh chóng bị
suy vong. Thất bại đó là do bản thân học thuyết Pháp trị của Hàn Phi tồn tại nhiều
điểm quá cực đoan, cụ thể như sau:
Thể hiện sự coi thường trí tuệ và sức mạnh của nhân dân.
Học thuyết của Hàn Phi với nhãn quan của một đại quý tộc, đã thể hiện một
sự coi thường sâu sắc trí tuệ cũng như sức mạnh của nhân dân. Dân không phải
ngu xuẩn không biết lợi ích lâu dài mà không chịu ra sức làm công trình công
cộng, chỉ vì kẻ cầm quyền thường lấy việc công để làm lợi riêng. Học thuyết của
Hàn Phi xem con người là ai cũng vì mình, để khuyên vua không nên tin người
mà chỉ nên tin vào chính mình, tin vào quyền thế bản thân. Nhưng ở khía cạnh
khác, Hàn Phi lại dựa nhiều vào niềm tin của dân chúng vào tính công minh của
pháp luật: theo phép công nhất định được thưởng, trái pháp luật sẽ bị phạt. Cá
nhân Hàn Phi có lẽ cũng đã quá tin vào những người cầm quyền. Nhận biết lợi
ích chung khác với lợi ích riêng, Hàn Phi chỉ đề ra biện pháp uốn nắn tư lợi của
người dưới, không đưa ra cách đề phòng trường hợp vua dùng quyền thế phục vụ
lợi ích riêng. Hàn Phi có lẽ tin rằng, kẻ làm vua có trí tuệ nên ý thức được lợi ích
lớn nhất của mình là đất nước được giàu mạnh, không để dục vọng nhất thời làm
hỏng lợi ích vĩnh viễn.
Như vậy là Hàn Phi đã quá đề cao kẻ cầm quyền, ông cho rằng con người
đều có ham muốn cá nhân, nhưng lại tuyệt đối tin vào kẻ làm vua, coi thường
11
nhân dân, chỉ có nhân dân mới tư lợi cho riêng bản thân mà không hề nghĩ rằng
bất cứ một ai cũng đều sẽ có bản tính này. Chính niềm tin mù quáng này đã phần
nào làm cho các bậc đế vương càng trở nên bạo tàn, dùng quyền thế để tư lợi, để
phục vụ cho lợi ích, ham muốn của riêng bản thân, bỏ qua lợi ích chung của đất
nước, của con dân, xem dân chúng là công cụ phục vụ cho nhu cầu của riêng mình.
Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc.
Pháp gia quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình
cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển của
văn minh nhân loại.
Pháp gia cho rằng, ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy,
tất cả các quan hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng… đều tuyệt đối
không thể tin tưởng và luôn phải cảnh giác. Mọi thứ tình cảm như sự kính trọng,
thủy chung, trung hiếu… đều không hề tồn tại, là huyễn hoặc xa vời. Đây là một
điểm hạn chế, vì rõ ràng trên thực tế những tình cảm này là hoàn toàn có tồn tại.
Pháp trị cho rằng bản chất của con người vốn dĩ là tà ác, luôn tranh giành lẫn
nhau về lợi ích, cho nên những lời ca ngợi sự tin tưởng giữa con người với con
người đều là giả dối, ngây thơ, không đáng tin cậy. Vì vậy, chủ trương dùng hình
phạt nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe được đặt lên hàng đầu, bỏ qua tất cả
những gì gọi là nhân đạo, tình người.
Với các nhà Pháp trị, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực sự là thứ
đạo đức không có tình cảm. Tuy rằng hình phạt có tác dụng răn đe, nhưng hình
phạt quá hà khắc sẽ làm cho dân chúng oán kẻ cầm quyền, hình phạt càng nặng
bao nhiêu thì kẻ dưới càng oán kẻ trên nhiều bấy nhiêu. Để đến lúc hình phạt làm
cho dân chúng không còn chịu đựng được nữa thì họ sẽ vùng dậy chống đối lại
những kẻ cầm quyền.
Quan niệm về pháp luật của Pháp gia quá cứng nhắc, không có tính linh hoạt
12
Cứng nhắc ở đây được thể hiện ở chỗ, có công chắc chắn sẽ được thưởng,
còn có tội thì nhất định phải phạt, giữa thưởng và phạt, chú trọng sử dụng cưỡng
chế nhiều hơn. Sử dụng hình phạt một cách cứng nhắc, không tạo điều kiện cho
kẻ phạm tội có cơ hội sửa chữa, bù đắp cho tội lỗi của mình.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều dạng người, do đó động cơ phạm tội của mọi
người không phải là hoàn toàn giống nhau. Có những người tâm địa xấu xa, phạm
tội vì lợi ích riêng cho bản thân, coi thường sức khỏe và sinh mạng của kẻ khác,
nhưng cũng có những người bản chất vốn không xấu, nhưng do hoàn cảnh tác
động, hoặc do quá trình trưởng thành không được chỉ dẫn điều hay lẽ phải, lầm
đường lạc lối, nếu như áp dụng cùng một loại hình phạt cho hai loại người trên,
thì đã làm mất đi tính công bằng được coi là nguyên tắc hàng đầu của Pháp gia.
Pháp luật của Pháp gia đặt ra chỉ có một khuôn mẫu duy nhất, áp dụng cho
mọi đối tượng phạm tội không phân biệt cao thấp sang hèn. Về nguyên tắc, điều
này đã đảm bảo được tính công bằng của luật pháp. Nhưng trên thực tế, có rất
nhiều trường hợp khác nhau xảy ra, cùng một tội danh giết người, nhưng có loại
sẵn sàng giết người để chiếm đoạt tài sản, giết người diệt khẩu, thủ tiêu nhân
chứng, che giấu hành vi phạm tội của mình nhưng cũng sẽ có người chỉ giết người
để tự vệ, để bảo vệ cho người thân. Việc áp dụng pháp luật và hình phạt một cách
cứng nhắc, tuy rằng sẽ trừng phạt được kẻ xấu, có tác dụng răn đe cho những
người còn lại, nhưng sẽ có khả năng trách lầm người tốt, bỏ qua nhân tài của đất
nước, thậm chí gây nên oán hận trong lòng dân chúng, từ đó dẫn đến khó khăn
trong việc trị quốc.
Chính sách Pháp trị chưa xét một cách đầy đủ nhu cầu của con người.
Hàn Phi nhận ra rằng con người có lòng ham muốn và thích hư danh, nhưng
ông đã hoàn toàn bỏ qua ảnh hưởng của các yếu tố còn lại. Hàn Phi xem động cơ
hành động của con người chỉ bao gồm lòng hiếu lợi và thói hiếu danh. Thực tế
động lực của chúng ta còn bao gồm nhiều thứ khác. Nếu trong xã hội tồn tại những
kẻ bệnh hoạn giết người hàng loạt mà không có động cơ, vui sướng trên sự đau
đớn của đồng loại thì ngược lại, xã hội cũng tồn tại những người vô cùng vị tha,
13
nhiệt tình giúp người không đòi hỏi sự đền đáp. Cảm giác hạnh phúc khi giúp đỡ
người khác là một cảm giác mà người bình thường ai cũng có. Nó xuất phát từ
tình thương yêu đồng loại, từ ý muốn kết thân với đồng loại, lưu tâm đến đồng
loại, nghĩ đến họ cũng như đang tự nghĩ đến mình. Lòng nhân từ là một tình cảm
tự nhiên có ảnh hưởng đến hành động của chúng ta.
Đối với Hàn Phi, người dân trong lúc đất nước thịnh vượng chỉ cần được ăn
no, được sống yên ổn là đủ, người có học thì phải ra làm quan để giúp ích cho đất
nước. Vì thế Hàn Phi, về sản xuất chỉ coi trọng việc binh, nông, coi thường công
thương, kẻ sĩ có học nhưng không ra làm quan là kẻ sâu mọt làm hại đất nước. Số
lượng người có học vì vậy chỉ cần đủ để làm quan, dân hiếu học là điềm mất nước.
Chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi này vì vậy không những không thể phát triển toàn
diện con người mà còn kiềm hãm khoa học phát triển. Tuy học vấn phải được đưa
ra ứng dụng nhưng người học cũng cần phải vươn lên khỏi những cái ích lợi tầm
thường trước mắt mới có thể đặt cho mình một căn bản học vấn sâu rộng, từ đó
mới mang đến cho nhân loại một sự ứng dụng lớn lao hơn.
“Công bằng” trong Pháp trị của Hàn Phi chưa thật sự được gọi là công bằng.
Theo quan niệm hiện đại, hàm nghĩa của “Pháp” có hai mặt tích cực và tiêu
cực. Tiêu cực được thể hiện ở chỗ có tính phòng ngừa, pháp đã quy định sẵn,
ttrường hợp phạm vào lệnh cấm nào, thì phảo chịu theo hình phạt ấy. Còn về mặt
tích cực, có những điều khoản bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân. Tuy
nhiên, nhìn vào cái “Pháp” mà Hàn Phi luôn luôn nhấn mạnh, thì chỉ có mặt tiêu
cực. Nói cách khác, Pháp của Hàn Phi, chỉ có những điều do kẻ thống trị đòi hỏi
ở nhân dân, ngược lại, nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi điều gì ở kẻ thống trị.
Xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị nên nội hàm của khái niệm công
bằng theo Hàn Phi còn phiến diện và khác xa so với hiện nay bởi đó mới chỉ là
quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội,
còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập đến. Do vậy mà pháp luật chỉ được
chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người dân và
14
các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt trừng trị mà chưa nhìn thấy
một chức năng không kém phần quan trọng của pháp luật là giáo dục.
Trong tư tưởng của Hàn Phi, chữ Pháp hay gắn liền với chữ Cấm. Cái gọi là
Pháp đều là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị đòi hỏi một chiều ở người dân,
ai làm đúng với lệnh đó thì được thưởng, trái với lệnh đó là phải thọ phạt. Thưởng
và Phạt chính là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm soát, thậm chí nô dịch
nhân dân.
Hàn Phi cho rằng pháp luật là công cụ đắc lực và hiệu nghiệm nhất để duy
trì và củng cố quyền lực chính trị của nhà vua – công cụ của đế vương, chỗ dựa
vững chắc nhất để đảm bảo an toàn cho sự ngự trị của vua, nên theo ông, nhà vua
sáng suốt phải đặt pháp luật lên trên đức hạnh và trên cả người hiền.
15
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
ĐẾN XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
3.1. Nhà nước pháp quyền trong thời đại mới
3.1.1. Chế độ Pháp trị trong Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên nền tảng của chế độ pháp trị. Vì
vậy nếu dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ “xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền”, thì cơ chế đó chính là chế độ
pháp trị. Chế độ pháp trị gắn liền với Nhà nước pháp quyền có khái niệm khác
hẳn với chế độ pháp trị bắt nguồn từ tư tưởng của Hàn Phi.
Khái niệm Pháp trị trong cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại đối lập với
khái niệm Đức trị. Pháp trị là dùng pháp luật để cai trị, chứ không phải dùng đạo
đức để cai trị. Trong trường hợp này, pháp luật chỉ là công cụ của Nhà nước, và
Nhà nước đứng trên pháp luật. Một Nhà nước chuyên quyền sẽ ban hành những
luật lệ mà Nhà nước đó muốn và cần có để cai trị.
Còn khái niệm pháp trị gắn liền với Nhà nước pháp quyền thì đối lập với
khái niệm Nhân trị. Pháp trị là pháp luật cai trị chứ không phải con người cai trị.
Trong trường hợp này không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả Nhà nước.
Theo cách hiểu như trên, pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập (với chính trị,
tôn giáo...). Nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản sau đây: pháp trị là công cụ để điều
chỉnh Nhà nước (điều chỉnh quyền lực); pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể
đều bình đẳng trước pháp luật; pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và
về hình thức. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể
phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
Với tư cách là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai chức năng: một
là hạn chế sự độc đoán của Nhà nước và hạn chế sự lạm quyền; hai là làm cho
Nhà nước hành xử hợp lý, làm cho chính sách của Nhà nước được minh bạch.
Lạm quyền được hạn chế bằng những nguyên tắc sau đây:
16
- Bảo đảm tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật phải được đặt trên Nhà
nước và đảng phái.
- Nhà nước phải tuân thủ một hệ thống thủ tục được xác lập từ trước và được
công bố công khai.
- Bảo đảm nguyên tắc người dân được làm mọi điều pháp luật không cấm,
nhưng Nhà nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.
Mặc dù những nguyên tắc nói trên hạn chế khả năng hành xử tùy tiện của
Nhà nước, nhưng chúng lại làm cho việc hành xử của Nhà nước được dẫn dắt nên
đa số sẽ hợp lý và minh bạch.
Với tư cách là công cụ bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức, chế độ
pháp trị phải đảm bảo những đòi hỏi:
- Hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các qui định công bằng và minh bạch về
thủ tục ban hành quyết định (không thể thích thế nào thì quyết thế ấy).
- Các qui định về thủ tục ban hành quyết định phải được xác định từ trước và
phải được công bố công khai từ trước (không thể sửa luật chơi trong lúc đang
chơi).
- Các qui định về thủ tục ban hành quyết định phải được áp dụng một cách
công khai, minh bạch (không thể áp dụng các qui định mà không dẫn chiếu được,
không lý giải được).
Các qui định về thủ tục ban hành quyết định phải được áp dụng một cách
nhất quán (không thể nay áp dụng thế này, mai áp dụng thế khác).
3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật, trong
đó pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân. Tính tối cao của pháp luật thể
hiện trên hai phương diện:
17
Thứ nhất: Đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong đó đề cao vai trò của
Hiến pháp và các đạo luật.
Thứ hai: Tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức
xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của
nhà nước và xã hội. Nhà nước trong thiết chế của nhà nước pháp quyền là nhà
nước tuân thủ pháp luật, mặc dù nhà nước là người ban hành ra pháp luật đó.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự
do, dân chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên
bố các quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các
quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà
pháp luật không cấm trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến tự do của
người khác, pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà
nước và công dân. Quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại
quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm
trước công dân về mọi hoạt động của mình còn công dân phải thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp
luật của mình.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà
nước thích hợp và có cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý vi
phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, chống chuyên quyền, lạm
quyền.
Sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền cho thấy những đặc trưng
của nhà nước pháp quyền thể hiện những tư tưởng, quan niệm tiến bộ trong quá
trình tìm tòi hình thức tổ chức, hoạt động của quyền lực công cộng trong một “xã
hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”
3.1.3. Giá trị cơ bản cần thừa kế và phát huy của Nhà nước pháp quyền
18
Nhà nước pháp quyền đề cao pháp luật và các giá trị của pháp luật. Khẳng
định, đề cao pháp luật là công cụ hữu hiệu để tổ chức quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải là ý chí chung của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và các Luật. Đảm
bảo cơ sở cho một nền pháp chế vững chắc, ổn định.
Khẳng định tính pháp quyền của các thể chế nhà nước; tính bị ràng buộc bởi
pháp luật về thẩm quyền, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước;
Yêu cầu kiểm soát về quyền lực, đảm bảo sự giám sát đối với quá trình sử dụng
quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính pháp lý của quyền lực
nhà nước, sự ràng buộc bởi pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
công quyền. Khẳng định và duy trì sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước, đội ngũ công chức nhà nước. Coi nhà nước là tổ
chức công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và quản lý xã hội thống nhất
bằng pháp luật; chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện của bộ máy
nhà nước.
Nhà nước pháp quyền khẳng định các giá trị của công lý, đề cao vai trò của
Toà án và các cơ quan tư pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính độc lập của
cơ quan tư pháp. Đảm bảo mọi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện xử lý bình đẳng
trước pháp luật.
Thừa nhận công dân là chủ thể của “xã hội công dân”; công dân là đối tượng
phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân, đảm bảo tự do của
mỗi công dân trong khuôn khổ không xâm hại đến lợi ích của người khác và lợi
ích xã hội. Nhà nước pháp quyền đảm bảo quyền con người và các quyền lợi ích
hợp pháp, chính đáng của công dân. Khẳng định nhà nước là công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
3.2. Các nội dung cần thực hiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam
Như trên đã trình bày, Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn
mới lạ, mà là một phạm trù có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và
19
phát triển của tư tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát
triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ,
vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao
của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước.
Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung.
Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân
phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm
thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ
tôn trọng giá trị nhất của con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều
kiện, chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra
tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà
nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi
những cái ngoài Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật
thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo
quyền tự do và quyền công dân.
Với quan niệm tư pháp là các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện quyền tư
pháp, trong đó tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra là
các cơ quan quan trọng nhất; cải cách tư pháp trong mối quan hệ với phát huy dân
chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần tiếp
tục tiến hành theo một số định hướng sau:
Một là: Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật
và thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và cán bộ,
công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá đúng sai, tăng
cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội.
20
Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh
vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu tiên
cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong
cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật.
Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật về
phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức.
Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh.
Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo
kịp yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ
và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp,
pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.
Hai là: Tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và cải tiến
phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc
thực hiện các nhiêm vụ trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn
chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công.
21
Phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên
môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công tâm,
khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ đồng thời chịu sự kliểm tra, giám
sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định
hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng
gọn đầu mối. Thành lập cảnh sát tư pháp.
Ba là: Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, hoàn
thiện các quy định vè tiêu chuẩn đại biểu, các quy định về bầu cử, ứng cử trên cơ
sở thật sự phát huy dân chủ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực
tiếp ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
thảo luận quyết định những vấn đề quan trọng.
Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Tôn trọng các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia.
Quan tâm giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Bốn là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo
đức.
22
Có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán
bộ công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất
lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hoá, yếu kém.
Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi
ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Năm là: Đấu tranh chống tham nhũng.
Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành
từ TƯ đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, chống
buôn lậu.
Bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách, không để sở hở, lợi dụng.
Xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà. Tăng cường kiểm tra, thanh tra,
kiểm kê, kiểm soát. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống, chống
đặc quyền đặc lợi.
Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chống
tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đối với người có thành tích.
Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức.
Xử lý nghiêm theo pháp luật và theo Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên
vi phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình
thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra
những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
Sáu là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu cấp bách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước là bảo đảm cho việc giữ vững bản chất XHCN của nhà nước và
cho sự thành công của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
23
Trong quá trình hiện nay sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở
việc đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách lớn định hướng cho sự phát
triển trong từng thời kỳ; lãnh đạo nhà nước thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây
dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dưng đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có trí tuệ, trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng và hoạt
động của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong bộ máy nhà nước.
24