Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

SKKN Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh lớp 8 trong việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.95 KB, 14 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN THỦY NGUYÊN

TRƯỜNG THCS…..

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỮA LỖI CÂU TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 8 TRONG MÔN NGỮ VĂN.

Tháng 03 năm 2017
1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ XÉT, CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Năm: 2017
Kính gửi: Hội đồng khoa học huyện Thủy Nguyên
Họ và tên: Bùi Thị Loan
Chức vụ, đơn vị công tác: Trường THCS Lập Lễ
Tên sáng kiến: Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh lớp 8 trong
việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: trong việc dạy học môn Ngữ văn ở bậc THCS.
1. Tóm tắt tình trạng giải pháp đã biết:
- Ưu điểm: Môn Ngữ văn là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm
quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Đại
văn hào Nga Mác-XimGor-Ki đã nói: “Học văn là học làm người”. Học tốt môn ngữ văn
giúp học sinh tự tin rất nhiều trong giao tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp với đời sống
gia đình và bạn bè. Muốn vậy thì trong cách diễn đạt câu không được phép mắc lỗi.
Và dù sau này bước vào đời, học sinh có thể tham gia mọi ngành nghề phục vụ xã
hội, môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện, là người bạn tốt trên đường đời của mỗi học


sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn.
Rõ ràng là mơn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thơng. Song
có một thực trạng đáng buồn là hiện nay khơng ít học sinh thực sự không mặn mà với
việc học văn “không chịu” đọc sách, báo và các tài liệu tham khảo, lười suy nghĩ, sáng
tạo. Chính vì thế mà trong khi nói cũng như khi viết, các em thường khơng diễn đạt được
nội dung mình định nói do đó dẫn đến việc viết câu sai.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy mơn Ngữ văn, bản thân tơi thấy mình cần phải làm
gì để giúp học sinh nhận ra lỗi viết câu sai là loại lỗi gì, nguyên nhân và cách sửa chữa.
Từ đó, các em sẽ khơng chỉ biết viết câu sao cho đúng mà còn biết viết những câu hay, ý
tứ. Chính vì lí do đó, tơi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chữa lỗi câu tiếng việt cho
học sinh lớp 8”
- Hạn chế: Còn một bộ phận khơng nhỏ giáo viên chưa có nhận thức đầy đủ về đổi mới
phương pháp, ứng dụng CNTT; tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ chưa thường
xuyên; áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới còn lúng túng, hình thức, gị ép;
chưa phát triển được các năng lực của học sinh, chưa đạt mục tiêu của tiết dạy và bộ
mơn.
2. Tóm tắt nội dung giải pháp đề nghị cơng nhận sáng kiến:
- Tính mới, tính sáng tạo:
2


Chương trình ngữ văn Trung học cơ sở được chia làm 3 phân mơn, mỗi phân mơn
lại có những đặc trưng phương pháp riêng. Trong đó phân mơn tiếng Việt góp phần trực
tiếp vào việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngơn ngữ trong giao tiếp. Vì thế để
nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên trực tiếp
giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng Việt, mà
phải kết hợp chữa lỗi câu thơng qua q trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn, tổ chức
cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp
để giúp các em sửa lỗi câu.
- Khả năng áp dụng, nhân rộng: có thể áp dụng được thường xuyên không chỉ cho các

tiết dạy tiếng Việt mà còn dùng cho cả dạy văn bản và Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9
hoặc tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài
giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu.
- Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp: Ưu thế của hướng giảng dạy này là
với phân môn tiếng Việt : giờ học không chỉ là truyền thụ kiến thức mà là giờ khơi gợi,
khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, tìm ra cái hay, cái đẹp của hình
tượng nghệ thuật thơng qua ngơn từ. Trong bài giảng thầy giảng một nửa phần còn lại để
học sinh tự làm lấy. Hướng giáo dục tự phát huy tính chủ động của học sinh đã lập được
quan hệ đối chiếu đa chiều giữa thầy với trò, trò với trò. Là bạn nghiên cứu nhiều kinh
nghiệm, là cố vấn, người thầy không can thiệp vào cách tiếp nhận tri thức của học sinh và
cũng không áp đặt cách đánh giá của học sinh
Bên cạnh đó, phương pháp học tập này còn phát huy được tối đa các năng lực của học
sinh như: tự học, giải quyết tình huống có vấn đề, giao tiếp, hợp tác, phát triển ngơn ngữ nói;
học sinh học tập tích cực, hứng thú, nắm chắc kiến thức; giáo viên nói ít, chỉ là trọng tài
hướng dẫn, tổ chức các hoạt động và chốt kiến thức; từ đó làm cho bộ mơn Ngữ văn ngày
càng được các em yêu thích.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Thủy Nguyên, ngày 28 tháng 03 năm 2017
Người viết đơn

3


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh lớp 8 trong
việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: trong việc dạy học môn Ngữ văn ở THCS.
3. Tác giả:

- Họ và tên:
- Ngày/tháng/năm sinh:
- Chức vụ, đơn vị công tác:
- Điện thoại:
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
- Tên đơn vị:
- Địa chỉ:
- Điện thoại:
I.Mô tả giải pháp đã biết:
1.Ưu điểm. : Mơn Ngữ văn là mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm
quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Đại
văn hào Nga Mác-XimGor-Ki đã nói: “Học văn là học làm người”. Học tốt môn ngữ văn
giúp học sinh tự tin rất nhiều trong giao tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp với đời sống
gia đình và bạn bè. Muốn vậy thì trong cách diễn đạt câu không được phép mắc lỗi.
Và dù sau này bước vào đời, học sinh có thể tham gia mọi ngành nghề phục vụ xã
hội, môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện, là người bạn tốt trên đường đời của mỗi học
sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn.
Rõ ràng là mơn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thơng. Song
có một thực trạng đáng buồn là hiện nay khơng ít học sinh thực sự không mặn mà với
việc học văn “không chịu” đọc sách, báo và các tài liệu tham khảo, lười suy nghĩ, sáng
tạo. Chính vì thế mà trong khi nói cũng như khi viết, các em thường không diễn đạt được
nội dung mình định nói do đó dẫn đến việc viết câu sai.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tơi thấy mình cần phải làm gì
để giúp học sinh nhận ra lỗi viết câu sai là loại lỗi gì, nguyên nhân và cách sửa chữa. Từ
đó, các em sẽ khơng chỉ biết viết câu sao cho đúng mà còn biết viết những câu hay, ý tứ.
4


Chính vì lí do đó, tơi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chữa lỗi câu tiếng việt cho học
sinh lớp 8”

- Hạn chế: Cịn một bộ phận khơng nhỏ giáo viên chưa có nhận thức đầy đủ về đổi mới
phương pháp, ứng dụng CNTT; tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ chưa thường
xuyên; áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới cịn lúng túng, hình thức, gò ép;
chưa phát triển được các năng lực của học sinh, chưa đạt mục tiêu của tiết dạy và bộ
môn.
II.Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
II.0. Nội dung giải pháp mà tác giả đề xuất:
- XuÊt phát từ tầm quan trọng của môn học : Đây là bộ môn
khoa học có nhiệm vụ giáo dục rèn luyện học sinh nói và viết tiếng mẹ
đẻ một cách chuẩn xác đúng yêu cầu . Để rồi từ đó giúp các em vận
dụng nó làm phơng tiện giao tiếp trong cuộc sống và công việc hàng
ngày đồng thời , nó còn là cái chìa khóa giúp các em tiếp cận tiếp
thu kiến thức của các môn khoa học khác trong nhà trờng .
- Xuất phát từ tình hình thực tế qua nhiều năm giảng dạy tôi
thấy việc viết câu của học sinh hiện nay vẫn còn nhiều mặt hạn chÕ.
Cơ thĨ häc sinh viÕt sai chÝnh t¶ , vèn từ nghèo nàn , câu sai cú pháp ,
dấu câu đánh tùy tiện , diễn đạt rờm rà , tối nghĩa , lại còn đọc sai ,
viết ẩu .
- Qua kinh nghiƯm theo dâi t×nh h×nh thùc tÕ trong nhiỊu năm
tôi thấy có nhiều nguyên nhân chủ qua xen lẫn khách quan dẫn đễn
tình trạng học sinh viết câu sai cha nắm vững quy tắc viết câu .
Trong đó đáng lu ý là vai trò của học sinh- đối tợng học tập quá thụ
động , cha chịu khó tìm tòi suy nghĩ, không động nÃo trớc những
vấn đề cơ bản mà mình cha lĩnh hội .
- Sở dĩ học sinh học còn thụ động tiêu cực nh vậy theo tôi nghĩ
nguyên nhân sâu xa là do phơng pháp dạy và cách truyền thụ của
giáo viên đôi khi thầy cũng cha thùc sù chó ý sưa sai nh÷ng kiÕn thøc
cèt u của từng đối tợng học sinh .
5



Từ thực trạng trên tôi đà tiến hành khảo sát các lỗi về câu. Kết
quả thu đợc nh sau:

Năm
Khố Số lhọc
i lớp ợng
2016-2017
197
8

Lỗ
i
55

Khôn
g lỗi
142

Các loại li chủ yếu
- Thiu cỏc thành phần nịng cốt
câu .

Tû lƯ
(%)
27,1

- Viết câu thiếu vế.

22,3


- Không ý thức rõ về thành
phần phụ trạng ngữ với chủ ngữ
.
- Sai quan hệ logic chủ đề - liên
kết hình thức.
- Sai quan hệ ngữ nghĩa giữa
các thành phần trong câu.

21,2

14,1
15,3

*Các giải pháp thực hiện:
- Khi viết câu nội dung phải hợp lí về mặt logic và ngữ nghĩa:
+ Câu phải có nghĩa, vì có nghĩa chúng ta mới hiểu được nội dung, mục đích thơng báo.
Muốn vậy dùng từ trong câu và viết chính tả phải đúng.
+ Mặt khác, đứng về mặt ý nghĩa giữa các từ, các bộ phận trong câu không được mâu
thuẫn nhau, mà phải thống nhất với nhau, ý của câu cũng phải thống nhất với ý của đoạn
văn, của văn bản, đảm bảo sự phát triển liền mạch, liền ý của đoạn văn và văn bản.
- Câu trúc cú pháp của câu phải phù hợp với qui tắc tạo câu của Tiếng Việt.
* Câu là một chỉnh thể ngữ pháp độc lập, chứa đựng một nội dung thơng báo hồn chỉnh
và gắn với một hồn cảnh giao tiếp nhất định.
Câu có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ.
6


* Chủ ngữ nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm, trạng thái ... được miêu tả
ở vị ngữ. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ.

Ví dụ: Con bò đang gặm cỏ
CN

VN

Chủ ngữ thường do danh từ đảm nhiệm, nhưng cũng có thể do động từ, tính từ đảm
nhiệm. Chủ ngữ có thể được cấu tạo từ một từ hoặc một cụm từ.
* Vị ngữ chỉ ra hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ của sự vật, hiện tượng nêu ở chủ
ngữ.
Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ, do động từ, tính từ (cụm động từ, tính từ) hoặc do các
từ, cụm từ khác đảm nhiệm.
* Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải đảm bảo quan hệ hợp lí, chặt chẽ.
Thường thì trong câu chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau. Chỉ trong những trường hợp
hạn hữu, trong câu mới có hiện tượng đảo trật tự giữa chủ ngữ và vị ngữ.
Khi muốn nhấn mạnh ý, làm cho câu có tính gợi hình, gợi cảm người ta đảo vị trí của vị
ngữ lên đầu câu.
Ví dụ: Lom khom dưới núi, tiều vài chú
VN

CN

Lác đác ben sơng, chợ mấy nhà
VN

CN

* Ngồi hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ thì câu cần có ngữ điệu thơng báo.
Đặc biệt khi hai thành phần chính của câu vắng mặt thì ngữ điệu càng trở nên quan trọng
hơn. Vì thế, câu cịn có các thành phần phụ.
- Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa hợp lí :

Khi viết câu, nội dung câu phải hợp lí,có tính chất khách quan phù hợp với quy luật nhận
thức.
Ví dụ :

- Chim hót

Chứ khơng thể đặt câu là

- Bị đang gặm cỏ.

- Bị đang hót
- Chim gặm cỏ

Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải hợp lí. Chủ ngữ thường nêu sự vật, hiện tượng, sự
việc; vị ngữ nêu hành động, trạng thái, tính chất, đặc điểm về sự vật, sự việc, hiện tượng
chứ không thể ngược lại.
7


Quan hệ giữa trạng ngữ với nòng cốt câu cũng phải đảm bảo sự logic, hợp lý.
Ví dụ: Trên cánh đồng, mấy chú bị đang gặm cỏ
Tr.N

CN

VN

Chứ khơng thể có trạng ngữ: “Trên cành cây” mà nòng cốt câu lại là “mấy chú bò
đang gặm cỏ”.
Giữa các vế trong câu ghép phải có sự hợp lý đảm bảo tính logic. Nếu vế thứ nhất là

nguyên nhân thì vế thứ hai phải là kết quả (hoặc điều kiện - kết quả; giả thiết - kết quả ).
Nếu câu khơng có kết cấu như thế là câu sai.
- Đặt câu phải đảm bảo yêu cầu về mặt phong cách.
Câu trong phong cách hành chính khác với câu viết theo phong cách nghệ thuật,
chính luận.
- Ở văn bản hành chính - cơng cụ thường sử dụng những câu có cấu trúc chặt chẽ.
Quan hệ giữa các thành phần, các vế câu được xác định rõ ràng, rành mạch, bố cục hợp
lý, chặt chẽ khơng dài dịng.
- Trong văn bản nghị luận thường sử dụng từ ngữ tồn dân, những từ ngữ chính trị
- xã hội. sử dụng biến hoá các loại câu trong lập luận, chứng minh giải thích, bình luận để
thấu lý, đạt tình...
- Trong văn bản thuyết minh, có thể sử dụng rộng rãi các kiểu câu đơn câu phức
theo một hệ thống cú pháp chuẩn.
- Đối với văn bản nghệ thuật việc sử dụng câu hết sức đa dạng, có đủ các loại câu
theo mục đích phát ngơn, có đủ các kiểu câu chia theo cấu trúc nhằm đảm bảo tính thẩm
mỹ, tính hình tượng và tính riêng về phong cách cá nhân.
Qua trên ta thấy khi đặt câu phải chú ý xem câu phù hợp với phong cách ngôn ngữ
nào để viết câu cho đúng, phù hợp với đặc điểm phong cách ngơn ngữ đó.
- Các câu trong văn bản phải đảm bảo sự liên kết.
Văn bản là một thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung và hồn chỉnh về hình
thức. Văn bản dù viết dưới hình thức nào, đều là một tập hợp gồm nhiều câu, nhiều đoạn
nối với nhau. Việc sắp xếp, nối kết các câu trong đoạn, các đoạn trong văn bản không
phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà nó thể hiện ý đồ của người viết, hướng tới một nội
dung chủ đề nhất định. Và như vậy, mối quan hệ ý nghĩa giữa câu với câu được gọi là
liên kết câu.
Muốn liên kết câu phải đảm bảo nguyên tắc liên kết cả về nội dung và hình thức.
8


- Liên kết nội dung: Các câu trong đoạn văn về mặt nội dung có mối quan hệ qua

lại lẫn nhau. Liên kết nội dung thể hiện ở hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết logic.
Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Liên kết hình thức: Chính là việc sử dụng các phương tiện liên kết của ngôn ngữ
để nối các câu làm cho chúng gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm biểu hiện nội dung văn bản.
Phương tiện liên kết có thể thuộc bình diện ngữ âm như vần, nhịp; có thể thuộc bình diện
từ vựng như từ và thuộc bình diện ngữ pháp như kết cấu ngữ pháp. Các phương tiện đó
rất đa dạng nhưng có thể quy về một số phương thức nhất định: Phương thức lặp; phương
thức thế; phương thức liên tưởng; phương thức nối; phương thức trật tự tuyến tính
Trên đây là toàn bộ những yêu cầu cơ bản của việc viết câu. Dựa vào những yêu
cầu cơ bản ấy mà chúng ta biết được câu viết đúng hay viết sai. Để từ đó nhận ra được lỗi
câu mà có phương hướng chữa lỗi.
*CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỮA LỖI CÂU:
Để nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên
trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng
Việt, mà phải kết hợp chữa lỗi câu thơng qua q trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn,
tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ
lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu.
1.Chữa lỗi câu trong giờ Tiếng Việt.
VD: Khi dạy bài: “Câu ghép” (Ngữ văn 8 - Tập I) tiết 43.
-

Mục đích ở bài này là làm cho học sinh nắm được đặc điểm của câu ghép và cách
nối các vế câu trong câu ghép. Rèn kỹ năng nhận diện và sử dụng câu ghép trong

-

nói và viết.
Trong quá trình giảng dạy bài này, ngồi việc học lý thuyết giáo viên cần phải chú
trọng đến việc sử dung câu của các em trong qua trình đưa ví dụ minh hoạ, làm bài
tập. Có như vậy, thì mới phát hiện ra những câu có lỗi khi các em sử dụng. Mặt khác

có thể giáo viên đưa ra một số bài tập để kết hợp chữa lỗi câu sai cho các em.
Bài tập 1: Thêm vào chỗ trống ở câu sau đây một kết cấu chủ - vị để tạo thành câu
ghép:
Trăng đã lên cao.
GV: Gọi học sinh làm bài tập
Trăng/đã lên cao, đêm/càng yên tĩnh
C
V
C
V
Bài tập 2: Cho hai câu sau:
C1: Trời nổi gió
9


C2: Xa xa, một đàn bò.
GV : Cho một học sinh nhận xét, hai câu trên có phải là câu ghép khơng ? Phân
tích kết cấu của câu.
C1 : Tuy thành một câu : CN: Trời; VN: nổi gió nhưng không phải là câu
ghép mà đây chỉ là câu đơn.
C2 : Chưa hồn chỉnh câu vì câu ghép là câu do hai hoặc nhiều cụm C - V
không bao chứa nhau tạo thành. Mỗi cụm C - V trong câu ghép được gọi là một vế

-

câu.
GV : Gọi học sinh chữa lại hai câu trên
C1: Trời/nổi gió (rồi) một cơn mưa/ập đến
C
V

C
V
C2: Xa xa, một đàn bò/đang gặm cỏ, những đứa trẻ/nơ đùa vui vẻ
TrN
C
V
C
V
Như vậy, trong q trình làm bài tập giáo viên đã giúp các em sửa lỗi câu luôn.

2. Chữa lỗi câu trong giờ học HĐNGLL (lớp 8) ở chủ điểm: “Hội vui học tập”.
Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi gắn vào hoa, yêu cầu các em hái hoa (tức là giải
đáp câu hỏi).
Ví dụ câu: Tập hợp từ sau đây đã thành câu chưa? Vì sao? Nếu chưa bổ sung cho
thành câu.
- Tập hợp từ 1: Nhìn thấy cơ giáo bước vào lớp.
- Tập hợp từ 2: Nghĩ đến cảnh mẹ con phải xa nhau.
Như vậy, ở tập hợp từ 1: Học sinh phải thêm vị ngữ
Ở tập hợp từ 2: Học sinh phải thêm cả chủ ngữ - vị ngữ.
Hay là ra câu hỏi: Trong số những câu dưới đây, câu nào sai ngữ pháp? Nếu sai thì sai
như thế nào?
A. Trong lớp các bạn ngồi rất ngay ngắn.
B. Những câu chuyên dân gian mà chúng tơi thích nghe kể.
C. Bà tơi hay kể chuyện dân gian.
D. Với kết quả học tập ấy đã động viên tôi rất nhiều

3. Chữa lỗi câu thông qua giờ trả bài Tập làm văn.
Thông qua giờ trả bài giáo viên giúp các em phát hiện, nhận diện một số lỗi câu sai ở
một số bài Tập làm văn của các bạn mà cô cho đọc trước lớp. Để từ đó các em cùng cơ
giáo sửa lỗi câu sai.

Ví dụ: Trong 1 tiết trả bài Tập làm văn lớp 8.Tôi đã phát hiện ra ở hai lớp 8A3 và
8A5 các em đều mắc lỗi dùng câu thiếu thành phần nòng cốt.
10


Cụ thể câu văn sau:
C1 : “Đọc bài thơ lên mà em tưởng tượng trước mắt mình.”
C2: “Bài thơ thích nhất là bài Quê hương.”
Sau khi ghi những câu văn mắc lỗi lên bảng giáo viên cho học sinh phát hiện ra lỗi
câu và cho sửa lại thành câu đúng.
C1: Thiếu bộ phận vị ngữ.
C2: Thiếu bộ phận chủ ngữ.
Sửa lại: C1: Đọc bài thơ lên mà em tưởng tượng trước mắt mình bức tranh sinh động về
làng chài ven biển.
C3: Bài thơ em thích nhất là bài Quê hương của Tế Hanh”.
Thông qua việc khảo sát lỗi câu sai của các em, tôi đã đưa ra phương hướng chữa
lỗi câu. Đồng thời bằng các biện pháp chữa lỗi như đã trình bày ở trên, tơi đã giúp các em
củng cố, rèn luyện kỹ năng đặt câu theo những yêu cầu cơ bản; làm cho các em hiểu rõ
được vai trò quan trọng của việc sử dụng câu đúng để các em viết văn cũng như ứng
dụng trong quá trình giao tiếp nhằm đảm bảo thơng tin một cách chính xác nội dung cần
thơng báo.
II.1. Tính mới, tính sáng tạo:
Chương trình ngữ văn Trung học cơ sở được chia làm 3 phân mơn, mỗi phân mơn
lại có những đặc trưng phương pháp riêng. Trong đó phân mơn tiếng Việt góp phần trực
tiếp vào việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngơn ngữ trong giao tiếp. Vì thế để
nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên trực tiếp
giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng Việt, mà
phải kết hợp chữa lỗi câu thơng qua q trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn, tổ chức
cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp
để giúp các em sửa lỗi câu.

II.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng:
Có thể áp dụng được thường xuyên không chỉ cho các tiết dạy tiếng Việt mà còn
dùng cho cả dạy văn bản và Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9 hoặc tổ chức cho các em hái
hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em
sửa lỗi câu.
II.3. Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp:

11


- Nhân dân ta thường nói: Ăn cho nên đọi, nói cho nên lời, rõ ràng nói phải thành
lời, rõ ý thì người khác mới hiểu. Mà muốn nối thành lời , rõ ý thì phải nói cho thành câu.
Nhưng hiện nay, việc dạy học Ngữ văn nói chung phân mơn Tiếng Việt nói riêng trong
các trường phổ thơng đang đối diện với thực trạng rất báo động là có nhiều học sinh khi
nói cũng như khi viết thường mắc các lỗi về câu dẫn đến việc viết, nói câu sai cho nên
khơng đạt được mục đích giao tiếp. Trong khi tồn ngành đang thực hiện chương trình
đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới và đặc biệt
hưởng ứng cuộc vận động 2 không của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thiết nghĩ để
thế hệ học sinh ngày nay có niềm hứng thú khi học mơn Ngữ văn thì ngay từ khi cắp
sách đến trường người giáo viên phải giúp các em u q tiếng mẹ đẻ, tự hào với tiếng
nói của dân tộc.
Mặt khác, trong nhà trường, ngoài việc học sinh được học Ngữ văn thì các em cịn
được học các mơn khác trong đó có mơn ngoại ngữ. Việc học tốt phân môn Tiếng Việt sẽ
giúp cho các em thuận lợi hơn khi học ngoại ngữ để có điều kiện tiếp xúc với nhiều nền
văn minh trên Thế giới.
- Cái bí quyết thú vị nhất của việc dạy học văn cho phép biến các giờ văn học thành
những giờ “sáng mắt sáng lòng ”, đặc biệt giờ học tiếng Việt sẽ là những giờ học hấp
dẫn, sinh động. Chính vì vậy mà người thầy Ngữ văn trong hoạt động của nhà trường là
sự hiện hữu nghệ thuật của nghệ thuật, phương pháp của phương pháp. Khơng có một
nghệ thuật, một phương pháp nào có thể thay cho người thầy thiếu tài năng , thiếu nhiệt

tình và tri thức trong công việc dạy và học văn.

CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Thủy Nguyên, ngày 28 tháng 03 năm 2017
Người viết đơn

12


PHỤ LỤC
Qua thực tế dạy học ở các lớp, bằng việc sửa lỗi câu cho HS ở những tiết học, nhìn
chung các em đã nhận ra được những lỗi cơ bản về câu và đã có ý thức sửa những lỗi mà
mình mắc phải trong quá trình giao tiếp.
1.Miêu tả lỗi:
* Lỗi do thiếu các thành phần nòng cốt của câu
- Câu 1: Hè về, nở đỏ rực cả sân trường
Câu này thiếu bộ phận chủ ngữ
- Câu 2: Những kỷ niệm tuổi học trò
Câu này thiếu bộ phận vị ngữ
- Câu 3: Bằng nỗ lực của bản thân đã trở thành một học sinh giỏi
Trong câu này, người viết nhầm tưởng “Bản thân” đã có thể làm chủ ngữ cho bộ
phận đứng sau đó
* Lỗi do các em sử dụng câu thiếu vế.
- “Tuy Hồng rất chăm học, vâng lời bố mẹ”.
Ở câu trên các em đã dùng thiếu một vế theo cặp quan hệ từ: “Tuy nhưng”.
- “Nếu ngày hơm qua bạn khơng chăm chỉ, chịu khó” Câu này cũng chỉ có vế phụ
mà chưa có vế chính.
* Lỗi do không ý thức rõ về thành phần trạng ngữ và chủ ngữ

- “Qua nhân vật chị Dậu cho ta thấy rõ những đức tính cao đẹp đó”.
Ở câu này người viết đã hoà nhập chủ ngữ với phần phụ trạng ngữ của câu.
* Lỗi do không ý thức rõ về trạng ngữ
- “Những năm về sau, khi đã là một người thành đạt, dày dặn kinh nghiệm”
Ở câu này, người viết hiểu lầm chủ ngữ là “Những năm về sau” còn “Khi đã là ...
kinh nghiệm” là vị ngữ trong khi nó chỉ là phụ
* Lỗi do các em sử dụng câu thiếu phụ ngữ bắt buộc
- “Mọi người đều lắng nghe”. Câu này thiếu phụ ngữ đứng sau của cụm động từ
nên đọc lên ta thấy khó hiểu vì vậy ta phải thêm phụ ngữ cho động từ. VD: Mọi
người đều lắng nghe câu chuyện cổ tích.
* Lỗi do câu sai quan hệ logic
Ở một số bài tập làm văn của mình, các em đã sử dụng câu mà quan hệ chủ - vị
trong câu không hợp lý.
13


VD: “Qua nhân vật Thuý Kiều, ta thấy được bản chất xấu xa, thối nát của chế độ
phong kiến”
Ngoài ra, tuy các em không mắc lỗi sai về ngữ pháp nhưng lại sai về cách suy
nghĩ, thành thử làm cho câu không logic về mặt nội dung.
VD: “Các bạn trong lớp hãy chia thành 2 toán: Một toán gồm tất cả các bạn học
sinh gái và một toán gồm tất cả các bạn học sinh khoẻ”
* Lỗi do thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu. Hoặc do
không ý thức rõ mối quan hệ giữa các vế câu hoặc giữa các câu.
VD: Mắt đăm đăm nhìn ra cửa biển, ta thấy Kiều đã theo cánh buồn thấp thống
mà nghĩ đến cảnh cơ đơn của mình.
Đọc lên người ta có thể hiểu kẻ đăm đăm nhìn ra cửa biển và nghĩ đến cảnh cơ
đơn của mình ở đây là “ta” chứ không phải là Kiều như ý người viết muốn nói. Viết câu
như thế chứng tỏ người viết chưa thể hiện đúng ngữ nghĩa giữa các thành phần câu.
* Các lỗi về liên kết câu.

- Lỗi về liên kết chủ đề: Các câu trong đoạn không cùng chủ đề
- Lỗi về liên kết logic: Các câu trong một đoạn hay trong một văn bản không được
thể hiện bằng các phương tiện liên kết hay bị thể hiện sai lạc.
Qua thực tế tôi thấy các em mắc lỗi về quan hệ hướng nội nhiều hơn so với lỗi về
quan hệ hướng ngoại.

14



×