Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.93 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC ANH

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC
TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60. 38. 01. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Điệp

Phản biện 1: PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đình Nhã

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội vào lúc: 10 giờ, ngày 14 tháng
10 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua ngành Kiểm
sát nhân dân đã góp phần bước đầu tạo nên diện mạo mới cho nền tư
pháp quốc gia. Hoạt động thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt
động tư pháp được đổi mới, nâng cao về chất lượng, đã hạn chế được
tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như làm oan người
vô tội, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà hoạt động kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở các giai đoạn tố tụng, trong đó có hoạt động kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự còn
bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm; còn để xảy ra tình trạng trả hồ sơ điều
tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc bắt, tạm giữ sau
đó phải xử lý hành chính, còn có vụ án bị cấp phúc thẩm hủy do vi
phạm trong quá trình điều tra; việc phát hiện những vi phạm trong
hoạt động điều tra của CQĐT chưa thường xuyên, kiên quyết, còn
hiện tượng nể nang, do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của
công tác điều tra.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm về
ma túy vẫn diễn biến phức tạp trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong
cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc, phương thức hoạt
1



động ngày càng tinh vi, có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính
chất nguy hiểm và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Trước
tình hình đó Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo kiên quyết đấu
tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này ra khỏi đời
sống xã hội bằng việc ban hành Luật và nhiều văn bản Pháp luật tạo
thành một hệ thống Pháp luật về phòng chống Ma túy. Trong giai
đoạn tiếp theo, toàn ngành Kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết 49/NQ-TW; đẩy mạnh công tác xây dựng và
hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hoạt động tư pháp; bảo đảm triển
khai và thực hiện có hiệu quả Luật tổ chức VKSND năm 2014 và
BLTTHS năm 2015 nâng cao chất lượng THQCT và KSHĐTP; tăng
cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy.
Trong đó toàn Ngành tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày
26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”;
Kế hoạch số 88/KH-VKSTC ngày 13/9/2012 của VKSND Tối cao về
“Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trong ngành Kiểm sát
nhân dân”. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của VKSND
Tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm”.
Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Kiểm sát hoạt
động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên" làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành luật hình sự,
tố tụng hình sự nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn
2



và góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các HĐTP ở giai
đoạn khởi tố, điều tra các tội phạm ma túy tại VKSND tỉnh Thái
Nguyên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kiểm sát hoạt động trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên
cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn
Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 “Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn khởi tố, điều tra án hình sự”; tác giả Vũ
Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, “Một số hoạt
động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh”. Công
tác THQCT và kiểm sát điều tra án ma túy của TS Dương Thanh
Biểu- Phó viện trưởng VKSND Tối cao (năm 2001). Ngoài ra còn
nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành và nhiều
chuyên đề nghiệp vụ như: “Tổng hợp kinh nghiệm trong công tác
THQCT, KSĐT, KSXX sơ thẩm các vụ án ma túy lớn” của Vụ 2,
VKSND tối cao năm 2004; “VKSND các cấp cần tập trung làm tốt
việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” của TS Trần Công Phàn, đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012.
Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức
năng kiểm sát khởi tố, điều tra của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối
với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động kiểm sát khởi tố, điều
tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự đặc biệt là các tội
phạm về ma túy. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu
trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật trước đây, hiện nay
3



các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy
định mới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực
trong công tác phòng, chống tội phạm ma túy và tiếp tục nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra đối với tội
phạm ma túy của VKSND tỉnh Thái Nguyên
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn khởi tố, điều tra các
tội phạm ma túy.
Khảo sát thực tiễn công tác kiểm sát HĐTP trong giai đoạn
khởi tố, điều tra của VKS trong các tội phạm về ma túy, từ đó thấy
được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để và đề xuất các giải
pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý
luận cơ bản và thực tiễn của công tác kiểm sát hoạt động khởi tố,
điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn việc khảo sát thực
tiễn trong 5 năm, từ ngày 01/12/2012 đến ngày 31/11/2016 trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy; đặc biệt là quan điểm của Đảng về
cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
4



02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài,
luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác
– Lênin và các khoa học chuyên ngành khác, trong đó đặc biệt chú
trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những đóng góp mới của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm,
đối tượng, phạm vi và nội dung của chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp ở giai đoạn khỏi tố, điều tra các tội phạm ma túy của
VKSND; Phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân qua đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác kiểm sát các hoạt động ở giai đoạn khởi tố điều tra các
tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
Ý nghĩa của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về
chức năng kiểm sát hoạt động ở giai đoạn khởi tố, điều tra các tội
phạm ma túy của VKSND. Trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự
so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
2003 với các quy định của BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm
sát khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
danh mục từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm 03 chương.

5



Chương 1: Cơ sở lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động
kiểm sát khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố điều tra các tội phạm về ma túy.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ,
ĐIỀU TRA VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ, ĐIỀU
TRA CÁC TỘI PHẠM MA TÚY
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ,
ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
Luận văn này chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra các tội
phạm về ma túy. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc
điểm của giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự và hoạt động
kiểm sát khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khái niệm: Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể
hiểu: “Là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó,
các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu của
tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố
tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm

chung, cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình
sự đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố
tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm và thời
điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

7


Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động
trong giai đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng
(CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải
quan,...Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh
thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự và VKSND nhiệm vụ giải
quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
Thứ tư, Nhằm tháo gỡ những bất cập trong thực tiễn, BLHS
2015 đã quy định việc tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, đồng thời để đảm bảo việc tạm đình chỉ
đúng luật thì BLTTHS quy định trách nhiệm của VKS phải kiểm sát
chặt chẽ và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ nếu không có đủ căn cứ.
Thứ năm, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền
được sử dụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện

pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung
cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám
nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp
tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố
giác tội phạm v.v...
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự

8


Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai
đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan
khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện
pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan
đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông
qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối
với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với
các cơ quan và tổ chức hữu quan.
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ
hai của quá trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi
các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra
sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều
tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là
các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy
định để chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành

một số hoạt động điều tra.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn
điều tra là mọi biện pháp do BLTTHS quy định, việc áp dụng các biện
pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án và phải đảm bảo
biện pháp được áp dụng thực hiện theo đúng quy định.

9


1.2. KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn
đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan
VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKSND.
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận
và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật”.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về
chức năng kiểm sát các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự như sau: Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến định của
VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của

cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình
khởi tố - điều tra vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố
tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự

10


Quyền công tố là: “Quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trên cơ sở
phát hiện tội phạm, bảo đảm thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định
tội phạm và người phạm tội từ đó quyết định việc truy tố bị can ra
trước Tòa án và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án”.
Thực hành quyền công tố: “Thực hành quyền công tố là
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự.
Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố trong lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt
chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau, song song tồn tại trong
phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố điều tra cho đến
khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố
điều tra vụ án hình sự ở nước ta.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ
quan VKS thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
khởi tố, điều tra vụ án hình sự ngày càng được khẳng định vị trí, vai

trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm,
nhằm mục đích là sự tuân thủ nghiêm minh và thống nhất các quy
định pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong khởi tố điều tra vụ án hình sự.

11


1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỂU TRA VÀ VIỆN
KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.3.1. Khái niệm
Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố, điều tra vụ
án hình sự là mối quan hệ tố tụng hình sự được phát sinh trong quá
trình phát hiện tội phạm, khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố,
điều tra vụ án hình sự là các quy định của BLTTHS và các văn bản
về pháp luật tố tụng hình sự có liên quan.
1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong khởi tố điều tra vụ án hình sự
Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản có
liên quan thì mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều
tra vụ án hình sự được thể hiện dưới hai hình thức: Phối hợp và chế
ước.
1.4. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực
hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các
hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”.
12


Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY
2.1. KIỂM SÁT GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ
2.1.1. Kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm
về ma túy
Hoạt động của VKS trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin
về tội phạm bao gồm những nội dung: Kiểm sát việc tiếp nhận (thụ
lý) thông tin về tội phạm ma túy ở CQĐT và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. VKSND có
nhiệm vụ kiểm sát việc CQĐT đã phát hiện và thụ lý đầy đủ các vi
phạm và tội phạm xảy ra trên địa bàn mình quản lý hay chưa, có
trường hợp nào CQĐT không thụ lý hay không? Lý do không thụ
lý. Trong trường hợp VKS nhận được tố giác và tin báo về tội phạm
nhưng CQĐT chưa nhận được thì VKS chuyển đến cho CQĐT để
tiến hành xác minh.
2.1.2. Kiểm sát quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ
án hình sự
Sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh các thông tin về tội
phạm, CQĐT xác định chính xác có dấu hiệu tội phạm thì khi đó
mới được ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để mở cuộc điều tra,

ngược lại khi xác định không có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong trường
hợp mặc dù xác định có dấu hiệu của tội phạm nhưng có căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS
2015 thì CQĐT phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
13


Thông qua hoạt động kiểm sát việc khởi tố xét thấy quyết định khởi
tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không
có căn cứ thì VKS có quyền ra quyết đinh hủy bỏ các quyết định
nói trên. chức năng kiểm sát việc khởi tố có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, thông qua đó VKS sẽ loại trừ ngay từ đầu các vi phạm pháp
luật của CQĐT và yêu cầu CQĐT sớm có biện pháp khắc phục kịp
thời để hạn chế việc khởi tố tràn lan không có căn cứ rồi sau đó
phải đình chỉ điều tra hoặc không khởi tố vụ án không có căn cứ
dẫn đến bỏ lọt tội phạm
2.2. KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đối với hoạt động điều tra
được quy định khá đầy đủ tại điều 166 BLTTHS 2015, cụ thể: Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ
vụ án…. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố
tụng...Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra… VKS có
quyền yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp tài liệu hoặc tiến hành một
số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải
được điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt người phạm tội, không
làm oan người vô tội;
2.2.1. Kiểm sát khám nghiệm hiện trường
Hoạt động khám nghiệm hiện trường phải đúng quy định
của pháp luật và được thực hiện một cách toàn diện: Hiện trường

sau khi tội phạm đã xảy ra có thể để lại nhiều dấu vết, thậm chí là
có cả vật chứng liên quan đến vụ án, có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc chứng minh người phạm tội, mục đích của hoạt động
khám nghiệm đặt ra là không bỏ qua bất kỳ dấu vết và vật chứng
nào liên quan đến vụ án cho dù dấu vết hay vật chứng đó là nhỏ
14


nhất. Kiểm sát viên khi tham gia kiểm sát hoạt động khám nghiệm
hiện trường cần quan tâm và chú trọng tính toàn diện của hoạt động
khám nghiệm, vì nếu để xảy ra việc khám nghiệm sơ sài, qua loa
với mục đích cho xong việc sẽ dẫn đến những khó khăn cho việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi
phạm tội.
2.2.2 Kiểm sát khởi tố bị can
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong khởi tố bị can, VKS phải kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và
tính hợp pháp quyết định khởi tố bị can của các cơ quan có thẩm
quyền để bảo đảm khởi tố bị can đúng người, đúng tội và đúng pháp
luật. Muốn làm được như vậy đòi hỏi VKS phải thường xuyên bám
sát các hoạt động điều tra của CQĐT để thúc đẩy việc điều tra đồng
thời phát hiện kịp thời các thiếu sót vi phạm trong quyết định khởi
tố bị can từ đó đề ra các yêu cầu khắc phục, bổ sung ngay.
2.2.3. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can
Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can phải bảo đảm được ba
yếu tố, đó là khách quan, trung thực và đúng pháp luật, việc thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can của VKS là rất quan
trọng, góp phần vào việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã
thực hiện hành vi phạm tội một cách chính xác, có căn cứ và đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân.

2.2.4. Kiểm sát hoạt động khám xét
Đối với hoạt động khám xét khẩn cấp, pháp luật tố tụng
hình sự cho phép CQĐT tiến hành khám xét mà không cần có sự
phê chuẩn trước của VKS đối với lệnh khám xét. Bởi vì, trong
nhiều trường hợp đối tượng phạm tội sau khi thực hiện hành vi
15


phạm tội luôn có ý thức muốn tẩu tán, tiêu hủy vật chứng hoặc xóa
các dấu vết của tội phạm... nên để kịp thời ngăn chặn ngay những
việc làm đó của đối tượng phạm tội thì CQĐT phải tiến hành khám
xét khẩn cấp
2.3. KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
2.3.1 Bắt bị can để tạm giam
Khi xác định có tội phạm đã xảy ra trên thực tế, xác định rõ
đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở đó CQĐT quyết
định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khởi tố bị can đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội và xét thấy có đủ căn cứ để áp
dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam thì CQĐT ra lệnh bắt bị can
để tạm giam và chuyển lệnh đó cùng các tài liệu liên quan đến việc
phê chuẩn cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn trước khi thi hành.
2.3.2 Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Trường hợp khẩn cấp có thể được hiểu là trường hợp tội
phạm đang hoặc đã được thực hiện mà CQĐT qua sự theo dõi kiểm
tra, xác minh nguồn tin, thấy cần phải cấp bách ngăn chặn người
phạm tội gây thiệt hại cho Nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, ngăn ngừa người phạm tội chạy trốn hoặc tiêu
hủy nguồn chứng cứ.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp mang tính chất phòng

ngừa tội phạm, phòng ngừa ở đây có nghĩa rộng không chỉ là phòng
ngừa đối tượng phạm tội sẽ gây ra thiệt hại cho Nhà nước hoặc
công dân khi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, mà còn phòng ngừa
đối tượng phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc sẽ bỏ trốn, tiêu hủy

16


chứng cứ của vụ án sau khi thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến gây
khó khăn cho hoạt động điều tra tội phạm.
2.3.3. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ
Tạm giữ được hiểu là biện pháp ngăn chặn do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng với nội dung là hạn chế quyền tự do trong thời
hạn do pháp luật tố tụng hình sự quy định đối với những người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã nhằm bảo đảm cho CQĐT có thời
gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để có cơ sở quyết
định việc khởi tố bị can.
2.3.4. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong
các biện pháp ngăn chặn, chỉ áp dụng đối với người đã bị cơ quan
có thẩm quyền khởi tố bị can. Nhưng không phải tất cả mọi trường
hợp bị khởi tố bị can đều bị áp dụng biện pháp tạm giam, mà việc
áp dụng biện pháp tạm giam phải có căn cứ theo quy định của
BLTTHS. Trong giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp tạm
giam của CQĐT đều chịu sự kiểm sát chặt chẽ của VKS thông qua
quyền phê chuẩn của VKS, (Điều 113, 119 BLTTHS 2015).
2.3.5. Kiểm sát việc thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế về tố
tụng hình sự nhằm hạn chế các quyền thuộc về nhân thân của công

dân trong một thời hạn do pháp luật quy định. Trong quá trình điều
tra vụ án hình sự, căn cứ vào kết quả điều tra, điều kiện và sự ăn
năn hối cải của bị can mà cơ quan ra quyết định áp dụng có quyền
hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khi thấy không cần thiết
nữa. Tuy nhiên, việc hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn đều
17


được VKS kiểm sát chặt chẽ, nhất là những biện pháp ngăn chặn do
VKS phê chuẩn thì muốn hủy bỏ hoặc thay đổi phải được VKS
quyết định như tại khoản 2 điều 125 BLTTHS 2015 quy định: “Đối
với biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn trong giai đoạn điều
tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác
phải do VKS quyết định”.
2.4. KIỂM SÁT ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
CQĐT
Đình chỉ điều tra là biện pháp tố tụng do CQĐT áp dụng ở
giai đoạn điều tra vụ án khi có một trong những căn cứ do pháp luật
tố tụng hình sự quy định. Việc nhà làm luật xây dựng chế định
"đình chỉ điều tra" là thể hiện quan điểm bên cạnh việc phải xử lý
nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, Nhà nước ta luôn có
chính sách khoan hồng nhân đạo đối với người phạm tội, đặc biệt là
không làm oan người vô tội. Nên đình chỉ điều tra vụ án hình sự
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quyền đồng thời cũng là
nghĩa vụ của CQĐT phải ra quyết định đình chỉ khi có căn cứ để
đình chỉ điều tra.

18



Chương 3
THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ ĐIỀU TRA
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. THỰC TRẠNG KIỂM SÁT TỘI PHẠM MA TÚY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên có
ảnh hưởng đến tình hình tội phạm ma túy
Tình hình tội phạm ma tuý vẫn có chiều hướng diễn biến
phức tạp, hoạt động tội phạm mang tính ổ nhóm, đường dây liên
tỉnh bằng các mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tập trung vào các tuyến
Thái Nguyên - Lạng Sơn, Thái Nguyên - Bắc Giang - Quảng Ninh,
Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng…phương thức thủ đoạn ngày
càng tinh vi, sảo quyệt hơn, luôn thay đổi hoạt động không theo quy
luật, đồng thời được tạo vỏ bọc để hoạt động. Ngoài ra các đối
tượng nghiện, nhiễm HIV tham gia vào đường dây mua bán, vận
chuyển, bán lẻ, bán rong trái phép các chất ma tuý ngày càng phức
tạp hơn.
3.1.2. Đặc điểm tình hình tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn tồn tại một số tụ điểm
ma túy phức tạp là nơi các đối tượng nghiện tụ tập thực hiện hành
vi sử dụng, tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy đã gây mất
trật tự trị an trên địa bàn. Như khu vực bến xe khách Thái Nguyên
cũ (Nay bến xe đã được chuyển đến địa điểm khác), bến xe gần khu
vực chợ Đồng Quang và giáp phía sau là khu ký túc xá, chợ sinh
19


viên, khu tập trung nhiều nhà trọ của học sinh, sinh viên trường Đại

học Thái Nguyên; khu vực xóm Cầu Bơm thuộc phường Quan
Triều, TPTN, khu vực cầu Gia Bảy thuộc TPTN, Khu vực nhà ga
tàu hỏa thuộc huyện Phổ Yên. Ngoài các vụ án ma túy do các đối
tượng ngoại tỉnh thực hiện thì thực trạng tình hình tội phạm ma túy
do các đối tượng nghiện cư trú trên địa bàn thực hiện cũng có nhiều
diễn biến phức tạp, chủ yếu tập trung vào 03 loại tội đó là tội Mua
bán trái phép chất ma túy; tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội
Vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội mang tính nhỏ
lẻ song hình thức phạm tội đa dạng và hết sức tinh vi xảo quyệt,
trong đó có cả người nghiện ma túy nhiễm HIVgiai đoạn cuối hoặc
phụ nữ nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi tham gia vào việc mua bán
lẻ ma túy kiếm lời để có tiền sử dụng ma túy, có đối tượng còn tìm
cách tự sát không chịu khai báo đường dây phạm tội gây khó khăn
trong công tác điều, tra tuy tố, xét xử.
3.2. Những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của công tác
THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy của VKSND
tỉnh Thái Nguyên
3.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Thái Nguyên luôn thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành, phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nghiêm minh, đúng pháp luật
các loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy xảy ra trên địa
bàn, không để xảy ra oan sai gây ảnh hưởng đến uy tín các cơ quan
thi hành pháp luật, đã góp phần rất lớn vào cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm, được chính chính quyền địa phương và nhân dân
đồng tình ủng hộ Đối với công tác bắt, tạm giữ, tạm giam và việc
20


phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT được chú trọng thực

hiện đảm bảo đúng quy định của pháp luật vì đây là khâu công tác
liên quan trực tiếp đến quyền tự do cơ bản của công dân.
3.2.2 Những hạn chế
Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong công tác kiểm sát
việc tiếp nhận và giải quyết tố giác và tin báo tội phạm còn có
những mặt hạn chế tồn tại, đó là VKS các cấp còn thụ động trong
công tác nắm, quản lý tin báo tội phạm mà chỉ tập trung chủ yếu
quản lý, nắm tin từ cơ quan Công an, vì vậy chưa nắm bắt được
nhiều các tố giác, tin báo tội phạm về ma túy xảy ra trên địa bàn.
Việc kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKS còn
chưa kịp thời, thiếu chủ động, tích cực, chưa tuân thủ đúng quy
định tại Điều 103 BLTTHS và Thông tư liên tịch số 06.
Một số VKS các cấp không nhận thức rõ vai trò, trách
nhiệm của mình nên trong nhiều trường hợp tham gia kiểm sát hoạt
động khám nghiệm hiện trường còn lúng túng, thụ động, tham gia
cho đủ thành phần chứ không phát hiện các vi phạm của CQĐT
trong quá trình khám nghiệm hiện trường, khám xét nơi ở... hoặc
nếu có phát hiện nhưng lại không đề ra yêu cầu khắc phục kịp thời,
dẫn đến việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn và thiếu tính
khách quan, vụ án phải điều tra, xét xử lại nhiều lần.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong hoạt động
kiểm sát khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy
3.2.3.1 Quy định của pháp luật:
Hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự
mặc dù đã được ban hành khá đầy đủ, nhưng có nhiều vấn đề chưa
được hướng dẫn kịp thời, hoặc tuy có hướng dẫn nhưng lại hướng
21


dẫn đơn ngành, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng không thống

nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ, trong thực tiễn công
tác kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, VKS hầu như chỉ thực hiện
chức năng kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT,
còn quyết định không khởi tố vụ án hình sự BLTTHS 2015 chỉ quy
định quyết định không khởi tố phải gửi cho VKS cùng cấp trong
thời hạn 24 giờ...
3.2.3.2. Thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố, điều tra vụ án
hình sự
Theo quy định về thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố điều tra vụ án hình sự, VKS phải thực hiện chức năng kiểm sát ngay
từ khi thụ lý kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố, nhưng do không bám sát công tác điều tra, xác minh
của cơ quan điều tra, không chủ động trong quá trình giải quyết tin
báo từ đầu nên công tác kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự trở
nên thụ động, phụ thuộc vào kết quả điều tra của CQĐT nên VKS
không kịp thời phát hiện ra các vi phạm pháp luật trong quá trình
điều tra cũng như không chỉ đạo được quá trình điều tra làm cho
hoạt động điều tra sơ sài, qua loa cho xong việc nên vụ án thiếu
chứng cứ, vi phạm pháp luật tố tụng…
2.2.3.3 Công tác tổ chức cán bộ
3.2.3.4. Cơ sở vật chất
3.2.3.5. Công tác phối hợp với CQĐT
3.3. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động
tư pháp trong khởi tố, điều tra các vụ án ma túy
3.3.1. Tăng cường trách nhiệm trong công tác kiểm sát các hoạt
động tư pháp
22


Thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ
giai đoạn kiểm sát tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

đối với các vụ án ma tuý có tính chất phức tạp, phải đảm bảo cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm ma tuý có hiệu quả,
đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân,
không để xảy ra oan sai.
3.3.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Để hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp mang lại hiệu quả
cao, trước hết phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng
bộ, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực hiện, đặc biệt là pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự và thông tư liên tịch số 17
3.3.3. Giải pháp, kiến nghị để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ
Thực hiện tốt công tác kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn của CQĐT: VKS phải nâng cao trách
nhiệm pháp lý của mình trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo đảm
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có căn cứ và đúng pháp luật.
3.3.4. Giải pháp, kiến nghị về tăng cường công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự, việc tăng cường hơn nữa vai
trò quản lý, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp
vụ của Viện trưởng - VKS các cấp là yêu cầu khách quan, xuất phát
từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát là tập trung
dân chủ.

23


×