Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Quan điểm triết học Mác về con người và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.81 MB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG

ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON
NGƯỜI VÀ VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP
CƠNG NGHIỆP HĨA-HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Giảng viên hướng dẫn : TS. PHẠM HUY THÀNH
Sinh viên thực hiện : Tống Phan Ngọc Châu

Đà Nẵng, 2016


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là đề tài muôn thuở, là vấn đề tưởng chừng như cũ nhưng thực ra
nó ln ln mới, bởi lẽ, những hiểu biết của con người về chính con người vẫn
cịn khiêm tốn. Những ngành khoa học cụ thể, tùy vào nhiệm vụ, góc độ nghiên
cứu mà các khoa học đó quan tâm và giải quyết vấn đề con người ở góc độ khác
nhau. Đối với triết học nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng rất quan tâm
đến vấn đề bản chất của con người và hoạt động của chính con người trong lịch
sử. Trong lịch sử triết học, những trường phái, những nhà triết học khác nhau lại
quan niệm khác nhau về bản chất con người nhưng nhìn chung, từ thời cổ đại
cho đến triết học cổ điển Đức, các nhà triết học lý giải bản chất con người chưa
thực sự khoa học. Sự ra đời của triết học Mác đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sử triết học cũng như quan niệm về con người. . Hiện nay, khoa học nghiên


cứu về con người và khả năng tiềm ẩn của con người đang mở ra những hướng
mới đòi hỏi mỗi chúng ta phải có cách nhìn đúng đắn, duy vật về con người, bác
bỏ những quan niệm duy tâm, tôn giáo và những suy nghĩ lệch lạc của con người
về chính bản thân mình. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã chứng minh sức
mạnh chinh phục tự nhiên của con người. Bằng những thành tựu khoa học đó,
chúng ta khẳng định vai trị, vị trí của con người thông qua hoạt động thực tiễn
chứ không phải do lực lượng siêu nhiên nào đó mang lại.
Con người là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động phát triển. Mọi hoạt
động đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của con người và cũng chỉ có con
người mới có thể làm được những cơng việc cực kỳ khó khăn và gian khổ ấy.
Do đó, các chính sách phát triển đất nước phải hướng cụ thể vào mục tiêu tổng
quát là phát triển con người, xuất phát từ con người, do con người và vì con
người, Đảng ta ln nhấn mạnh rằng “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thực
chất là chiến lược phát triển con người, phát huy yếu tố con người và lấy việc
phục vụ con người làm đích cao nhất của mọi hoạt động”. Vì lẽ đó mà hàng
ngày, hàng giờ trên hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, tạp

1


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

chí.v.v..đều có những bài viết sâu sắc đề cập đến vấn đề con người mà chúng ta
đang quan tâm.
Đối với nước ta, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng. Đảng ta đã vận dụng những học thuyết, những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, trong đó có quan điểm về con
người để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa,

xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động. Đặc biệt, trong
công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta phải có chiến lược phát huy nguồn lực con
người để thực hiện thành cơng sự nghiệp đó, đồng thời xây dựng và phát triển
con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với nhận thức này, tôi chọn vấn đề
“Quan điểm triết học Mác về con người và vai trò của con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là đi sâu phân tích quan điểm của triết học Mác về con
người để làm nổi bật giá trị của quan điểm này về con người trong lịch sử và
thời đại ngày nay.
Nhiệm vụ của đề tài là phân tích, làm rõ vấn đề con người, bản chất của con
người theo quan điểm triết học Mác, qua đó thấy được sự vận dụng linh hoạt của
Đảng ta đối với quan điểm này trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
3. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu quan điểm về con người của triết học Mác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra, đề tài cịn sử dụng phương pháp phân tích, logic, lịch sử, tổng hợp để
làm rõ nội dung của vấn đề.
6. Đóng góp của đề tài

2


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

Đề tài hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên và những ai

quan tâm đến vấn đề con người trên tinh thần duy vật lịch sử, quan tâm đến sự
vận dụng các quan điểm, lý luận của chủ nghĩa mác-Lênin vào thực tiễn.

3


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

B. NỘI DUNG
I. Quan điểm về con người của triết học Mác
1. Khái niệm về con người
Từ thời cổ đại đến nay vấn đề con người ln giữ một vị trí quan trọng
trong các học thuyết của triết học. Các nhà triết học đưa ra rất nhiều quan điểm
khác nhau về con người nhưng nhìn chung các quan điểm triết học nói trên đều
xem xét con người một cách trừu tượng, do đó đã đi đến những cách lý giải cực
đoan phiến diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời
phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết
trước đây để đi dến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực,
con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải
tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con người như
một thực thể sinh học – xã hội .
2. Con người là một thực thể sinh học – xã hội
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh
học. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và
quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con

người. Song con người không phải là động vật thuần túy như các động vật khác
mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hóa lịch sử của nó. Con
người là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con
người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra
của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu
tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định
bản chất xã hội của con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại
quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự
nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã
hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.
4


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con
người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con
người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên
song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuên theo các quy
luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà
còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng tạo ra
toàn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận
động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luân
xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định
và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vo tác dụng của quy luật cho
phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy, con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hộ vừa là chủ thể cải
tạo tự nhiên và xã hội. Con người là thực thể thống nhất sinh học – xã hội.

3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội
Xuất phát từ con người hiện thực, Mác đã nhận thấy lao động đóng vai
trò quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động vật. Vì lao
động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là
kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân là thực thể xã hội và bản
chất con người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con
người trong các thời đại khác nhau, sự khác nhau này tùy thuộc vào sự phát triển
của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, khơng chỉ tổng hịa các mối quan hệ
trong hiện tại mà cả trong quá khứ.
Việc con người sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và sản xuất ra đời sống của
người khác thơng qua q trình sinh con đẻ cái đã chứng minh con người là sự
thống nhất biện chứng giữa hai mặt tự nhiên và xã hội. Cũng cần phải nói thêm
rằng: con người cũng là kết quả quan hệ giữa tính xã hội và tính cá nhân, trong
đó tính xã hội quyết định. Vì rằng: những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất
theo một phương thức nhất định điều nằm trong những quan hệ xã hội và chính
5


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

trị nhất định. “Đó là những cá nhân đúng như trong hiện thực, nghĩa là đúng như
họ đang hành động sản xuất một cách vật chất” không phụ thuộc vào ý chí của
họ. Rồi những cá nhân đó liên hệ nhau, gắn bó nhau tạo thành một mạn lưới
chằng chịt những mối quan hệ khác nhau mà ở đó bản chất con người bộc lộ rõ.
Tính xã hội khơng làm triệt tiêu tính cá nhân trong sự phát triển. Tự do tồn tại
của con người là quá trình đời sống hiện thực, đời sống thực tiễn lịch sử mà con

người phải là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, và là sản phẩm của xã hội.
4. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Trong khi khẳng định bản chất xã hội, khẳng định tính thống nhất biện chứng
mặt tự nhiên và mặt xã hội, C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Cá nhân chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách một
cá thể, một thành viên của xã hội ấy, do những đặc điểm riêng biệt của mình mà
phân biệt với các thành viên khác trong xã hội. Xã hội bao giờ cũng do các cá
nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm, cộng
đồng xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Bất cứ xã hội nào
cũng được cấu thành không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những
con người cụ thể - những cá nhân sống. Quan hệ giữa cá nhân và xã hộ là mối
quan hệ biện chứng mà theo Mác, xã hội là cái phổ biến còn cá nhân là cái đơn
nhật. Con người là sản phẩm của xã hội nên sự phát triển của mỗi cá nhân phụ
thuộc vào sự phát triển của xac hội. Cho nên, phát triển xã hội là điều kiện để
phát triển cá nhân và hai yếu tố này thống nhất và biện chứng với nhau. Quan hệ
hiện thực của chúng là ở chỗ con người là con người của xã hội cũng như bản
thân xã hội là xã hội của những con người. Vận dụng phép biên chứng duy vật
vào việc phân tích các mối quan hệ xã hội, Mác chỉ ra rằng: con người sẽ không
tồn tại với tư cách là người nếu tách rời khỏi mối quan hệ với thế giới xung
quanh, với cộng động xã hội và với người khác. Hệ thống các mối quan hệ xã
hội khơng phải là cái gì xa lạ, trừu trượng mà được tạo ra bởi chính hoạt động
thực tiễn của con người, do con người sản sinh ra. Đến lượt nó, nó lại quy định
hoạt động đời sống xã hội và do đó, quy định bản chất xã hội của con người.
Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào
6


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu


thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Con người ở bên ngoài xã hội, tách rời
khỏi xã hội chẳng qua chỉ là một sự trừu tượng hóa, chỉ có thể chấp nhận trong
tư duy mà thơi. Mác cũng nhấn mạnh rằng: hoạt động xã hội cũng như việc xã
hội sử dụng các sản phẩm của hoạt động này có ý nghĩa hồn tồn khơng những
dưới hình thức hành động tập thể trực tiếp. Ngay cả khi con người tiến hành
hoạt động có vẻ như là thuần túy cá nhân thì hoạt động đó cũng chính là hoạt
động xã hội. Hơn nữa về ngun tắc thì con người khơng thể hành động khác
được bởi lẽ hình thức hoạt động vật liệu cho sự hoạt động, ngôn ngữ... đều do
lịch sử và xã hội mang lại mà bản than tồn tại của con người là một tồn tại luôn
luôn và tất yếu có cá tính, tính chất xã hội và lịch sử - xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều do các cá nhân hợp thành, họ vừa
mang bản chất chung của con người vừa mang bản chất một giai cấp nhất định.
Vì vậy, giữa cá nhân và xã hội vừa có sự thống nhất lại vừa có mâu thuẫn sâu
sắc. Lợi ích của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hoàn toàn đối lập nhau. Mỗi
cá nhân, mỗi giai cấp đều theo đuổi những quyền lợi riêng của bản thân mình và
cộng đồng, tạo thành những tập đồn có vị trí khác nhau trong xã hội. Cho nên ở
đó ln chứa đựng sự thỏa thuận lẫn sự mâu thuẫn mà các cá nhân và cộng đồng
ln tìm cách giải quyết để vươn lên, khẳng định vị trí và phát huy thanh thế của
mình bằng các cuộc đấu tranh trong lịch sử. Cá nhân là một hiện tượng có tính
lịch sử, là một thực thể độc lập có nhân cách. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
biển đổi trong sự phát triển của lịch sử cho nên ở mỗi thời đại thì các quan hệ đó
khơng giống nhau. Điều đó khơng chỉ liên quan tới trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, trình độ văn hóa, văn minh mà liên quan tới sự thay đổi của
phương thức sản xuất - hình thái kinh tế xã hội. Khi có sự thay đổi của cơ sở
kinh tế, phương thức sản xuất thì quan hệ cá nhân mới có thay đổi căn bản.
Mác cho rằng: Nếu như con người là một cá nhân đặc thù và chính tính đặc thù
của nó làm cho nó trở thành cá nhân... thì nó cũng là một tổng thế, mang tính
một tổng thế lý tưởng, một tồn tại cho nó... mang tính chủ quan của cái xã hội
tưởng tượng được và tri giác được... như là một tổng thể của sự biểu hiện sự

sống của con người. Sở dĩ như thế là vì trong xã hội cũng như trong cái xã hội
7


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

nói chung, khơng có cái gì lại khơng phải là hoạt động của con người và không
phải là kết quả của hoạt động ấy. Con người ra đời là bắt gặp ngay những điều
kiện khách quan quyết định tồn tại của nó, quyết đinh những chức năng xả hội
của nó, đó chính là mơi trường để con người tồn tại và phát triển cho nên không
thể nào tác cá nhân ra khỏi xã hội. Nói cách khác, khơng thể nào tách "cái đơn
nhất" trong tổng thể "cái phổ biến" do nó tạo ra. Mác đã chứng minh rằng: trong
bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội; tự nhiên và xã hội là môi
trường để con người tồn tại và phát triển, làm nên những kỳ tích chinh phục tự
nhiên. Sự phát triển của xã hội là sự phát triển của cá nhân thông qua các mộ
quan hệ hẳn hoi. Cho nên, không thể nào tác cá nhân ra khỏi xã hội. Nếu cá
nhân ở bên ngoài xã hội thì đó là một sự trừu tượng hóa, là một cá nhân trừu
tượng. Cũng vậy, xã hội và lịch sử đều là những sự trừu tượng nếu tách chúng ra
khỏi các cá nhân hiện thực và các mối quan hệ xã hội mà họ đang sáng tạo ra
bằng hoạt động của mình.
Từ hoạt động thực tiễn của con người, Mác cho rằng, bản chất con người
chính là nhân cách được tìm thấy trong các mối quan hệ xã hội. Cá nhân càng
tham gia vào cuộc sống xã hội bao nhiêu càng có điều kiện làm phong phú thêm,
sâu sắc thêm cái thế giới của riêng mình. Nhân cách của mỗi cá nhân là sản
phẩm xã hội, nó mang ý nghĩa xã hội. Vì vậy, sự phong phú và hoàn thiện nhân
cách của mỗi cá nhân phụ thuộc vào sự mở rộng và đi vào đời sống xã hội của
họ. Mặt khác, nhân cách gắn liền với cá nhân, do cá nhân biểu hiện nên trong
môi trường xã hội nhưng mỗi người có nhân cách và biểu hiện nhân cách khác

nhau. Sự phát triển cá tính sáng tạo tự do cá nhân là điều kiện, là thước đo sự
phát triển xã hội. Bởi vậy, Mác viết: “Tự do cho mỗi người chính là sự phát triển
tự do tồn diện cho mọi người”. Giải phóng con người chính là giải phóng và
phát triển những năng lực, những sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người. Đó là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội và là mục đích cao nhất mà
nhân loại hướng tới.
Trước sự vận động của thực tại và do những tác động của hoàn cảnh, ở cá
nhân lại xuất hiện những nhu cầu mới. Sự sản sinh những nhu cầu này, theo
8


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

Mác, Ăngghen cũng là hành vi lịch sử đầu tiên: “Bản thân cái nhu cầu đầu tiên
đã được thỏa mãn, hành động thỏa mãn và công cụ để thỏa mãn mà người ta có
được - đưa tới những nhu cầu mới; và tự sản sinh ra những nhu cầu mới này là
hành vi lịch sử đầu tiên”. Con người, trước hết là một thực thể sinh vật, nhu cầu
đầu tiên được thỏa mãn là ăn, ở và điều kiện sống. Lao động sản xuất vật chất
tạo ra sản phẩm là để thỏa mãn những nhu cầu đó. Con người với tư cách là một
thực thể xã hội phát triển qua nhiều nấc thang cho nên con người đòi hỏi những
nhu cầu như nhu cầu giao tiếp, thẩm mỹ, giải trí và cả nhu cầu về sự thống nhất
bình đẳng trong quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, cá nhân và xã hội. Nhu cầu
này được thực hiện lại xuất hiện những nhu cầu khác cao hơn, tạo ra cho con
người có khả năng sáng tạo hơn để tiếp tục thỏa mãn nhu cầu. Nếu khơng có
những nhu cầu mới, con người chỉ thỏa mãn với những "tư liệu" vốn có ban đầu
thì đương nhiên xã hội sẽ dừng lại ở trạng thái không phát triển. Vấn đề nhu cầu
vốn đa dạng, phong phú tập trung ở nhu cầu vật chất và tinh thần, nó ln ln
biến đổi trong đời sống hiện thực. Nó là mâu thuẫn vừa xuất hiện lại vừa biến

đổi đi rồi nảy sinh nhu cầu mới. Như vậy, nhu cầu của con người là một phạm
trù có tính chất lịch sử cụ thể nhưng lại tồn tại vĩnh viễn với đời sống hoạt động
của họ và là một kiểu quan hệ xã hội thực tế. Trong thực tiễn, con người hành
động là vì nhu cầu và lợi ích của họ nên việc khai thác tiềm năng cá nhân cần
phải quan tâm tới nhu cầu và lợi ích của cá nhân. Trong các mối quan hệ xã hội,
lợi ích đóng vai trị là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất, nó là phương tiện để
thỏa mãn nhu cầu, quyết định hành vi, xu hướng hoạt động của con người.
Ăngghen nhấn mạnh rằng: Mọi quan hệ xã hội suy cho cùng là quan hệ về lợi
ích, cho nên hoạt động của con người đều nhằm vào nhu cầu và lợi ích của họ.
Rõ ràng, lợi ích lớn nhất và đầu tiên của con người - cá nhân và xã hội trước hết
là sự tồn tại với việc thỏa mãn những nhu cầu của đời sống vật chất có tính chất
hiện thực. Sau đó, với vai trị chủ thể sáng tạo có mục đích, có ý thức, con người
có những lợi ích về tinh thần, chính trị, đạo đức v.v.. Vì thế, Mác đã xem xét vấn
đề lợi ích xuyên suốt đời sống xã hội trên cơ sở hiện thực và coi nó như động
lực thúc đẩy mọi sư vận động lịch sử.
9


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

Xuất phát từ nhu cầu mà con người đã hoạt động sản xuất vật chất cho sự
tồn tại và phát triển cũng nhu việc làm ra lịch sử, trong đó có lịch sử của con
người. Vậy, lợi ích theo Mác, trước hết là tồn tại trong hiện thực - ở các mối
quan hệ xã hội của cá nhân. Cùng với sự phát triển xã hội và sự phát triển của cá
nhân mà quan hệ nhu cầu đã chuyển sang quan hệ khác. Từ nhu cầu đó mà lợi
ích nảy sinh, nó là điểm lựa chọn để hướng vào sự thỏa mãn nhu cầu, cho nên
Mác nói lợi ích tồn tại trong hiện thực là vì vậy. Mọi cuộc đấu tranh trong xã hội
là chỉ vì lợi ích mà thơi, cho nên ‘giai cấp chiếm lấy chính quyền trước hết phải

là biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến”để phát huy thanh
thế và uy lực của giai cấp mình, lãnh đạo và đưa xã hội tiến lên. Mác đã nhận
xét rằng: bất cứ xã hội nào cũng là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa
người với người và lợi ích là một quan hệ xã hội. Như vậy, tính chất lịch sử của
nhu cầu và lợi ích khơng chỉ phụ thuộc vào điều kiện vật chất mà còn là biểu
hiện sự kế thừa, cho nên nó là động lực phát triển xã hội. Điều cực kỳ quan
trọng là, hoạt động vì mục đích lợi ích và nhu cầu về vật chất và tinh thần càng
cao là sự vươn lên giải phóng hồn tồn triệt để con người, xã hội. Cũng chính
vì lợi ích của mình mà con người đã đấu tranh cùng phát triển làm cho xã hội
ngày càng đi lên để đáp ứng những nhu cầu và lợi ích đó. Nó đưa con người
quan từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà ở đó có sự phân chia lợi ích, phân chia
ranh giới của những cá nhân và cộng đồng. Các cá nhân khơng cịn đấu tranh
riêng rẽ nữa mà họ đã kết hợp nhau thành nhóm xã hội.
Tóm lại, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng. Bản
chất của đời sống con người là tính cộng đồng và mỗi cá nhân chỉ tồn tại và phát
triển thơng qua cộng đồng. Quan hệ đó như là quan hệ giữa cái bộ phận và chính
thể cho nên nếu tách chúng ra thì khơng có ý nghĩa gì cả. Khơng có cá nhân tồn
tại, phát triển ngồi xã hội và khơng có xã hội nào khơng phải là sự gắn kết của
cá nhân. Vì thế, sự hình thành tập thể, cộng đồng như là nhu cầu tự thân của các
cá nhân. Mặt khác, mỗi cá nhân có nhu cầu, khuynh hướng, đặc điểm riêng, có
nhu cầu về tự do tương đối của chính mình so với cộng đồng nên họ có khuynh

10


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

hướng hướng tới sự đối diện với tập thể. Vì thế, trên thực tế, sự kết hợp hài hịa

lợi ích cá nhân và tập thể là rất cần thiết để cá nhân và tập thể cùng phát triển.
Sự phát triển của xã hội làm cho mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể ngày càng
phát triển đa dạng, phong phú. Mỗi cá nhân không ngừng tiếp nhận những điều
kiện về vật chất và tinh thần do xã hội mang lại. Và chính trong điều kiện đó,
các cá nhân càng tạo ra sự phát triển cho xã hội mạnh hơn, làm cho xã hội khơng
ngừng tiến bộ, đặc biệt là tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá cao vai trò của cá nhân, nhất là vĩ nhân trong
lịch sử, song khẳng định cách mạng luôn luôn là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, rằng giai cấp vô sản muốn thực hiện
được vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là
cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. V.I Lênin cho rằng cách
mạng là ngày hội của quần chúng lao động, sự liên minh giai cấp, trước hết là
liên minh công nông, là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng
vơ sản, nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân lao động, thì cách
mạng vô sản không thể thực hiện được.
Quán triệt quan điểm đó của chủ nghĩa Mác- Lênin và kế thừa truyền thống
của dân tộc coi "Dân là gốc của nước", Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sức
mạnh của nhân dân. Người cho rằng cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi
nếu được quần chúng nhân dân tham gia, "Cách mạng là công việc của dân
chúng, chứ không phải của một, hai người", "Dễ trăm lần không dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Đồng thời, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải
có con người xã hội chủ nghĩa”. Ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm
1986, Đảng ta đề ra bài học “lấy dân làm gốc”. Trong công cuộc xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã vận dụng linh hoạt, mềm dẻo
quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của đất
nước. Lấy bài học “lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi:
11



Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người
dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là
sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn
đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Chiến
lược phát huy nguồn lực con người được Đảng và Nhà nước quan tâm rất sâu
sắc. Đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước…trên mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục…đều vì cuộc sống no ấm,
hạnh phúc của nhân dân ta, vì sự phát triển bền vững của đất nước.
II. Vai trò của con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước
1. Thế nào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ quan điểm đổi mới về cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa của đại hội Đảng lần
thứ VII rút ra từ thực tiễn cơng nghiệp hóa trên thế giới và ở nước ta,có thể đưa
ra định nghĩa: Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội
từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng
suất xã hội cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã
hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" cơng nghiệp hố, hiện đại hố
khơng chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà chính là q trình biến đổi cách

mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con
người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành
cơng của q tình cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi ngồi mới trường chính
trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên
thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với
nhau. Cùng tham gia vào q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ
12


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

tác động vào vai trị của chúng đối với tồn bộ q trình cơng nghiệp hố hiện
đại hố khơng giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về
chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển.
Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu cơng nghiệp hố, hiện đại hố phải tién
hành để đáp ứng nhu cầu đó.
2. Nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa ở nước ta
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch
sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội.
Trước đây tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người
tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội.
Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú
ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt
tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khơi phục kinh tế sau
chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ những hạn chế

nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác
nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hố), mà họ cịn
làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến
cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức
được điều đó hay khơng. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong
việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là
nâng nhận thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện
(hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người trở thành
chủ thể của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự
tích cực, mà cịn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người khơng chỉ
có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách
13


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người ln
có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, … trong điều
keịen này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp
chuyên mơn cụ thể trong những hồn cảnh cụ thể của họ.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là q trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn
bộ đời sống xã hội, nó địi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự
cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng
hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động
ln thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản

lý, kỹ thuật kinh doanh…Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi
dưỡng "con người chủ thể" khơng chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà
cịn trên cả bình diện "con người cá nhân".
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà
lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp cơng nhân…). Bởi vì ấn dấu
đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan
niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như
thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. Tuy nhiên nó khơng phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ,
mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động.
Nói cách khác cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với
những phẩm chất nhất định tham gia vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập
hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người
trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có
bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đơi trong hoạt động thực
tiễn. Động lực cơng nghiệp hố, hiện đại hố là những gì thúc đẩy q trình vận
động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích
14


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong q trinfh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích
cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.

Mặt khác, để xem xét vai trị nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan
hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại
của cơng cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở
thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại
hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy
vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như
sau:
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức
của con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý
chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức
mạnh tổng hợp cũng tác động vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. các
nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và
nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người
biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai, Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vơ tận.
Tính vơ tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng khơng chỉ tái sinh
mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một q trình vơ tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống cơng cụ sản
15



Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển
khơng ngừng của cơng cụ sản xuất từ thủ cơng đến cơ khí và ngày nay là tự
động hố được xã hội lồi người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao,
từ đó nói lên trình độ vơ tận của con người
Thứ ba, Trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được vật
thể hố, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang
trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực
lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà
họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ
đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể
tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của
chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn
tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần
kỳ của mình.
Thứ tư, Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành cơng của cơng nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hồn thành tốt cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hồn thiện nhiều mặt.Cơng nghiệp hố,
hiện đại hố làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng suất
lao động cơng nghiệp hố hiện đại hố chính là thực hiện xã hội hố nhiều mặt,
góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi
thành viên trong cộng đồng xã hội.

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình
độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.

16


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

Công nghiệp hố, hiện đại hố khơng ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con
người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật
cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hố, hiện đại hố mới có khả năng
thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và tồn diện nhân tố con
người.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và
tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các
yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng u cầu đó, cơng nghiệp hố, hiện đại hố có
tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phịng.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố cịn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự
phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã hội
v.v..
2. Các giải phát phát huy nguồn lực con người ở nước ta
Đối với nước ta, do xuất phát điểm thấp về sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của cơ sở vật chất –kỹ thuật, trình độ khoa học cơng nghệ…Nên sự nghiệp
cơng nghiệp hố lại càng khó khăn và địi hỏi chúng ta phải phát huy mọi tiềm
năng vốn có của đất nước để đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong tiềm
năng con người phải được khơi dậy. Tức là phải bằng mọi cách phát huy vai trị
tích cực của con người Việt Nam cho sự nghiệp cơng nghiệp hố đất nước. Điều

đó có nghĩa là phải tìm những giải pháp tốt nhất nhằm phát huy nhân tố con
người –chủ thể của toàn bộ tiến trình đó. Nhận thức được tầm quan trọng của
nhân tố đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong
những quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá là “Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động
viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước…”.
Với quan điểm này, Đảng ta đã xác định nhân tố con người chính là chủ
thể của q trình cơng nghiệp hoa, hiện đại hố. Nhân tố con người có nội dung
cơ bản được xác định như là những chỉ tiêu về số lượng, chất lượng nói lên khả
năng của con người, của cộng đồng người như là một tiềm năng cần khai thác và
phát huy, đó là số lượng lao động, sức khỏe, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
17


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

thuật, thái độ lao động, ý thức xã hội chính trị của cá nhân, của nguồn lao động,
của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Nội dung này chỉ ra những tiêu chí nói
lên mức độ, khả năng sáng tạo của con người trong hệ thống các quan hệ xã hội
cũng như trong tiến trình phát triển của lịch sử mà trong đó con người là chủ thể.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương
hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc
phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con người. Các
trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả
năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo cáo chính trị đại hội
VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và cơng nghệ trở thành nền
tảng của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với
nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm

tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố với diện
đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi
dưỡng và sử dụng người tài mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ
và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia
công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật cơng
nghệ mới có thể đóng góp xứng đangs vào phát huy nguồn lực con người, tuy
nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hồn thiện đó là. Cần coi
trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà
trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động
một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên
những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng
và phát triển nhân tố con người.

18


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

C. KẾT LUẬN
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin
nói riêng là hệ thống “mở”. Việc nghiên cứu, sáng tạo hệ thống lý luận này là
một tất yếu khách quan. Những quan điểm duy vật lịch sử do C.Mác và
Ph.Ăngghen đề xuất, V.I.Lênin phát triển đến nay vẫn còn giá trị. Nghiên cứu,
vận dụng các quan điểm này vào điều kiện cụ thể của nước ta là vấn đề có ý

nghĩa thực tiễn, trong đó, có quan điểm về con người. Con người với tư cách là
vị trí trung tâm của vũ trụ, của lịch sử thì việc nghiên cứu về con người cần
được quan tâm đặc biệt sâu sắc hơn. Quan điểm về con người và bản chất con
người của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã cung cấp cho chúng ta một thế giới quan
khoa học, phương pháp luận biện chứng về con người và xã hội.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để chiến lược phát triển theo hướng
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn lực con
người Việt Nam – nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, nguồn lực nội
sinh làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực con người ở Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần phải tạo ra mối quan hệ
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội, đảm bảo công cụ và
quyền lợi công dân, cải thiện và nâng chất lẫn tinh thần, giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa lợi ích lâu dài với lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc với
lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hóa
cho họ trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.

19


Bài tiểu luận Triết học

Học viên Tống Phan Ngọc Châu

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học, Tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1999.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Hệ tư tưởng Đức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Tồn tập, Tập 20, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004.
Vũ Huy Chương, Vấn đề tạo nguồn nhân lực tiến hành CNH, HĐH, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

20



×