Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

NHU CẦU GIẢI TRÍ CỦA THANH NIÊN HÀ NỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.59 KB, 45 trang )

NHU CU GII TR CA THANH NIấN H NI HIN NAY
M U
t vn
Từ xa đến nay, lao động luôn là hoạt động cần thiết của
con ngời nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu sinh tồn
của cá nhân và xã hội. Trong quá trình lao động, con ngời luôn
cần có sự đầu t thời gian và công sức để có thể đạt hiệu quả
cao nhất. Sự cố gắng đó đôi khi khiến con ngời rơi vào trạng
thái căng thẳng, mệt mỏi, gây ảnh hởng không tốt đến kết
quả lao động trong thời gian tiếp theo của họ. Chính vì thế,
giải trí đã trở thành nhu cầu của mọi cá nhân, nhóm xã hội
nhằm lấy lại sự thăng bằng sau thời gian lao động cần thiết của
mỗi ngời. Giải trí giúp các thành viên xã hội xoá tan đi cảm giác
mệt mỏi, tái sản xuất sức lao động của họ, khiến cho quá
trình sản xuất, cống hiến của họ không bị gián đoạn. Nói nh
vậy để thấy vai trò của giải trí là rất quan trọng trong đời
sống của mỗi cá nhân xã hội.
Sau hn mi nm i mi, nn kinh t ca nc ta ó cú nhiu bin
chuyn mnh m. Thu nhp bỡnh quõn u ngi tng, mc sng ca cỏc gia
ỡnh c ci thin, nhu cu ca cỏ nhõn cng ngy mt cao hn khụng ch l
nhu cu vt cht, m cũn l nhu cu vn hoỏ tinh thn. Nú ũi hi mt s ỏp
ng tt nht, kp thi nht v cú hiu qu nht.

1


Thanh niên là những ngời chủ tơng lai của xã hội. Xã hội
hiện đại đòi hỏi ở họ khả năng t duy, mong đợi ở họ sự cố
gắng không ngừng để chiếm lĩnh thành công trong học tập
và công việc. Nhu cầu giải trí trong thanh niên là vô cùng lớn,
nhất là thanh niên đô thị nói chung, trong đó có thanh niên Hà


Nội.
Cú th núi thanh niờn H Ni hin nay ang hng ngy hng gi tip cn
vi nhng phng tin thụng tin i chỳng hin i, vi Internet v rt nhiu
loi hỡnh gii trớ m ch mi cỏch õy mt vi nm cũn khỏ him hoi. Tớnh a
dng ca cỏc loi hỡnh gii trớ ó khin cho c hi la chn xu hng gii trớ ca
thanh niờn c m rng hn rt nhiu. Tuy nhiờn, vic s dng cỏc loi hỡnh
ny cng nh s ỏp ng nhu cu gii trớ cho thanh niờn vn cũn nhiu bt cp.
ú l s thng mi hoỏ cỏc loi hỡnh gii trớ cỏc thit ch Nh nc nh sõn
vn ng, rp hỏt ú cng l s du nhp ca nhng bng a ngoi lung cú
ni dung khụng lnh mnh. ú cũn l s xut hin nhng t nn xó hi nỳp
búng cỏc hot ng vui chi gii trớ ca thanh niờn
Nghiờn cu v nhu cu gii trớ ca thanh niờn mt mt cho chỳng ta thy
thanh niờn ngy nay a chung loi hỡnh gii trớ no, t ú cú th a ra nhng
nh hng phự hp i vi h - th h tng lai ca t nc; mt khỏc cho
bit s bin i nhu cu ny trong thi gian qua.
1. i tng, khỏch th v phm vi nghiờn cu:
Khụng gian nghiờn cu: H Ni
Thi gian nghiờn cu: Thỏng 7-10 nm 2006
2. Mc ớch nghiờn cu:

2


Nghiờn cu nhu cu gii trớ trong thi gian nhn ri ca thanh niờn (thụng
qua vic kho sỏt kt qu iu tra trong cỏc nghiờn cu ca cỏc tỏc gi trc ú).
Tỡm hiu nhng nguyờn nhõn dn n thc trng hot ng gii trớ trong
thi gian nhn ri ca thanh niờn trong thi gian hin nay.
3. Nhim v nghiờn cu:
1. Lc thut kt qu iu tra ca cỏc tỏc gi v nhu cu v hot ng gii
trớ ca thanh niờn trong thi gian nhn ri.

2. Phõn tớch cỏc nguyờn nhõn dn n thc trng núi trờn.
3. xut mt s khuyn ngh, gii phỏp nhm giỳp thanh niờn la chn
loi hỡnh gii trớ phự hp.
4. Phng phỏp nghiờn cu:
1. Phng phỏp phõn tớch ti liu: Chỳng tụi tin hnh phân tích các
công trình thực nghiệm, kết quả những đề tài nghiên cứu liên
quan, số liệu thống kê liên quan đến thực trạng và sự biến
đổi nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội phục vụ cho đề tài.
2. Phng phỏp quan sỏt: đợc chúng tôi sử dụng để tìm hiểu
và đánh giá thực trạng và sự biến đổi nhu cầu giải trí của
thanh niên Hà Nội trong thời gian vừa qua.
3. Phng phỏp phng vn sõu: Chúng tôi tiến hành phỏng vấn
sâu 6 đối tợng là đoàn viên thanh niên Hà Nội nhằm tìm hiểu
ý kiến của họ về cách thức giải trí của họ, cũng nh nhận định
của họ về sự biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên trong
thời gian vừa qua.

3


NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU GIẢI TRÍ CỦA THANH
NIÊN
1. Nhu cầu:
Theo từ điển tóm tắt Xã hội học (tiếng Nga) “Nhu cầu là đòi hỏi điều gì
đó cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người,
của nhóm xã hội hoặc toàn xã hội nói chung, là nguồn thôi thúc nội tại của hoạt
động” [ ]
Khái niệm trên cho thấy nhu cầu mang tính sinh học, nhằm đáp ứng
những đòi hỏi của sự phát triển sinh học của con người, song mặt khác nhu cầu

cũng mang tính xã hội thể hiện ở chỗ dù là của riêng cá nhân nhưng nhu cầu chỉ
có thể được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội. Nhu cầu của con người là giống
nhau nhưng ở mỗi thời đại, mỗi xã hội lại đáp ứng chúng theo các cách khác
nhau. Nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ của phong tục tập quán cộng
đồng và bị quy định bởi văn hoá cộng đồng.

4


Có nhiều loại nhu cầu, các loại nhu cầu khác nhau không tồn tại đơn lẻ,
tách rời mà nằm trong mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc tương tác lẫn nhau
trong một chỉnh thể thống nhất. Nhu cầu giải trí là một nhu cầu thiết yếu của con
người nằm trong hệ thống đó.
2. Thời gian rỗi:
K.Marx đã chia thời gian của con người ra làm hai loại: thời gian lao động
và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian dành cho những hoạt
động thuộc lao động sản xuất nhằm đảm bảo sự sống còn cá nhân. Đây còn là
thời gian dành cho việc giải quyết các nhu cầu ăn, mặc, ở. Như vậy, thời gian lao
động tức là khoảng thời gian đáp ứng các nhu cầu sinh tồn của con người.
Ngược lại, thời gian tự do là khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian lao động,
dành cho những hoạt động mà cá nhân có quyền tự quyết định.
Như vậy, tuy chưa sử dụng khái niệm thời gian rỗi, Marx cũng đã từng coi
thời gian tự do là khoảng thời gian dành cho sự thoải mái, cho giải trí và mở ra
một khoảng trời cho những hoạt động tự do và sự phát triển. [ ]
Theo Từ điển tóm tắt Xã hội học (tiếng Nga), thời gian rỗi được coi là
khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là “phần thời gian ngoài lao
động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời gian cho
những hoạt động cần thiết không thể thiếu”. Sự xuất hiện và phát triển khái niệm
thời gian rỗi cũng được từ điển này quan niệm với tư cách là một bộ phận cấu
thành trong cơ cấu của thời gian tự do.

Tóm lại có thể hiểu thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con
người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất cứ
nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện theo sở
thích của chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người. [ ]
5


Chúng ta có nhiều cấp độ thời gian rỗi khác nhau như thời gian rỗi cấp
ngày, thời gian rỗi cấp tuần, thời gian rỗi cấp kì, dịp, thời gian rỗi cấp năm, thời
gian rỗi cấp đời người.
Thời gian rỗi đối với các cấp độ khác nhau cho phép con người thực hiện
những hoạt động giải trí khác nhau. Vì thế khi nghiên cứu về nhu cầu giải trí
không thể không nghiên cứu theo các cấp độ thời gian rỗi này.
3. Giải trí.
Theo từ điển xã hội học “Giải trí là một dạng hoạt động của con người,
đáp ứng những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và
mỹ học” và “giải trí không phải là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu
của đời sống cộng đồng” []
Giải trí không đối lập và tách rời với lao động cũng như lao động, giải trí
là một bộ phận cấu thành của hoạt động sống của con người. Nó là dạng hoạt
động hoàn toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở thích, trong
khuôn khổ hệ thống chuẩn mực xã hội. Nó đồng thời cùng là hoạt động không
vụ lợi, nhằm mục đích giải tỏa sự căng thẳng tinh thần để đạt sự thư giãn, thanh
thản trong tâm hồn, và cao hơn nữa là đạt tới những rung cảm thẩm mỹ của cá
nhân như thưởng thức nghệ thuật , chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo… là hoạt
động giải trí và thời gian rỗi dành cho giải trí được gọi là thời gian rỗi.
4. Nhu cầu giải trí.
Giải trí là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi bức thiết
của cá nhân, nếu thiếu nó thì sự phát triển của cá nhân không thể đầy đủ và toàn
diện. Sau thời gian lao động mệt mỏi và căng thẳng, các hoạt động giải trí trở

nên vô cùng cần thiết cho việc tái sản xuất sức lao động của con người. Nhu cầu
giải trí là động cơ của hoạt động giải trí.
6


Giải trí là hoạt động thẩm mỹ diễn ra trong thời gian nhàn rỗi, mà thời
gian rỗi có những cấp độ khác nhau cho nên hoạt động giải trí cũng được phân
theo những cấp độ tương ứng như giải trí cấp ngày, giải trí cấp tuần, giải trí cấp
năm. Trong xã hội hiện đại, thời gian rỗi có xu hướng gia tăng nên nhu cầu giải
trí cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Đối với Việt Nam, từ tháng 1/1999 nhờ có chế độ làm việc 5 ngày/ tuần,
thời gian rỗi cấp tuần chiếm phần đa số tuyệt đối trong quỹ thời gian rỗi của
công chức nhà nước. Ví dụ với năm 2000, tổng số ngày nghỉ cuối tuần: 106
ngày, các ngày nghỉ khác: 10 ngày, ngoài ra còn nghỉ phép 15 ngày (đối với cán
bộ công nhân viên), nghỉ hè 60 ngày (đối với sinh viên và giáo viên cao đẳng,
đại học) hoặc 90 ngày (đối với học sinh, giáo viên phổ thông). Chính những
khác biệt về quy mô thời gian nhàn rỗi như trên đã dẫn tới những thay đổi trong
cơ cấu hoạt động giải trí của những đối tượng này.
5. Thanh niên Hà Nội:
Khái niệm thanh niên Hà Nội trong chuyên đề này được hiểu là những
người từ 15 - 30 tuổi, đang sinh sống, học tập hoặc làm việc ổn định trong các
ngành dân sự, được phép đăng kí hộ khẩu hoặc được tạm trú dài hạn tại nội
thành Hà Nội. Theo cách hiểu này, thanh niên Hà Nội gồm cả người nơi khác về
Hà Nội sinh sống lâu dài hoặc ngắn hạn (một vài năm, ví dụ như sinh viên). Tuy
nhiên khái niệm thanh niên Hà Nội không bao gồm những thanh niên sống tại
Hà Nội một cách tạm thời hoặc theo thời vụ (ví dụ như thanh niên nông thôn về
tìm việc trong dịp nông nhàn). Những thanh niên đang phục vụ trong các lực
lượng vũ trang cũng không thuộc diện đối tượng nghiên cứu. Về nơi cư trú, tác
giả chỉ xem xét những thanh niên sống trong nội thành Hà Nội, đây được xem là
khu vực có nhiều loại hình hoạt động giải trí hơn.

7


II. NHU CẦU GIẢI TRÍ VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI NHU CẦU GIẢI TRÍ
TRONG THỜI GIAN NHÀN RỖI CỦA THANH NIÊN HÀ NỘI HIỆN
NAY
2.1. Nhu cầu và hoạt động giải trí trong thời gian nhàn rỗi của thanh niên.
Như trên đã nói, giải trí trong thời gian nhàn rỗi đóng vai trò quan trọng
trong việc tái sản xuất sức lao động của con người. Mỗi cá nhân, nhóm xã hội lại
có nhu cầu giải trí ở mức độ khác nhau, do quỹ thời gian rỗi, sở thích của cá
nhân, nhóm… đó quy định. Theo các nhà văn hoá học, thời gian nhàn rỗi được
chia làm nhiều cấp độ, trong đó, 3 cấp độ thường được nhắc đến nhất là thời
gian nhàn rỗi cấp ngày, cấp tuần và cấp năm. Dưới đây chúng ta sẽ cùng xem xét
nhu cầu và hoạt động giải trí của thanh niên Hà Nội theo 3 cấp độ thời gian nhàn
rỗi này.
a. Hoạt động giải trí trong thời gian nhàn rỗi cấp ngày của thanh niên Hà
Nội.
“Giải trí đối với trẻ em là sự lớn lên, là sự vươn tới cuộc sống. Còn đối
với người lớn, đó là sáng tạo, là sự đổi mới cuộc sống” [ ]. Như vậy giải trí
không đơn thuần chỉ là giải toả căng thẳng, lấy lại sự cân bằng cho trí não, mà
giải trí thực sự là sự đổi mới cuộc sống diễn ra đều đặn hàng ngày của con
người, đặc biệt đối với đối tượng thanh niên, lứa tuổi đang có những biến đổi
lớn về tâm - sinh lý, về nhân cách thì giải trí đối với họ càng cần thiết hơn bao
giờ hết.
Tính đến thời điểm năm 2005, các loại hình giải trí giành cho thanh niên
ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn, đặc biệt là thanh niên ở thủ đô Hà
Nội. Bên cạnh các loại hình giải trí cũ còn xuất hiện khá nhiều những loại hình
mới (như chat trên mạng Internet, chơi games, đánh tennis, chơi bowling, hát
8



karaoke, hoc nu chỏo in thoi). Nu nh vo thi k trc i mi nm
1986, cỏc loi hỡnh vui chi gii trớ ch cú c thụng qua cỏc trang bỏo (s
lng u bỏo cng rt hn ch), qua cỏc dp l hi, qua vic gp mt bn bố
thỡ n khong u thp niờn 90 ca th k XX, bỏo chớ, truyn hỡnh, phỏt
thanh ó tr nờn ngy cng ph bin hn, cỏc kờnh truyn hỡnh khụng ngng
cú nhng ci tin ln nhm ỏp ng tt hn nhu cu ca cụng chỳng. Nm 2000,
Internet tr thnh ph bin khi bựng n cỏc im dch v trờn ton quc. n
nay, ti H Ni cng nh cỏc thnh ph ln khỏc nhng tm bin bỏo ca dch
v Internet xut hin mi gúc ph, thm chớ trong nhng ngừ hm. iu ú ó
gúp phn lm phong phỳ hn cỏc hot ng gii trớ trong thi gian nhn ri ca
thanh niờn bi bn thõn thanh niờn l tng lp ht sc nhanh nhy, d thớch ng
vi nhng iu mi l.
Gii trớ cp ngy din ra trong thi gian ri cp ngy, ngha l khong thi
gian cũn li sau khi ó tr i cỏc hao phớ thi gian cho vic lao ng (hoc hc
tp), vic gia ỡnh, vic riờng (v sinh thõn th, chm súc sc p), ng, n
ung, ngh ngi. Di õy l bng cỏc hot ng trong thi gian nhn ri cp
ngy ca thanh niờn H Ni theo nghiờn cu ca tỏc gi Phan Thanh Tỏ.
a. Bảng 1: Hoạt động giải trí trong thời gian rỗi cấp ngày 1.
Hình thức
hoạt động
giải trí
Đọc sách báo
Xem Ti vi
Tiếp bạn
Nghe nhạc

Tỷ lệ và mức độ tham gia
Năm 1996
Năm 2000

Tỷ lệ
Thứ
Tỷ lệ
Thứ tự
57
50
48
-

tự
1
2
3
-

24.40
33.93
14.09
29.37

4
1
5
2

Phan Thanh Tá. Thời gian nhàn rỗi của thanh niên Hà Nội. Luận án Thạc sỹ văn hoá học.
i hc Vn hoỏ. Hà Nội 2000
1

9



Chơi thể thao
26.79
3
Bảng trên cho thấy nếu nh năm 1996 thứ tự u tiên của các
loại hình giải trí là đọc sách báo, sau đó là xem T.V, rồi đến
tiếp bạn bè, thì đến năm 2000, trật tự u tiên đã có nhiều biến
đổi khác biệt: vị trí số 1 thuộc về hình thức nghe nhìn qua
T.V, nghe nhạc chiếm vị trí thứ 2, sau đó là chơi thể thao,
đọc sách báo, và cuối cùng là tiếp bạn. Do số mẫu chọn nghiên
cứu trong hai năm là không đồng nhất nên việc xem xét chỉ
thông qua sự sắp xếp thứ tự loại hình giải trí đợc a thích.
Nh vậy, T.V đã trở thành phơng tiện giải trí khá thông
dụng, thu hút tỷ lệ 33.93% số ngời đợc hỏi. Năm 2000, loại
hình giải trí xem T.V thực tế đã tiếm ngôi đầu bảng của
việc đọc sách báo vốn giữ vị trí số 1 vào năm 1996. Về
nguyên nhân lý giải hiện tợng này, nhiều ý kiến phỏng vấn
sâu cho rằng có thể nói do thanh niên Hà Nội ngày nay hầu
nh có rất ít thời gian vui chơi giải trí, tiếp cận thông tin, song
họ lại có mong muốn đợc liên tục cập nhật thông tin, và T.V
chính là phơng tiện hữu ích đáp ứng nhu cầu đó của họ.
Thêm vào đó, nội dung chơng trình T.V ngày càng trở nên
phong phú đa dạng hơn với nhiều kênh truyền hình đặc sắc
và mang tính chuyên môn hoá cao độ, nh VTV1 chứa những
thông tin tổng hợp, VTV2 có nội dung khoa học và giáo dục,
VTV3 chuyên về văn hoá thể thao giải trí Rất nhiều trò chơi
đã đợc đa lên truyền hình, thu hút đông đảo bạn xem
truyền hình nh trò chơi: Đờng lên đỉnh Olympia, ở nhà
10



chủ nhật... Thời lợng phát sóng tăng lên đáng kể khiến cho
mọi đối tợng trên cả nớc đều có cơ hội đợc tiếp cận với truyền
hình. Theo một ý kiến phỏng vấn sâu: Tôi rất ngại đọc báo,
vì nếu đọc thì mất thời gian, trong khi không phải ngày nào
cũng có thể mua đợc báo để cập nhật thông tin, chính vì thế
tôi chọn xem T.V, vì có thể vừa xem vừa ăn cơm cùng cả nhà,
hơn nữa ngày nào biết thông tin của ngày ấy. Rõ ràng, T.V tỏ
ra có u thế hơn hẳn so với sách báo trong việc cập nhật thông
tin hàng ngày cho thnah niên. Hơn thế, một ý kiến khác cho
biết: Năm 1996 số gia đình có T.V, dù là gia đình đó ở Hà
Nội, cũng ít hơn thời điểm năm 2000, vì thế ngời ta đọc báo
nhiều hơn xem T.V vào năm 1996 là tất nhiên
Nếu nh trong nghiên cứu năm 1996, số liệu về những ngời a thích nghe nhạc còn cha xuất hiện thì đến năm 2000 nó
đã vợt lên xếp vị trí số 2. Giải thích hiện tợng trên có thể thấy
nó có mối quan hệ mật thiết với sự có mặt ngày càng phổ
biến của thị trờng đầu máy CD, VCD, DVD và thị trờng băng
đĩa ca nhạc. Qua quan sát có thể thấy nếu nh vào năm 1996,
số lợng các gia đình sử dụng dàn máy nghe đĩa còn khá hiếm
hoi, thì đến năm 2000, con số đã tăng nhanh đáng kể theo
đà phát triển của nền kinh tế - xã hội, dàn máy nghe đĩa đã
trở thành phơng tiện giải trí khá thông dụng trong hầu hết các
gia đình ở Hà Nội. Băng đĩa nhạc đợc sản xuất ồ ạt, bao gồm
cả nhạc trong nớc và nhạc quốc tế. Nếu nh ở thời điểm năm
1996, việc mua một đĩa VCD ng ý là vô cùng khó khăn, thì
11


đến năm 2000, thị trờng băng đĩa nhạc Trung Quốc có thể

đáp ứng mọi yêu cầu của ngời mua với mức giá khá rẻ (khoảng
9.000đ - 20.000đ/đĩa). Hơn thế nữa, sự có mặt của chơng
trình MTV ca khúc quốc tế phát trên truyền hình cũng góp
phần phổ biến, quảng cáo cho nhạc trẻ quốc tế, làm xuất
hiện và gia tăng nhu cầu giải trí bằng hình thức nghe nhạc
trong tầng lớp thanh niên thủ đô. Các kênh truyền thanh của
đài tiếng nói Việt Nam cũng xuất hiện nhiều chơng trình ca
nhạc hấp dẫn với những ngời dẫn chơng trình thu hút đợc
nhiều cảm tình của thanh niên, nh chơng trình MTV most
wanted, hay chơng trình Ca khúc Việt Nam chọn lọc
cũng là những nhân tố không nhỏ trong việc làm cho nhu cầu
nghe nhạc của thanh niên gia tăng đáng kể trong thời gian
1996 - 2000.
Loại hình giải trí thứ 3 đợc a thích là hoạt động thể
thao. Điều này đợc nhiều bạn trẻ lý giải nguyên nhân chủ yếu
là do thanh niên Hà Nội đã thực sự coi thể thao là một loại
hình giải trí, th giãn, khoảng thời gian từ năm 2000 hầu nh đã
đánh dấu sự hình thành một phong trào tập luyện thể thao
trong thanh niên. Một nguyên nhân khác có thể thấy là họ coi
chơi thể thao là một hình thức tập luyện để có một sức khoẻ
dẻo dai hơn.
Đọc sách báo bị giảm từ vị trí số 1 trong năm 1996 xuống
vị trí thứ 4 trong năm 2000. Điều này có thể đợc lý giải là vào
thời điểm năm 1996 các loại hình giải trí khác còn cha đợc
12


phổ biến so với các loại hình có đợc bằng phơng tiện đọc là
sách báo. Nhng đến năm 2000, u điểm của sách báo đã phải
nhờng chỗ cho các loại hình nghe nhìn. Tính kén độc giả

của sách báo, và hơn nữa để tiếp cận thông tin từ sách báo
cần phải có một lợng thời gian rất lâu dài cũng khiến cho
thanh niên không còn a thích sách báo nh ở thời điểm năm
1996. Việc giá thành của sách báo, tạp chí cao cũng là một
nguyên nhân không nhỏ lý giải cho sự tụt hạng của loại hình
giải trí này so với loại hình giải trí rẻ hơn, lại tiện ích hơn là
các phơng tiện thông tin đại chúng khác. Một ý kiến phỏng
vấn sâu cho biết: Tôi rất muốn có một giá sách đầy đủ các
cuốn sách truyện mà mình thích, nhng hình nh càng ngày
sách càng đắt hơn, tôi không thể mua nổi.
Hình thức giải trí tiếp bạn bè vẫn ổn định ở thứ hạng
cuối cùng trong thang bậc các loại hình giải trí đợc a thích.
Theo nhiều ý kiến phỏng vấn sâu thì thông thờng, thanh niên
chỉ tìm đến bạn bè khi có chuyện không vui, hoặc khi có các
loại hình giải trí tập thể khác (nh sinh nhật, hoặc đi picnic),
và vì lí do này mà các hoạt động tiếp bạn bè không trở thành
thờng xuyên trong thanh niên Hà Nội.
Nh vậy, quan bảng kết quả điều tra về sự biến đổi các
loại hình giải trí của thanh niên Hà Nội trong thời gian nhàn rỗi
1996-2000, có thể thấy rõ ràng xu hớng sử dụng thời gian nhàn
rỗi của thanh niên Hà Nội hiện nay là gắn với những hoạt động
nhằm thu đợc nhiều thông tin trong một khoảng thời gian
13


ng¾n. §iÒu nµy tá ra hoµn toµn phï hîp víi lèi sèng nhanh nh¹y,
hiÖn ®¹i cña thanh niªn khi bíc vµo thÕ ký XXI
Những tổng kết trên đây của tác giả Phan Thanh Tá chỉ cho thấy nhu cầu
và hoạt động giải trí trong thời gian rỗi của thanh niên Hà Nội đến thời điểm
năm 2000. Theo nghiên cứu mới đây của tác giả Đinh Triết, trong thời gian rỗi

cấp ngày, những hình thức giải trí phổ biến nhất của thanh niên Hà Nội là (theo
thứ tự) là xem ti vi, nghe nhạc, chơi các môn thể thao phổ thông hoặc đọc sách
báo. Tỷ lệ thấp hơn một chút là đi chơi với bạn bè. Nhìn chung hoạt động giải trí
được thanh niên Hà Nội ưa thích nhất là “xem ti vi”. Và hai chương trình họ
thường xem nhất là chương trình giải trí và phim. Bên cạnh ti vi là đầu đĩa và
với hàng ngàn cửa hàng bán và cho thuê băng đĩa ở Hà Nội thì nhu cầu xem
băng đĩa của người dân Hà Nội được thỏa mãn một cách dễ dàng2.
Đối với việc nghe nhạc như một loại hình giải trí của thanh niên, những
thể loại âm nhạc càng phổ thông (pop/rock) hoặc càng đơn giản và sôi động
(nhạc trẻ) càng có tỷ lệ thanh niên ưa thích cao 3 vì chúng phù hợp đặc điểm tâm
lý lứa tuổi của họ. Nhạc cổ điển - thể loại âm nhạc bác học - hầu như chưa đạt
được sự quan tâm của thanh niên Hà Nội, bởi nó cần một tri thức âm nhạc tương
đối cao mà mặt bằng dân trí Việt Nam chưa thể có được. Nhạc truyền thống dân
tộc chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong sự ưa thích của thanh niên có lẽ vì tiết
tấu chậm rãi và những ca từ được thả âm nhấn nhá của nó không bắt kịp nhịp
sống nhanh vội, gấp gáp và có phần “đơn giản hóa” của thanh niên hiện nay.
Trong khi đó, nhạc cách mạng được một bộ phận đáng kể thanh niên Hà Nội ưa
thích và thường nghe như những ca khúc giải trí. Điều này gợi ý rằng, mọi lĩnh
2

Đinh Triết 1999 “Chính sách và cơ chế tài chính đối với hoạt động điện ảnh”, Văn hóa nghệ thuật, (2), tr.14
Đoàn Minh Châu (1998), Nâng cao hiểu biết về văn hóa truyền thống để xây dựng bản lĩnh văn hóa cho thanh
niên Hà Nội trong bối cảnh giao lưu - hội nhập quốc tế hiện nay, Báo cáo đề tài NCKH cấp thành phố
3

14


vực của cuộc sống (kể cả lĩnh vực chính trị vốn bị coi là khô cứng), nếu được
“âm nhạc hóa” một cách thích hợp, đều có thể được chuyển tải tới thanh niên

một cách nhẹ nhàng và hữu hiệu.
Các hoạt động thể thao sau giờ làm việc dường như đã trở thành hoạt
động không thể thiếu sau quá trình lao động, học tập của không chỉ thanh niên
mà còn đối với các giai tầng khác trong xã hội. Trong nghiên cứu của mình, tác
giả Đoàn Minh Châu đã nhận thấy đây là hoạt động chiếm vị trí thứ ba trong cơ
cấu các hoạt động giải trí trong thời gian nhàn rỗi của thanh niên Hà Nội hiện
nay.
Hoạt động thứ tư trong thời gian rỗi cấp ngày của thanh niên Hà Nội là
“đọc truyện, sách báo”. Đây là sở thích "cổ điển" của nhiều tầng lớp xã hội, nhất
là thanh niên. Ở đây không đề cập tới nhu cầu đọc với mục đích học tập, nâng
cao kiến thức mà chỉ xem xét nhu cầu đọc giải trí. Xét từ góc độ này, những loại
sách báo mà thanh niên Hà Nội đọc giải trí là truyện Việt Nam, truyện nước
ngoài, báo Tiền phong, Tuổi trẻ, báo An ninh 4. Đối với báo, thanh niên Hà Nội
có xu hướng ưa chuộng những báo phổ thông, những thông tin đời thường cụ
thể, tính giải trí cao, không đòi hỏi phải suy ngẫm, tìm hiểu.
Cho đến thời điểm hiện nay, có thể nhận thấy nhu cầu giải trí của thanh
niên Hà Nội trong thời gian nhàn rỗi cấp ngày không thực sự quá khác biệt so
với thời điểm năm 2000, 2001. Sự khác biệt lớn nhất, có chăng là việc họ có
thêm một dạng thức giải trí mới - truy cập Internet, lướt web. Mạng Internet đã
cung cấp cho thanh niên một phương tiện thông tin mới, nhanh nhạy hơn, cập
nhật hơn và giúp họ có những hiểu biết toàn diện hơn về cuộc sống hiện đại.
Điều đó có nghĩa là, thanh niên Hà Nội hiện nay vẫn ổn định với xu hướng thiên
4

Đoàn Minh Châu (1998), tµi liÖu ®· dÉn

15


v vic tiờu th nhng sn phm nghe nhỡn ti ch v cỏc hot ng th thao.

Nhng hot ng khỏc nh thng thc ngh thut ti cỏc thit ch vn húa (nh
hỏt, rp chiu phim), sỏng to ngh thut khụng chuyờn (cõu lc b s thớch)
ớt c thc hin hn.
b. Hot ng gii trớ trong thi gian nhn ri cp tun ca thanh niờn H
Ni
Mc dự mi ngy con ngi u cú khong thi gian nht nh tỏi sn
xut sc lao ng song cỏc hot ng gii trớ cp ngy l nhng hỡnh thc quen
thuc (m do iu kin thi gian ri cp ngy hn ch khú thay i c), do ú
nú dng nh ó to ra nhng nhm chỏn, gim hiu qu gii trớ. iu ny ũi
hi mt s thay i gõy hng phn thc s cho trớ nóo, giỳp nú sc ún
nhn mt k lm vic di ngy tip theo. ú chớnh l chc nng ca gii trớ cp
tun.
Theo kt qu iu tra ca tỏc gi Phan Thanh Tỏ, hot ng gii trớ ca
thanh niờn trong thi gian nhn ri cp tun cng cú nhng bin i khỏ mnh
m trong thi gian 1996-2000.
b. Bảng 2 : Hoạt động giải trí trong thời gian nhàn rỗi cấp
tuần5.
Hình thức hoạt động
giải trí
Xem phim, ca nhạc
Tham quan, du lịch
Đi chơi với bạn bè
Dạo chơi
Làm những việc a thích
5

Tỷ lệ và thứ tự tham gia
Năm 1996
Năm 2000
Tỷ lệ Thứ tự Tỷ lệ Thứ tự

74
68
61
60
-

1
2
3
4
-

8.13
18.25
47.82
4.76
13.89

5
2
1
6
3

Phan Thanh Tỏ. Ti liu ó dn

16


Chơi thể thao

12.30
4
Bảng 2 cho thấy: Nếu nh vào năm 1996 thứ tự a thích của
các hoạt động giải trí đợc sắp xếp theo : Xem phim, ca nhạc
đứng ở vị trí thứ 1, vị trí thứ 2 thuộc về tham quan, du lịch,
thứ 3 là đi chơi với bạn bè, dạo chơi xếp vị trí thứ 4; thì đến
năm 2000, trật tự a thích đã có nhiều khác biệt, sắp xếp lần
lợt theo: 1/ Đi chơi với bạn bè, 2/ Tham quan, du lịch, 3/ Làm
những việc a thích, 4/ Chơi thể thao, 5/ Xem phim, ca nhạc,
và thứ 6 là dạo chơi.
Cng s dng ngun s liu nờu trờn, tỏc gi inh Th Võn Chi cho bit
trong hai ngy cui tun, thanh niờn H Ni thng gii trớ ngoi tri nh i
chi vi bn bố, dó ngoi, lm nhng vic a thớch hoc chi th thao.
Th nht, i chi vi bn bố thc cht l gii trớ vi nhúm s thớch. õy
l mụi trng xó hi húa rt t nhiờn v hiu qu, thụng qua tng tỏc liờn cỏ
nhõn. Hỡnh thc i chi vi bn bố bao gm nhiu hot ng a dng nh i
ung c phờ, i gii khỏt, n kem, n qu ca cỏc nhúm cú cựng s thớch, c
bit l hc sinh PTTH. Ti cỏc thit ch vn hoỏ nh rp hỏt, cỏc hot ng nh
i xem phim, ca nhc, sõn khu cha thc s c thanh niờn H Ni a thớch.
iu ny cú th lý gii do s bựng n ca cỏc phng tin truyn thụng v u
a t ra phự hp hn vi th hiu v kh nng th hng sn phm vn hoỏ ca
thanh niờn. Tuy nhiờn s liu iu tra ca ngnh in nh gn õy cho thy: s
ngi thớch xem phim khụng h gim, thm chớ s thớch i vi cỏc loi phim cú
thay i theo chiu hng chỳng ta mong i 6. Nhng nhu cu thng thc
ngh thut ti cỏc thit ch vn húa khụng tn ti bit lp m thng an xen vi
6

Phựng Anh Th (1998) My vn ca in nh Vit Nam, n tng v suy ngm, Vn húa ngh thut,
(2), tr 63 - 65.


17


cỏc nhu cu khỏc (giao tip vi bn bố, trng din cỏc trang phc mi). Do
vy nu cỏc rp khụng cựng lỳc tha món nhng nhu cu ú thỡ thanh niờn s
chn a im khỏc (hỡnh thc khỏc) thng thc ngh thut. Bờn cnh xem
phim l thng thc õm nhc (nghe nhc, xem biu din ca nhc, hỏt
karaoke). Trong ú hỏt karaoke v hỏt ti cỏc quỏn c-phờ - nhc khụng n
thun l mt hỡnh thc gii trớ m cũn l mt phng tin th nghim kh nng
õm nhc v t th hin. Ngoi ra hot ng i chi vi bn bố cp tun cũn
th hin qua vic i cõu cỏ gii trớ hay do chi, n vi thiờn nhiờndi
nhng hỡnh thc rt a dng.
Loi hỡnh hot ng gii trớ th hai trong thi gian nhn ri cp tun m
thanh niờn thng tham gia l nhng cuc dó ngoi. Trong dp cui tun, cỏc
chuyn i thng gúi gn trong ngy, ụi khi cng cú nhng chuyn i qua ờm
do gia ỡnh hoc tp th t chc nhng nhiu hn c l do thanh niờn t t
chc. Qua quan sát có thể thấy đa số thanh niên đi du lịch
nhằm giải toả, xả hơi sau một tuần làm việc căng thẳng.
Mục đích đi du lịch của họ khá đơn giản, họ cho rằng đây
là dịp để họ gặp mặt bạn bè. Đi du lịch với họ không nhất
thiết xuất phát từ mong muốn tìm hiểu, khám phá tự nhiên và
văn hoá, nên việc tổ chức cũng tơng đối gọn nhẹ. Đến năm
2000, khả năng đi tham quan, du lịch của thanh niên còn tỏ ra
dễ dàng hơn, do họ có tới 2 ngày nghỉ cuối tuần, thay cho chỉ
có 1 ngày ở thời gian trớc kia.
Hot ng gii trớ th ba m thanh niờn H Ni thng tham gia trong
thi gian ri cp tun l lm nhng vic a thớch: v, lm th, may vỏ, ni tr,
hoc i do siờu th Thanh niên đặc biệt coi đây là một loại
18



hình giải trí thiết thực, giúp họ thể hiện đợc khả năng sáng
tạo của mình mà trong những ngày bận rộn với công việc họ
đã phần nào xao nhãng.
Xem phim đã tụt hạng từ vị trí số 1 năm 1996 xuống vị
trí thứ 5 năm 2000. Lý giải điều này có ý kiến cho rằng đó là
do sự giảm sút chất lợng của các loại hình nghệ thuật đợc
trình chiếu ở rạp hát, rạp chiếu phim, trong khi khán giả trẻ
tuổi ở thủ đô ngày càng trở nên khó tính hơn trong việc thởng thức các loại hình nghệ thuật này. Theo một ý kiến phỏng
vấn sâu: Các rạp chiếu phim nh rạp Dân chủ, trung tâm
chiếu phim Quốc gia giờ đây đa số chiếu các phim của nớc
ngoài nên đôi khi mong muốn đợc thởng thức một bộ phim
trong nớc cũng cảm thấy quá khó khăn. Một ý kiến khác cho
rằng: Bây giờ các chơng trình phát trên T.V theo dõi còn
không xuể, nói gì đến việc đi xem ở rạp?. Hơn nữa, thị
trờng băng đĩa ngày nay cũng đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu
mua đĩa phim, ca nhạc của bạn trẻ, thể loại lại vô cùng phong
phú. Một bạn nói: Đi đến rạp xem phim thà mua đĩa về nhà
xem còn hơn, vừa không phải ra ngoài, vừa không mất tiền
mua vé, mà lại có thể xem đợc nhiều lần. Quả thật, thanh
niên Hà Nội ngày nay tỏ ra a thích việc tiếp cận phim ảnh tại
nhà hơn là tại các địa điểm khác. Một lý do khác là họ có thể
xem phim trực tiếp trên mạng Internet, mà Internet hiện đang
có một sức lôi cuốn lớn đối với các bạn trẻ thủ đô. Hơn thế,
thanh niên Hà Nội hiện nay còn bị cuốn hút bởi các loại hình
19


giải trí khác, nh chơi bowling, hoặc tổ chức các đợt đi thăm
quan tập thể., vì thế họ có thể bỏ quên việc xem phim ở

rạp.
Ngoi ra, trong thi gian ri cp tun, thanh niờn H Ni cũn tham gia
cỏc hot ng th thao thụng thng. So vi cp ngy thi gian v a im
hot ng th thao cp tun khụng cú gỡ khỏc, iu khỏc bit duy nht l vo
cui tun cỏc hot ng ny ớt b hn ch v thi gian v thng ụng ngi
tham gia hn. Hình thức dạo chơi tỏ ra kém hấp dẫn, biểu hiện
qua thứ bậc xếp hạng cuối cùng của nó.
Nh vậy, bảng số liệu về việc sử dụng thời gian rỗi cấp
tuần trong hoạt động vui chơi giải trí đã cho thấy u thế rõ
ràng đã thuộc về các hoạt động tập thể, mà điển hình là
việc đi chơi với bạn bè, đi tham quan, du lịch, nhng hot ng
ngoi tri, n vi thiờn nhiờn. õy l im khỏc bit c bn nu so vi khuụn
mu gii trớ cp ngy. cp tun thanh niờn H Ni th hin rừ hn s nng
ng vn l c tớnh ca tui tr. Gii trớ cp tun dự din ra vi tn sut thp
hn cp ngy nhng li cú xu hng tr thnh khuụn mu ng x, khuụn mu
vn húa ch khụng n thun l khuụn mu gii trớ. Hoạt động cá nhân
khá khiêm tốn và thiên về xu hớng cá nhân chủ động tìm đến
hoạt động giải trí đợc a thích nhiều hơn.
Nhng xu hng bin i nhu cu gii trớ ca thanh niờn H Ni giai on
1996-2000 c trỡnh by trờn õy t ra khụng cú nhiu khỏc bit so vi thi
im t nm 2000 n nay. Cú ngha l trong thi gian nhn ri cp tun thanh
niờn H Ni vn dnh nhiu thi gian gii trớ cho nhng hot ng tp th, vi
nhng hot ng thm thỳ thiờn nhiờn. Nh mt ý kin phng vn sõu cho bit:
20


"Cả tuần đã đi làm rồi không được gặp mặt bạn bè, đến cuối tuần phải tranh thủ
gặp chuyện trò, ăn uống thoải mái để đến tuần sau lại tiếp tục làm việc". Gặp
mặt bạn bè trong các buổi đi chơi, dã ngoại dường như đã trở thành nhu cầu đối
với thanh niên Hà Nội hiện nay.

c. Hoạt động giải trí trong thời gian nhàn rỗi cấp năm của thanh niên Hà Nội
Giải trí cấp năm diễn ra trong thời gian nhàn rỗi cấp năm. Thời gian nhàn
rỗi cấp năm là khoảng thời gian con người được nghỉ ngơi dài ngày sau một năm
lao động, để thay đổi không khí, thoát khỏi những lo toan, những khó khăn
thường ngày. Thời gian rỗi cấp năm đôi khi cũng là thời gian “buộc phải nghỉ”
đối với những người quá say mê làm việc, tách họ khỏi công việc vì lợi ích của
chính họ. Do đó, hầu hết người lao động tập thể đều có thời gian rỗi cấp năm thể
hiện qua kỳ nghỉ hàng năm.
Đối với đối tượng thanh niên, phần đông trong số họ đều có một kỳ nghỉ
hàng năm (nghỉ hè đối với học sinh, sinh viên và nghỉ phép đối với những người
đã đi làm). Chỉ những người làm nghề tự do thì kỳ nghỉ này có thể có hoặc
không. Nhưng dù có kỳ nghỉ cố định hay không thì phần lớn thanh niên Hà Nội
đều thu xếp đi nghỉ đâu đó (đi tham quan, tắm biển) hoặc về quê thăm họ hàng.
Đối với hoạt động này (khác với các hoạt động cấp ngày và tuần) ta thấy có vai
trò tổ chức của các cơ quan tập thể, chứ không chỉ gia đình và nhóm sở thích.
Mỗi năm cơ quan đều có khoản kinh phí tổ chức đi nghỉ tập thể cho nhân viên.
Hoạt động này đã thành “truyền thống” như một tiêu chí đánh giá sự chăm lo
cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân viên7.

7

Đinh Thị Vân Chi, Nhu cầu giải trí của thanh niên, NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2003. Tr. 109

21


Nhìn chung, các hoạt động giải trí cấp năm diễn ra không thực sự sôi nổi
như đối với thời gian nhàn rỗi cấp ngày và cấp tuần. Các hoạt động hầu hết
mang tính tập thể cao, hoạt động cá nhân diễn ra không thực sự phổ biến.
d. Sự biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội theo thời gian

Lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi nhanh nhạy với cái mới, họ năng động và
mang nhiều nhiệt huyết với cuộc sống. Đối với hoạt động giải trí, có thể nói
thanh niên với cá tính sôi nổi của mình thực sự là tầng lớp đi đầu trong việc đưa
những hoạt động giải trí trở thành phổ biến hơn trong đời sống xã hội. Trong
thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều sự đổi thay trong các loại hình
dịch vụ giải trí. Sự có mặt của chúng chính là lý do quan trọng khiến cho nhu
cầu giải trí của thanh niên biến đổi theo. Thêm vào đó, những thành tựu kinh tế xã hội của nước nhà đã khiến cho điều kiện vật chất được cải thiện, tạo tiền đề
quan trọng để thanh niên ngày nay có thể thụ hưởng các hoạt động giải trí mà
trước đây có phần còn xa lạ đối với thế hệ thanh niên đi trước. Tuy nhiên, có thể
nhận thấy thời gian gần đây, những biến đổi loại hình giải trí của thanh niên có
phần chững lại, sự vận động vẫn đang diễn ra, song mức độ và quy mô biến đổi
có phần suy giảm hơn so với khoảng thời gian 1996-2000. Thực tế cho thấy các
dịch vụ giải trí dường như cũng đã đạt tới “ngưỡng”. Như một ý kiến phỏng vấn
sâu cho biết: “Mấy năm gần đây tôi không thấy có loại hình giải trí gì mới mẻ
cả. Chỉ thấy số đầu sách nhiều hơn, Internet phổ biến hơn, games online cũng
phong phú hơn (...) Thời gian trước đây sự biến đổi cách giải trí diễn ra rõ ràng
hơn. Chẳng hạn tôi đọc tin trên mạng thay vì đọc trên báo. Còn bây giờ thì tôi có
nhiều việc trên mạng hơn là chỉ ngồi để đọc tin như trước đây”. Một cách đại
thể, nếu nói theo quan điểm triết học, chúng ta có thể hình dung những biến đổi
nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội thời gian trước năm 2000, 2001 là những
22


bin i v cht, cũn nhng bin i thi gian gn õy ging nh l s bin i
v lng.
Chỳng ta cựng theo dừi kt qu nghiờn cu ca tỏc gi Trn Hong Doón
v nhu cu gii trớ ca sinh viờn H Ni hin nay:

B.3.5. Lựa chọn các hình thức giải trí của sinh viên 8
(Tính theo tỷ lệ % và giá trị trung bình, n=1375)

TT

Các hình thức giải trí

Mức độ lựa chọn (*) Xếp
MĐ1 MĐ2 MĐ3 MĐ4
bậc

1
2
3

Đọc sách, báo
Đi chơi với bạn
Đi quán uống nớc, nói

42,5 16,6
56,4 10,8
39,4 15,3

0
0
7,0

40,9
32,8
45,3

4
5


chuyện
Đi mua sắm
Xem phim (Rạp,TV,băng

4,3 15,2 19,0 61,5 11
64,0 19,2 5,4 11,3 1

6
7
8

đĩa)
Xem các nghệ thuật khác
Chơi thể thao
Xem các chơng trình TV

25,1 43,4 5,0 26,5
28,2 24,9 15,7 31,2
61,2 13,3 6,9 18,6

(*)

5
3
5

4
7
2


khác
9 Chơi các trò chơi điện tử 24,3 14,4 12,7 48,6 10
10 Vào internet để tìm thông 25,4 21,8 13,6 39,2 7
tin
11 Chat trên internet

19,6 23,6 14,7 42,1

9

MĐ1:Thờng xuyên; MĐ2: Đôi khi; MĐ3: ít khi; MĐ4: Không bao giờ

Các số liệu ở bảng 3.5. cho thấy sinh viên lựa chọn điện
ảnh để giải trí là rất cao: 88,6% (cả ba lựa chọn thờng xuyên,
đôi khi và ít khi). Trong đó thờng xuyên là 64,0%. Sinh viên
8

Trần Hoàng Doãn. Nhu cầu điện ảnh của sinh viên ở Hà Nội. Hà Nội. 2005

23


cũng thích sử dụng các loại hình văn hoá nghe nhìn: vô tuyến
truyền hình, trò chơi điện tử, internet... để giải trí. Các lựa
chọn hình thức giải trí với truyền hình của họ là 81,4% (thờng
xuyên, đôi khi và ít khi), xếp thứ 2; lựa chọn với internet là
60,8% ( thờng xuyên đôi khi và ít khi), xếp thứ 7; và lựa chọn
với trò chơi điện tử là 51,4% (thờng xuyên, đôi khi và ít khi),
xếp thứ 10 cho thấy rõ điều đó.

Đối chiếu với kết quả nghiên cứu thời gian 1996-2000 của
tác giả Phan Thanh Tá, chúng ta có thể nhận they nhng bin i
nhu cu gii trớ ca thanh niờn H Ni trong thi gian nhn ri l mt thc t
trong iu kin hin nay. Trong ú cú nhng bin i do thi gian, cú bin i
do iu kin thc t gõy ra, li cú nhng bin i l h qu ca s thay i cỏc
chun mc - giỏ tr xó hi. Nu so vi thi k trc thỡ nhu cu gii trớ ca thanh
niờn H Ni hin nay ó phỏt trin mt cỏch rừ rng v mt s lng. Trc õy
cỏc hỡnh thc gii trớ ch yu ca h cú th c phõn loi nh sau:
Gii trớ cỏ nhõn: ch yu l nghe i, c sỏch bỏo, giao tip vi bn bố.
Thi gian cui cú ti vi xem v cassette nghe nhc.
Gii trớ tp th: Cỏc hot ng th thao, vn ngh, thng thc ngh thut,
thi thong cú du lch dó ngoi.
Hin nay cỏc hỡnh thc gii trớ nờu trờn mi ch l mt b phn nh trong
cỏc kh nng la chn thanh niờn H Ni tha món nhu cu gii trớ ca mỡnh.
Cú rt nhiu hỡnh thc gii trớ mi xut hin v nhn c s tỏn thng ca
thanh niờn:
Gii trớ cỏ nhõn: Thanh niờn H Ni hin nay cú th ngi nh xem cỏc
chng trỡnh ti vi nc ngoi phỏt qua v tinh, qua u k thut s. H cng cú
24


thể chơi điện tử, truy nhập mạng Internet để đọc báo điện tử và chơi trò chơi với
những người không thấy mặt…
Giải trí tập thể: Các tụ điểm giải trí mở ra những hình thức phong phú và
đổi mới theo thời gian: từ cà phê tranh, cà phê nhạc, tới câu cá, đua thuyền, vui
chơi có thưởng…các thiết chế giải trí nhà nước (nhà văn hóa, câu lạc bộ) mở
nhiều lớp năng khiếu, CLB thể thao, CLB văn nghệ…
Bên cạnh đó, do nhu cầu phát triển và do sự mở cửa, giao lưu với bên
ngoài mà nhiều hoạt động giải trí mới đã du nhập vào Việt Nam và trở thành
quen thuộc với thanh niên Hà Nội: tennis, bowling…Thậm chí, điều kiện kinh tế

phát triển cũng làm xuất hiện những hình thức giải trí mà trước đây chưa mấy
người hình dung tới: không ít thanh niên Hà Nội coi “đi dạo siêu thị” trong thời
gian rỗi là một thú giải trí của mình.
Trên thực tế, tất cả những trình bày trên đây đều phản ánh thực trạng cũng
như sự biến đổi nhu cầu và hoạt động giải trí của thanh niên Hà Nội từ năm
1996 đến nay. Cho dù không có các kết quả nghiên cứu cụ thể, chúng ta cũng
không thể phủ nhận một thực tế là, nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội đang
hàng ngày, hàng giờ vận hành và chuyển biến theo những xu hướng hiện đại,
năng động và sáng tạo hơn. Dường như họ đã có ý thức hơn trong việc sử dụng
quỹ thời gian nhàn rỗi có phần còn eo hẹp của mình vào những hoạt động thiết
thực, để một mặt đáp ứng nhu cầu cập nhật thông tin của mình, mặt khác, đáp
ứng nhu cầu giải trí vốn là điều không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của
mỗi thành viên xã hội. Kết quả khảo sát trong phạm vi thời gian nhàn rỗi cấp
ngày và cấp tuần đã cho thấy phần nào khuynh hướng đó. Việc họ tìm đến với
TV, Internet trong thời gian nhàn rỗi cấp ngày, tìm đến với nhóm bạn bè trong
thời gian nhàn rỗi cấp tuần đã cho thấy dường như đối với họ, nhu cầu giải trí cá
25


×