Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.3 KB, 57 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------------

VŨ THỊ THẢO

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS.
Nguyễn Phƣơng Hà - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ
văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện khóa luận này.
Xin gửi lời cảm ơn tới người thân và bạn bè đã luôn quan tâm, động
viên, giúp đỡ tôi để khóa luận này được hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa, ngày… tháng 05 năm 2016
Sinh viên thực hiện


Vũ Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của ThS. Nguyễn Phƣơng Hà.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận hoàn toàn trung thực.
- Khóa luận không sao chép từ một tài liệu có sẵn nào.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Xuân Hòa, ngày… tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Vũ Thị Thảo


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.................................................................. 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 5
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5
8. Cấu trúc của khóa luận............................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 6
1.1. Thế giới nhân vật ...................................................................................... 6

1.1.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................ 6
1.1.2. Các kiểu loại nhân vật .......................................................................... 7
1.2. Tác giả Nguyễn Xuân Khánh. ................................................................. 8
1.2.1.Cuộc đời và quá trình sáng tác. .............................................................. 8
1.2.2. Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn trong bối cảnh văn xuôi đương đại
Việt Nam. ........................................................................................................ 10
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN .................................... 14
2.1. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn .................. 14
2.1.1. Nhân vật nữ .......................................................................................... 14
2.1.2. Nhân vật xâm lược ............................................................................... 22
2.1.3. Nhân vật tâm linh................................................................................. 27
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 33
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình............................................................ 33


2.2.2. Nghệ thuật biểu hiện tâm lí ................................................................. 35
2.2.3. Nghệ thuật biểu hiện tâm linh. ............................................................ 45
KẾT LUẬN .................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1. Những năm gần đây, tiểu thuyết được đánh giá là một thể loại phát
triển mạnh mẽ nhất của văn học Việt Nam. Bên trong sự bộn bề, đa dạng của
bức tranh tiểu thuyết thập kỉ qua, có thể thấy tiểu thuyết lịch sử là khuynh
hướng chủ đạo có nhiều đóng góp về tư tưởng nghệ thuật .
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nguyễn Xuân Khánh được coi là một
hiện tượng độc đáo. Vắng bóng trên văn đàn hàng chục năm, ông tiếp tục cầm

bút ở tuổi 70 với thể tài tiểu thuyết lịch sử. Ngay lập tức Nguyễn Xuân Khánh
được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và gặt hái được nhiều thành công lớn qua
bộ ba tiểu thuyết: Hồ Quý Ly (2000), Mẫu Thượng Ngàn (2006) và Đội
gạolên chùa (2011).
2.Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh được trình làng năm
2006. Tác phẩm là sự ấp ủ, lao động miệt mài của nhà văn trong một khoảng
thời gian dài. Đó là cuốn tiểu thuyết về lịch sử, văn hóa phong tục Việt Nam
thể hiện qua cuộc sống và những người dân ở một làng quê bán sơn địa Bắc
Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tác phẩm đã thành công trên nhiều bình
diện, có nhiều giá trị, nhưng ấn tượng nổi bật là thế giới nhân vật.
3. Trong tiểu thuyết nhân vật đóng vai trò là thành tố trung tâm. Thông
qua thế giới nhân vật nhà văn mang đến người đọc những vấn đề nóng hổi của
thời đại,đồng thời bộc lộ những tư tưởng cá nhân. Vì thế việc nghiên cứu đề
tài Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.
4. Đối với người giáo viên Ngữ văn, việc tìm hiểu nhân vật trong tác
phẩm văn họcgóp phần mang lại nhiều lợi ích trong công tác giảng dạy.
Thông qua việc nghiên cứu, người viết sẽ có cơ hội tốt để rèn luyện, nâng cao

1


trình độ tư duy và các thao tác phân tích tác phẩm văn học, nhất là thao tác
phân tích nhân vật.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thế giới nhân
vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàncủa Nguyễn Xuân Khánh” với
mong muốn được tìm hiểu, phát hiện những nét độc đáo trong thế giới nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm, hi vọng góp một phần
nhỏ vào việc đánh giá tác phẩm và sự khẳng định tài năng, phong cách nghệ
thuật độc đáo của Nguyễn Xuân Khánh trong nền văn học nước nhà.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh ra đời năm 2006, và ngay
từ khi mới ra đời đã đón nhận được sự quan tâm kịp thời, rộng khắp của bạn
đọc cũng như giới nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, những bài
viết về tác phẩm này. Trong những công trình nghiên cứu, những bài viết về
tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn, có một số tác giả đã đề cập đến vấn đề nhân
vật trong tác phẩm, nhưng mới chỉ dừng lại ở những khái quát chung hoặc
một số khía cạnh đơn lẻ, chưa đi sâu vào Thế giới nhân vật trong tác phẩm
một cách cụ thể. Có thể kể đến những bài sau đây:
Nhận xét về hệ thống nhân vật nữ trong cuốn tiểu thuyết, nhà văn
Nguyên Ngọc nhấn mạnh: “Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn tiểu thuyết
này đông đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những
nhân vật nữ, có cảm giác như vô số vậy, từ bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa
tình… cho đến cô đồng Mùi, cô mõ Hoa khốn khổ, cô trinh nữ Nhụ tinh khiết.
Hàng chục, hàng chục nhân vật nữ hết sức gần gũi, hiện thực, mơn mởn, sần
sùi, dạt dào, trễ tràng, trữ tình, thừa mứa, khát khao cho và nhận, nhận và
cho… và đến cả bà Đà của ông Đùng huyền thoại nữa…, tất cả tràn trề sinh
lực đầm đìa phồn thực” [10].

2


Trong bài viết Có một nền văn hóa Mẫu như thế, nhà nghiên cứu Đỗ
Ngọc Yên nhận định: “Chỉ có tài năng và tâm huyết, kinh nghiệm và trí tuệ,
tình cảm và bút lực của lớp nhà văn cao niên như Nguyễn Xuân Khánh mới
có thể sáng tạo nên một mẫu hình nhân vật trung tâm đa thanh và nhiều cung
sắc đến như vậy… Nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết có một tầm khái
quát lớn lao hơn, vừa thánh thiện lại vừa gần gũi thân quen, mộc mạc dân dã;
vừa đầy ắp nhân tâm, nhưng cũng không kém phần táo tợn; long lanh dễ vỡ
nhưng cũng lì lợm như sỏi đá và ngời sáng hơn gấp bội lần những nhân vật

trung tâm mà chúng ta vẫn gặp ở thể loại tiểu thuyết truyền thống”[12,tr. 12].
Trong buổi trả lời phỏng vấn báo VTC New, nhà phê bình văn học
Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Lối viết của Nguyễn Xuân Khánh đúng là còn
cổ điển nhưng vẫn mang đậm hơi thở cuộc sống hiện đại. Tôi thích nhất là
những trường đoạn viết về bản thể tự nhiên, tính phồn thực của nhân vật nữ.
Rất sum suê, phì nhiêu kiểu Nguyễn Xuân Khánh” [1].
Tác giả Trịnh Thị Lan trong bài viết Ngôn ngữ thân thể trong Mẫu
Thượng Ngànkhẳng định: “Khi xây dựng nhân vật nữ, Nguyễn Xuân Khánh
đã thường xuyên sử dụng ngôn ngữ thân thể để làm toát lên những vẻ đẹp của
họ. Mỗi người một vẻ, nhưng tất cả đều căng tràn sức sống. Họ là biểu tượng
cho vẻ đẹp cứu rỗi” [5].
Tiếp cận tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn từ hệ thống nhân vật nữ, khóa
luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Phương Lan, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 với đề tài “Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
của Nguyễn Xuân Khánh” đã đề cập tới những điểm độc đáo, mới mẻ về thế
giới nhân vật nữvà những thủ pháp nghệ thuật độc đáo về xây dựng hình
tượng nhân vật nữ trong tác phẩm.
Điểm qua các công trình nghiên cứu, những bài viết, các ý kiến bình
luận và các bài báo như trên, chúng tôi nhận thấy vấn đề nhân vật trong tiểu

3


thuyết Mẫu Thượng Ngànđã được bàn luận khá nhiều. Tuy nhiên, những công
trình này còn mang tính gợi mở, riêng biệt,lẻ tẻ, chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về Thế giới nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này. Bởi
vậy để giải quyết vấn đề còn đang bỏ ngỏ ấy,trong phạm vi cho phép khóa
luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”với mong muốn góp phần
khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Xuân

Khánh trong nền văn học nước nhà.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, chúng tôi hướng đến những mục đích sau:
- Nghiên cứu tác phẩm nhằm chỉ ra nét đặc sắc của thế giới nhân vật,
các kiểu nhân vật và một số biện pháp nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh.
- Khẳng định tài năng, phong cách và những đóng góp của Nguyễn
Xuân Khánh đối với nền văn học Việt Nam đặc biệt là đối với tiểu thuyết
đương đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài, khóa luận đặt ra và giải quyết những vấn đề sau:
- Trình bày một số vấn đề lí luận chung về nhân vật trong tác phẩm văn
học, đi sâu vào tìm hiểu các nhân vật cụ thể trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn.
- Phân tích tìm hiểu nghệ thuật khắc họa nhân vật của Nguyễn Xuân
Khánh.Từ đó giúp người đọc cảm nhận được thế giới nhân vật đa dạng,phong
phú, cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên gọi của khóa luận, chúng tôi hướng đến nghiên cứu: Thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh.

4


5.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh,NXB Phụ
nữ, năm 2006.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp, khái quát.
7. Đóng góp của khóa luận
- Đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về “Thế
giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”.
Qua đó, thấy được đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh đối với nền văn học
Việt Nam đương đại.
- Đây cũng là bài tập nghiên cứu khoa học rất hữu ích cho việc học tập,
nghiên cứu và giảng dạy của bản thân tác giả khóa luận sau này.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Tài liệu tham khảo; Nội dung chính của
khóa luận gồm 2 chương:
-Chương 1: Những vấn đề chung.
-Chương 2: Nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
Mẫu Thượng Ngàn.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thế giới nhân vật
1.1.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm văn học.Tìm hiểu về nhân
vật, có rất nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học, dưới đây
tôi xin dẫn ra một số định nghĩa về nhân vật văn học phổ biến và tiêu biểu nhất:
Trong Từ điển văn học, các tác giả nhận định: “Nhân vật là yếu tố cơ
bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề
và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm
tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng - nghệ

thuật của tác phẩm văn học”[11].
Trong giáo trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo
dục, 1997), cho rằng: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang
tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của
con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về
tiếu sử, nghề nghiệp, tính cách…và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái
niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó
không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên,được khắc
họa sâu đậm hoặc chỉ thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là những sự
vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng của con người… cũng có khi đó
không phải là những con người,những sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng
về con người hoặc có liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật trong tác
phẩm” [3].

6


Như vậy bằng cách này hay cách khác khi định nghĩa về nhân vật văn
học các nhà văn, các nhà nghiên cứu, các nhà lí luận văn học đều cho rằng:
Nhân vật là chính là đối tượng được miêu tả trong tác phẩm, nhân vật có thể
là con người, có thể không phải là con người.Nhân vật là phương tiện tái hiện
đời sống, đời sống đó có thể tập trung vào một con người cụ thể, cũng có thể
là cả một hình thức nào đó. Thông qua nhân vật, tác giả thể hiện quan niệm
nghệ thuật, lí tưởng thẩm mỹ, nhận thức… về con người và cuộc sống.
Bởi vậy nhân vật văn học có vị trí không thể thiếu trong một tác phẩm,
chính vì thế mà nó có vai trò rất quan trọng, nên việc tìm hiểu nhân vật là chìa
khóa để đi vào tác phẩm văn học, là yếu tố được xem xét đầu tiên khi muốn
tìm hiểu tác phẩm văn học.
1.1.2. Các kiểu loại nhân vật
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Dựa trên những

tiêu chí khác nhau, ta có thể phân loại nhân vật văn học thành các kiểu loại
nhân vật khác nhau:
Xét về mặt kết cấu có: nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật
trung tâm.
Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan niệm đối với lí tưởng xã hội
thẩm mỹ của tác giả có: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện (hay nhân
vật tích cực, nhân vật tiêu cực). Cách phân loại này gắn với những mâu thuẫn
đối kháng trong xã hội.
Xét về cấu trúc của nhân vật có: nhân vật chức năng, nhân vật loại
hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng… Những cách phân chia này chỉ
là một cách tư duy phân loại cho dễ hiểu, nhiều khi cứng nhắc không thật sự
khái quát được bản chất con người xét về tổng thể. Mỗi nhân vật- con người
trong đời sống cũng như trong nghệ thuật thường rất đa dạng, mang nhiều tư
tưởng, hành động, tính cách phức tạp: vừa tốt vừa xấu, tích cực lẫn tiêu cực…

7


và được nhìn nhận trong sự tiếp thụ của tác giả cũng như bạn đọc từ nhiều
quan niệm, góc độ khác nhau. Vì vậy cần mềm dẻo trong nhìn nhận, phân loại
nhân vật.
Xét về đặc điểm thể loại có: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân
vật kịch.
1.2. Tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
1.2.1. Cuộc đời và quá trình sáng tác
Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933, quê ở xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà
Nội. Thời trẻ, Nguyễn Xuân Khánh say mê âm nhạc, là cây bút văn nghệ nổi
bật. Ông từng đỗ tú tài toán và theo học tại Đại học Y khoa Hà Nội từ năm
1951- 1952. Đến năm 1953, ông gác bút nghiên xin đi bộ đội. Trên những nẻo
đường hành quân, những buổi diễn tập, tình đồng đội đã thôi thúc ông cầm

bút, viết truyện ngắn Một đêm. Nguyễn Xuân Khánh đã được giải nhì trong
cuộc thi viết truyện ngắn đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1959). Từ
đó, văn chương gắn bó với ông như một duyên nghiệp, với những ngả rẽ bất
ngờ.
Vào khoảng năm 1960, Nguyễn Xuân Khánh về làm biên tập ở Tạp chí
Văn nghệ Quân đội cùng thời với những tên tuổi như: Vũ Cao, Thanh Tịnh,
Nguyễn Khải, Hữu Mai…Nhưng cái tính “long bông lang bang” ở một con
người mang nhiều chất nghệ sĩ như ông không phù hợp và không gắn bó nổi
với một nơi quy phạm và chuẩn mực như quân đội. Năm 1962, sau khi in tập
truyện ngắn đầu tay có tên Rừng sâu, bị kỷ luật do vướng mắc quan điểm
nghề nghiệp, ông phải chuyển sang báo Thiếu niên Tiền phong. Đến năm
1969, Nguyễn Xuân Khánh về hưu sớm. Lao vào cuộc vật lộn vì mưu sinh,
làm đủ nghề như nuôi lợn, gác nhà kho…Nhưng con người ông sinh ra như
thể để gắn bó với con chữ. Sau những giờ phút lao động mưu sinh cật lực,
đêm đêm ông lại chong đèn thức cùng con chữ. Những trang sách kinh điển,

8


luôn dọi ánh sáng huyền diệu cho ông tin yêu và vượt qua những khó khăn bi
đát. Những con chữ vẫn bám riết lấy ông. Vốn ngoại ngữ tiếng Pháp được cơ
hội phát huy. Ông đã dịch hàng chục cuốn sách và sớm có ý thức củng cố tri
thức để làm hành trang trên con đường dài của mình.
Từ đáy sâu tâm hồn, Nguyễn Xuân Khánh vẫn dành cho văn chương
một vị trí đặc biệt thậm chí tới mức “linh thiêng” không bao giờ xóa bỏ. Nhà
văn từng tâm sự “Văn chương đối với tôi là một khu đền đài linh thiêng, dù
vô tình lạc bước nhưng đã đến một lần rồi thì không thể quay lại được nữa.
Bao nhiêu năm vất vả mưu sinh, tôi vẫn chờ đợi, vẫn dồn nén cho văn chương
bởi tôi biết cơ duyên của mình ở đó”[2]. Hai tiểu thuyết Miền hoang tưởng và
Trư cuồng ra đời trong thời gian mà tên tuổi của ông vẫn khó được chấp nhận

trên báo chí. Vậy mà ông vẫn âm thầm viết. Những trang sách cứ vẫn quẫy
đạp trong tâm trí ông. Bản thảo viết ra, một vài bạn bè thân đọc. Họ khen và
cổ vũ. Nhưng việc công bố tác phẩm thì vẫn là điều xa xôi. Mãi cho đến khi
chủ trương đổi mới đề ra, năm 1990, tiểu thuyết Miền hoang tưởng của ông
mới được Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản, với bút danh Đào Nguyễn. Đứa
con tinh thần ra đời trong hoàn cảnh không mấy suôn sẻ, nhưng cũng đủ củng
cố cho ông niềm tin: những trang viết nếu thực sự vui buồn vì nhân dân, vì
đất nước, thì trước sau sẽ được nhân dân đón nhận. Sau thời gian dài im hơi
lặng tiếng, năm 2000, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cho ra mắt bạn đọc tiểu
thuyết Hồ Quý Ly, tạo thành hiện tượng văn học sôi động. Tên tuổi Nguyễn
Xuân Khánh đã được trả lại và được công chúng đón nhận nhiệt tình.
Gần 70 tuổi, ông bắt tay vào viết tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn và cho
ra mắt bạn đọc ở tuổi 74. Ở tuổi 79, Nguyễn Xuân Khánh tiếp tục cho ra mắt
bạn đọc cuốn tiểu thuyết Đội gạo lên chùa. Mỗi cuốn tiểu thuyết ra đời đều
làm xôn xao làng văn và tạo nên những “cơn khát” lớn trong độc giả.

9


Trong những đợt xét giải thưởng về văn xuôi của Hội nhà văn Việt
Nam, Hội Nhà văn Hà Nội… tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh đều đạt
được sự đồng thuận từ đa số phiếu bầu. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly được giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2001, giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2001;
Mẫu Thượng Ngàn nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2006; Đội
gạo lên chùa ngay sau khi vừa được công bố đã đạt giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam 2010 và là cuốn sách gây ấn tượng nhất trong số các tác phẩm đạt
giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2010- 2011.
Với sự thành công của ba thiên tiểu thuyết văn hóa – lịch sử này nhà
văn Nguyễn Xuân Khánh đã khẳng định một cách vững chắc tên tuổi của
mình trên văn đàn và mang đến luồng sinh khí mới cho thể loại tiểu thuyết nói

riêng và đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi đương đại nói riêng và văn
học Việt Nam nói chung.
1.2.2. Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn trong bối cảnh văn xuôi đương đại
Việt Nam
Từ sau chiến thắng lịch sử 1975, đặc biệt là sau Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI (1986), trong bối cảnh đổi mới mạnh mẽ, toàn diện của
đất nước, nền văn học Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt ngày càng
sâu sắc và toàn diện, theo hướng dân chủ hóa, nhân đạo hóa và hiện thực hóa.
Trong sự chuyển biến chung của nền văn học, với sự năng động và ưu thế
riêng, văn xuôi đã có sự bứt phá và đạt được những thành tựu nổi trội so với
các thể loại văn học khác.
Đặt trong bối cảnh chung của nền văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu
thuyết là một trong những thể loại có những đóng góp tích cực cho sự cách
tân của văn xuôi Việt Nam đương đại. Nhờ không khí dân chủ hóa của môi
trường sáng tạo đã giúp nhà văn có ý thức sâu sắc hơn về tư cách nghệ sĩ nơi
mình. Nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân trong cách nhìn, trong

10


lối viết, có những tác phẩm thành công hoặc đang trên con đường tìm tòi.
Điều đáng nói ở đây là tất cả đều hướng mục tiêu: làm mới, làm hấp dẫn văn
chương nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
Nguyễn Xuân Khánh như một nhà văn lớn của thể loại này đã gặt hái
được nhiều thành công qua bộ ba tiểu thuyết: Hồ Quý Ly (2000), Mẫu Thượng
Ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011). Đây là ba bộ tiểu thuyết văn hóa- lịch
sử thu hút được sự chú ý của đông đảo dư luận trong một thập kỉ trở lại đây.
Cả ba cuốn tiểu thuyết đều giành được những giải thưởng lớn như: Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội…, được
giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao và độc giả đón nhận nồng nhiệt. Với sự

thành công của ba thiên tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã khẳng
định vững chắc tên tuổi của mình trên văn đàn. Cũng bởi vậy mà có thể nói
Nguyễn Xuân Khánh cầm bút đã lâu, nhưng sự nghiệp của ông chỉ thực sự
được ghi dấu bắt đầu từ Hồ Quý Ly.
Lịch sử đã chứng minh, văn hóa là nền tảng bền vững cho một dân tộc
hiện đại, phát triển. Là một người cầm bút, Nguyễn Xuân Khánh luôn trăn trở
không yên trước những vấn đề văn hóa. Nhà văn quan niệm văn hóa còn thì
dân tộc còn, mà văn hóa Việt Nam chính là văn hóa làng. Đó là cái mà xưa
kia người phương Bắc và phương Tây muốn xóa bỏ để đồng hóa chúng ta mà
không được. Văn hóa làng ăn vào máu thịt và làm nên cái “mùi vị riêng” cho
tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Sau Hồ Quý Ly, đọc Mẫu Thượng Ngàn ta
nhận thấy rõ Nguyễn Xuân Khánh có thế mạnh và am hiểu sâu rộng tính chất
thuần Việt của con người Việt trải qua dòng chảy nổi chìm của lịch sử dựng
nước và giữ nước. Đau đáu về văn hóa Việt, Nguyễn Xuân Khánh tha thiết
muốn thể hiện cái nhìn văn hóa và luôn muốn tìm ra những gì mới mẻ. Từ Hồ
Quý Ly đến Mẫu Thượng Ngàn là sự vượt qua chính mình đầy ngoạn mục, là
hành trình tư tưởng từ nhận thức lịch sử tới cảm quan văn hoá của nhà văn.

11


Từ Hồ Quý Ly đến Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đã dùng văn
chương phác họa rõ nét văn hóa phong tục Việt. Và như thế văn hóa làng qua
tâm hồn Nguyễn Xuân Khánh đã trở thành những câu chuyện lung linh.
Cũng bởi vậy mà khác với nhiều nhà văn quan tâm đến thời hiện tại, cái
hôm nay đang diễn ra, Nguyễn Xuân Khánh cũng như một số nhà văn có
hứng thú với đề tài lịch sử đã lựa chọn viết về quá khứ, những thời điểm lịch
sử đặc biệt với một độ lùi thời gian khá xa.Bối cảnh của tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh là thời điểm lịch sử đầy biến động và phức tạp. Ở Mẫu Thượng
Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh chọn bối cảnh lịch sử là Hà Nội thế kỉ XIX đầu

thế kỉ XX, gắn với việc người Pháp đánh thành Hà Nội lần 2, việc xây Nhà
Thờ Lớn, cuộc chiến tranh của người Pháp với quân Cờ Đen.
Có thể nói trong hai mươi năm trở lại đây, tiểu thuyết Việt Nam thực sự
khởi sắc với những thành tựu mang tính chất bước ngoặt cả về lí luận thể loại
và thực tiễn sáng tạo, đem đến cho văn học Việt Nam nguồn sức sống mới,
đáp ứng nhu cầu phản ánh đời sống từ nhiều chiều kích, tạo nên sức mạnh
khám phá hiện thực và tái tạo toàn diện đời sống con người. Đồng thời góp
phần đưa văn học Việt Nam tiến xa hơn trên con đường hiện đại hóa và hội
nhập đầy đủ hơn vào tiến trình văn học thế giới. Đặt tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại ta thấy trên hành trình phát triển này sự xuất hiện của các tiểu
thuyết lịch sử gần đây của Nguyễn Xuân Khánh nói chung và tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn nói riêng đã đánh dấu một bước ngoặt có tính đột phá, mang ý
nghĩa cách tân thể loại.
Kế thừa những tinh hoa của truyền thống kết hợp với việc phát huy
mạnh mẽ kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã góp phần khẳng định chỗ
đứng vững chắc, hiển nhiên cho tiểu thuyết lịch sử bên cạnh các thể loại khác.

12


Có thể khẳng định Nguyễn Xuân Khánh là một nhà cách tân nghệ
thuật, ông đã có những nỗ lực vượt bậc để tự làm mới văn chương của mình.
Cái mới mà nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh mang lại chủ yếu thiên về cái
mới trong tư tưởng. Trong khi tiểu thuyết Việt Nam phát triển theo hướng tiểu
thuyết thế sự, Nguyễn Xuân Khánh lại chọn cho mình con đường sáng tác
men theo các mốc lịch sử, các dấu ấn văn hóa. Ngoài những kiến thức về lịch
sử, Mẫu Thượng Ngàn còn làm người đọc choáng ngợp bởi nguồn kiến thức
thú vị về phong tục lễ hội, về đạo Mẫu, về nghệ thuật trầu văn. Trên thực tế,
văn học của thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng đã chứng minh

rằng khi tiểu thuyết đề cập đến những vấn đề phong tục tập quán, lịch sử văn
hóa thì những cuốn tiểu thuyết ấy rất dễ có được những giá trị lâu bền trong
nền văn học như: Sông Đông êm đềm (M. Solokhop), Chiến tranh và hòa bình
(L. Tonxtoi). Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh chính
là sự mở đường cho thể loại tiểu thuyết về phong tục tập quán, về văn hóa
trong văn học Việt Nam.
Góp mặt trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng
và văn xuôi đương đại nói chung, Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn giúp người
đọc biết được một Nguyễn Xuân Khánh giàu lòng yêu thương, quý trọng
những di sản văn hóa của dân tộc. Con người ấy sống giữa lòng Hà Nội
nhưng vẫn mang trong mình cái chân chất của một con người dân quê, luôn
đau đáu trong mối ân tình không thể dứt với bao nền tảng văn hóa dân tộc.
Trong từng trang viết, nhà văn đã lưu giữ cho chúng ta những sinh hoạt,
phong tục văn hóa đẹp và có giá trị của người Việt. Điều quan trọng mà nhà
văn muốn gửi gắm chính là sự tiếp biến văn hóa trong quá trình giao lưu với
các nền văn hóa khác. Đọc sách của ông, thấy yêu thương dân tộc mình, đất
nước mình, gắn bó sâu sắc hơn với nền văn hóa Việt thuần khiết, như đứng
trước một trách nhiệm lớn lao hãy giữ gìn văn hóa Việt trong cuộc hội nhập

13


ngày hôm nay. Chính từ bộ tiểu thuyết này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã
thổi một luồng gió góp phần làm tươi mới hơn cho nền văn học nước nhà.

CHƢƠNG 2
NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾTMẪU THƯỢNG NGÀN
2.1. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
Trong Mẫu Thượng Ngàn- cuốn tiểu thuyết đồ sộ đã lấy văn hóa làm

chủ đề xuyên suốt, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ dừng lại ở việc xây đắp
lên một thế giới hình tượng phong phú, đa diện, mà ông còn tạo dựng được
gương mặt của cả dân tộc với những vẻ đẹp bản chất nhất, hồn nhiên nhất
biểu tượng cho văn hóa làng, cho bản sắc truyền thống của dân tộc… Và qua
đó, ta thấy được cảm hứng bất tận của tác giả không chỉ dừng lại ở việc xây
dựng hình tượng nghệ thuật của nhà văn mà còn ở việc truy nguyên chân
dung dân tộc của một nhà văn hóa. Không xây dựng nhân vật trung tâm như
tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn là tập hợp đông đảo những con
người phần lớn là lớp bình dân. Và như vậy, hệ thống nhân vật được xác lập
trên vùng quê bán sơn địa là hình ảnh của cả một dân tộc. Kiến giải tâm thức
người Việt, sức sống và vẻ đẹp văn hóa Việt trong quá trình tiếp biến văn hóa
Pháp- Việt trong thiên tiểu thuyết này, Nguyễn Xuân Khánh đã có những
thành công đặc biệt ở ba kiểu loại nhân vật:
2.1.1. Nhân vật nữ
Từ lâu, Nguyễn Xuân Khánh đã khát khao viết tiểu thuyết về Mẹ, về
người phụ nữ… Niềm ưu cảm của nhà văn dành cho phái nữ xuất phát từ tình
yêu sâu lặng với người mẹ còn rất trẻ của ông chịu ở vậy nuôi con khi chồng

14


mất sớm; và cũng xuất phát từ tình cảm với những người phụ nữ cô đơn, cô
độc ở làng Kẻ Noi, Cổ Nhuế trong kí ức tuổi thơ ông. Nguyễn Xuân Khánh
viết về người phụ nữ không phải với tư cách của một nhà văn hóa, một nhà
văn cần chất liệu cho công trình nghệ thuật của mình, mà ông còn viết bằng
sự trải nghiệm của một con người sống ân nghĩa, thủy chung…
Dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ thì người phụ nữ Việt qua cách
xây dựng nhân vật của nhà văn đều hiện diện thật đáng trân trọng. Nhưng có
lẽ, các nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn được xây dựng công
phu và độc đáo hơn cả. Cũng bởi vậy mà nhà văn Nguyên Ngọc đã không kìm

được cảm xúc của mình và không tiếc dùng những động, tính từ gợi cảm, biểu
cảm để lột tả vẻ đẹp của các nhân vật nữ trong Mẫu Thượng Ngàn: “ … đông
đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật
nữ, có cảm giác như vô số vậy, từ bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa tình… cho
đến cô đồng Mùi, cô mõ Hoa khốn khổ, cô trinh nữ Nhụ tinh khiết, hàng
chục, hàng chục nhân vật nữ hết sức gần gũi, hiện thực, mơn mởn, sần sùi,
dào dạt, trễ tràng, trữ tình, thừa mứa, khát khao cho và nhận, nhận và cho…
Và đến cả Bà Đà của ông Đùng huyền thoại nữa… tất cả, tràn trề sinh lực,
đầm đìa phồn thực… Và ta bỗng hiểu ra: Một nhân dân tiềm chứa trong mình
một sức sống ẩn sâu trong một thứ tín ngưỡng tuyệt diệu như vậy, thì không
bao giờ có thể chết, có thể cạn. Vĩnh cửu như Đất, như Rừng, như Mẹ, như
người Đàn bà” [9]. Họ là những người phụ nữ bình dân; những phiên bản
khác nhau của đạo Mẫu, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và bất tận của
người Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Dù xuất thân, dù sống trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng điểm
chung của họ là ai cũng có vẻ đẹp ngoại hình tuyệt mĩ, đậm chất phồn thực.
Nhân vật Nhụ xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm với “khuôn mặt trái
xoan, điểm một đôi mắt đen láy, to dài, hơi xếch một chút”, “tiếng cười lanh

15


canh, giòn tan như pha lê” [4, tr 12], thân hình mơn mởn, cổ tay tròn lẳn, gò
má ửng hồng như trứng gà bóc. Nguyễn Xuân Khánh miêu tả Nhụ bằng
những chi tiết thể hiện vẻ đẹp của một trinh nữ, một thiên thần song cũng đậm
chất quyến rũ rất đàn bà. Cô có bầu vú căng mẩy, xinh xinh, ấm áp; bầu vú
bánh dày, đôi nhũ hoa lớn nhanh như thổi khiến chàng trai mới lớn trong Điều
mê đắm, quay cuồng. “Điều mới chỉ nhìn thấy tấm lưng trần trắng muốt, hãy
còn những giọt nước dư đọng sáng long lanh trong ánh trăng, thì đã chẳng thể
cầm lòng. Hắn ôm lấy cô, và bế cô lên, mặc cho cô vùng vẫy…” [4, tr 639].

Vẻ đẹp của Nhụ là vẻ đẹp của sức sống ngút ngàn, của sự quyến rũ đắm say
của một cô gái mới lớn, một cô gái đương bước vào tuổi dậy thì.
Khác với dáng vẻ trẻ trung của Nhụ là dáng vẻ rất mực thanh tú, kiêu kì
của bà Tổ Cô- bậc cao niên của dòng họ Vũ Xuân. “Thủa con gái bà đẹp lắm,
thắt đáy lưng ong, khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang
điểm cũng đẹp nõn nà… ở thời bình chắc dân làng phải đem bà tiến vua, nếu
không làm hoàng hậu, chắc cũng phải là quý phi…” [4, tr 267].Ở bà là sự
tổng hợp của những vẻ đẹp Á Đông truyền thống và những nét đẹp phương
Tây hiện đại. Cho đến khi về già, sau bao nhiêu dâu bể cuộc đời, nhan sắc ấy
vẫn giữ nguyên vẻ “kiều diễm” khiến cho Philippe phải “ngạc nhiên đến sững
người”, khi lần đầu tiên nhìn thấy bà ( khi đó bà là vợ ông Trưởng Cam –
Philippe gặp bà trong một lần đến nhà ông Trưởng Cam có công chuyện). “
Bà là một thiếu phụ xinh đẹp mà ông ít gặp” – một vẻ đẹp hiếm thấy (theo lời
của Philippe). “Bà đẹp như một bức tranh tố nữ tô màu”, “cao quý như Đức
Mẹ” [4, tr 108]. Người đàn bà này sở hữu vẻ đẹp rất chuẩn của người phụ nữ
Đông – Tây.
Không mang vẻ đẹp sang trọng đài các như bà Tổ Cô, bà Ba Váy lại có
một sắc đẹp lồ lộ, ai cũng thấy: “Trắng một cách lạ lùng, trắng như cục bột…
gương mặt tròn vành vạnh, vai cũng tròn, bàn tay bụ bẫm như tay trẻ con. Đôi

16


mông đít mẩy,hứa hẹn sẽ rất to và tròn” [ 4, tr 140]. Ở cô gái này đã sớm có
cái vẻ đẹp gợi cảm, tình tứ: mới mười ba tuổi mà “bầu vú đã thây lẩy”, cô đã
biết “đằm thắm”, biết “ngọt ngào” khiến anh Phác mê mẩn. Năm 17 tuổi, bị
gả cho ông Lý thì cô Váy đã là một “cô gái thực sự”, xinh đẹp tràn trề sức
sống. Ông Lý đã bị cô Váy làm cho chết mê chết mệt. Ông tìm thấy ởcô “sự
săn chắc, sự hừng hực, ngút ngát của tuổi trẻ”. Làn da cô Váy trắng đến “nhễ
nhại”, “hồng hào” khiến ông Lý lúc nào cũng muốn ân ái. Cái đẹp của bà Ba

Váy là cái đẹp gợi cảm, đầy chất phồn thực, chứa một sức sống dào dạt.
Nếu ở bà Tổ Cô có vẻ đẹp quý phái, bà Ba Váy có vẻ đẹp của sự gợi
tình, đầy chất phồn thực, thì ở cô đồng Mùi có sự kết hợp của cả hai nét đẹp.
Cô Mùi tuy có dáng vẻ hơi khác biệt với người phụ nữ Á Đông, nhưng cô vẫn
được kể đến với vẻ đẹp ngút ngát đầy sức trẻ. Nhà văn miêu tả: “So với người
Việt ta, cô Mùi là người đàn bà cao lớn… nhưng cô không gầy. Bầu vú nở
nang. Eo thon nhỏ. Đôi mông nẩy đều chắc nịch hứa hẹn sự đông đàn dài
lũ...” [4, tr 224]. Vẻ đẹp của cô, sức sống của cô đã lọt vào mắt xanh Philippe.
Hắn luôn bị hớp hồn bởi cái vẻ đẹp phồn thực đầy sức sống, sự “ ngút ngát
trẻ” của cô. Cô Mùi đẹp tựa như “một đóa hoa đêm” tỏa hương kì lạ khiến
cho Philippe phải ngây ngất và cũng làm cho kẻ đi chinh phục bị bại trận dưới
sức mạnh của vẻ đẹp thần bí của người phụ nữ bản xứ.
Viết về nhân vật nữ khi hướng ngòi bút sang miêu tả mẹ con chị mõ
Pháo, tác giả cũng làm hiện lên hình ảnh của những người phụ nữ xinh đẹp.
Bà Pháo là người đàn bà lực điền, khỏe mạnh và rất có duyên, “phốp pháp
hừng hực sức sống của trời đất” [4, tr 230]. Đặc biệt, dưới ánh trăng, người
đàn bà này trở nên đẹp lạ thường khiến ông Hộ Hiếu cũng không kiềm chế
được những ham muốn bản năng của con người: “Ánh trăng làm mắt chị ba
Pháo long lanh… làm thân hình của chị như biến thành ngọc, thành ngà. Bầu
vú trắng hơn” [4, tr 234].

17


Cô Hoa cũng được thừa hưởng cái duyên của mẹ với tiếng cười “dễ
thương, để phô ra một hàm răng hạt na đều đặn”, tiếng cười của Hoa “long
lanh, phóng khoáng”. Hoa đẹp “nõn nà, tràn đầy sức sống, quê nhưng những
đường nét mềm mại chẳng có chút thô kệch” [4, tr 489]. Đó là một cô thôn nữ
trong trắng, hồn nhiên, một “mỹ nhân” của làng Cổ Đình như Tuấn, Huy và
Pierre nhận xét.

Cô Ngơ, người đàn bà kém trí tuệ cũng không thiếu vẻ đẹp đàn bà. Vẻ
đẹp của cô khiến bất cứ gã trai nào nhìn thấy cũng thèm. “Thèm vì cô không
xấu lại trắng trẻo, bụ bẫm. Thèm vì cô đặc biệt có bầu vú giỏ ấm rõ to. Cái
yếm đào rách lại không đủ rộng che bầu vú ấy. Bầu vú quá cỡ làm chiếc yếm
luôn luôn hếch ra, làm bầu vú thường ở trạng thái nửa kín nửa hở, làm đám
trai trong làng trông thấy cô như rồ điên hết cả lũ” [4, tr 159].
Như vậy đọc cả thiên tiểu thuyết ta thấy có bao nhiêu người phụ nữ là
có bấy nhiêu vẻ đẹp. Từ những người phụ nữ cao quý được cả làng tôn kính là
bà Tổ Cô đến cô đồng Mùi, bà Ba Váy, cô Hoa, cô Nhụ cho đến những người
phụ nữ ở tận cùng dưới đáy xã hội như mụ mõ Pháo, cô Ngơ, tất cả đều đẹp,
đều đầy đặn, căng tròn tràn trề sức sống,có sức cuốn hút lạ thường.
Điểm đặc biệt có thể xem là phong cách của Nguyễn Xuân Khánh trong
giai đoạn sáng tác hiện đại của ông là những nhân vật mang vẻ đẹp tính Mẫu.
Tính Mẫu là những dây đàn nằm trong từng con người Việt Nam- nó là tàn dư
của chế độ Mẫu hệ từ ngàn xưa đã được in dấu vào vô thức tập thể của cộng
đồng người Việt; cũng là sự thăng hoa rực rỡ về phẩm cách văn hóa , về cội
nguồn vô thức sâu xa của dân tộc.Viết vềvẻ đẹp tính Mẫu có thơ Xuân
Quỳnh, Đoàn Thị Lam Luyến…, truyện ngắn của các tác giả nữ hiện đại, có
thêm Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu… Nhưng phải đến Nguyễn
Xuân Khánh, tính Mẫu mới thực sự trở thành vấn đề trung tâm, trở thành đặc
trưng nhân vật của ông. Tuy nhiên, ở các nhân vật nữ của tiểu thuyết Hồ Quý

18


Ly, vẻ đẹp Mẫu tính không phải là vẻ đẹp bao trùm, vấn đề Mẫu tính cũng chưa
phải là chủ đề chính. Đến Mẫu Thượng Ngàn – một cuốn tiểu thuyết về văn hóa,
vấn đề mới trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, làm nên giá trị độc đáo của tác
phẩm.
“Người Việt cổ mình thường là thờ người mẹ, người mang nặng đẻ

đau,ôm ấp, che chở, nuôi nấng và chăm bẵm con mình suốt đời, nó khác hoàn
toàn với tính nữ. Nếu tính nữ đơn thuần chỉ là tính mềm mại, uyển chuyển, …
thì Mẫu Thượng Ngàn vẫn có tính nữ nhưng đó là tính nữ phát triển lên trọn
vẹn là tính Mẫu…” [6]. Những người phụ nữ trong Mẫu Thượng Ngàn là
những con người có phẩm chất vượt lên trên những phẩm chất của tính nữ,
phát triển trọn vẹn thành tính Mẫu. Đó là vẻ đẹp của tình thương, sự khoan
hòa, sức mạnh sản sinh và tái sinh sự sống, tâm hồn – những phẩm chất đặc
thù của người Mẹ. Từ bà Tổ Cô,bà Cả Cỏn, bà Ba Váy, đến thím Pháo, cái
Hoa, cái Nhụ…tất cả họ đều là những phiên bản khác nhau của Mẹ - của
Mẫu, của văn hóa Việt rất bản địa, thiêng liêng, bất tử.
Trong cuộc sống thường ngày, họ luôn luôn là người thắp lửa, giữ gìn
ngọn lửa hạnh phúc cho gia đình. Ngay cả người đàn bà tưởng chừng chỉ biết
ghen tuông và cậy thế cha như bà Cả Cỏn cũng được nhà văn miêu tả là người
rất khéo vun vén gia đình. “Một tay bà chỉ huy sắp xếp công việc cho vài chục
người làm, tất cả đều đâu ra đấy. Lại biết thưởng phạt công minh… Lý Cỏn
nhờ có bà, không phải lo việc nhà, mà chuyên tâm vào việc to tát, vào việc
cho họ Vũ Xuân thêm sang, thêm danh giá” [4, tr 525]. Không phải ngẫu
nhiên tác giả lại để cho các nhân vật nữ luôn khao khát có con và sinh con
nhiều, đặc biệt là bà Ba Váy (6 lần sinh nở). Số phận bất hạnh đẩy bà Ba Váy
đến với Lý Cỏn bằng cuộc hôn nhân không tình yêu nhưng bà đã lấy niềm vui
của người mẹ để lấp đầy nỗi khổ của người vợ. Thay vì việc oán trách người
chồng ích kỉ, thô bạo, ghen tuông bà lấy việc sinh con, chăm sóc con là niềm

19


hạnh phúc, niềm tự hào nhất của đời mình. Đó là một biểu tượng sức sống,
một sự tồn tại đặc biệt của giống nòi, nó thể hiện sự vĩnh hằng của cả dân tộc;
khát vọng luyến ái, khát khao làm mẹ, khảnăng sản sinh ra sự sống và chở che
cho sự sống của người phụ nữ Việt Nam.

Nhìn nhận ở góc độ sâu hơn, nhà văn chỉ ra thứ quyền năng kỳ diệu ở
người đàn bà, đó là khả năng hóa giải những đau khổ, cứu vớt sự sống, tái
sinh sự sống và thanh tẩy tâm hồn.
Trong khoảnh khắc giữa cái chết và sự sống, để được sống người ta
thường vái tứ phương. Để cứu được ông Lý Cỏn, bà Ba Váy đã nghĩ đến
phương thuốc có một không hai, đấy chính là bầu sữa của mình. Việc làm
tưởng như buồn cười của bà đã cứu sống ông Lý Cỏn.
Cô trinh nữ Nhụ đã cứu chồng từ cõi chết trở về. Điều – chồng cô
không may trở thành nạn nhân trong trận dịch tả. Tưởng như Điều không còn
chút hi vọng nào nữa, đến cả bàn tay tài hoa, thần dược quý hiếm của ông Hộ
Hiếu cũng đành chịu thua vậy mà Nhụ vẫn không đầu hàng số phận. Cô nhất
định không cho mang chồng mình đi chôn. Cô ngồi cả đêm nhớ nhung, ân
hận, xót thương, nuối tiếc, khóc lóc… Khi cô tỉnh dậy, chuyện lạ lùng như
một phép màu đã xảy ra: Điều đã hồi sinh. Giống như bà Tổ Cô, bà Ba Váy,
Nhụ đã dùng tình yêu thương của người vợ, người mẹ hay nói cách khác đã
dùng vẻ đẹp mang tính Mẫu để tái sinh sự sống cho người mình yêu thương.
Bà Tổ Cô và cô đồng Mùi là hiện thân của Mẫu, tập trung vẻ đẹp cho
thiên tính của người phụ nữ. Bà đồng Mùi tuy không có được niềm hạnh phúc
làm mẹ như những người phụ nữ khác. Nhưng những nét Mẫu tính trong con
người bà cũng hiện lên sáng rõ. Bà là mẹ của những “con nhang đệ tử”. Từng
trải qua và thấm thía nỗi truân chuyên của đời mình, bà đem thân lên hầu cửa
Thánh – bà lên đền Mẫu Sơn, với mong ước được xoa dịu nỗi đau cho người
khác, cho những đứa con của Mẫu. Ngày ngày, bà hầu hạ cửa Mẫu, bà xem

20


×