Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.47 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY HÙNG

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” là công
trình nghiên cứu khoa học. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo
đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Phùng Thế Vắc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


Nguyễn Duy Hùng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH
TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .............................. 7
1.1. Khái niệm, quá trình và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản...................................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở pháp luật của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............... 12
1.3 Định tội danh theo các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản . 26
1.4. Định tội danh trong những trường hợp đặc biệt....................................... 33
Chương 2 ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................... 40
2.1 Thực tiễn định tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành tội
phạm cơ bản .................................................................................................... 40
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo cấu thành tội
phạm tăng nặng. .............................................................................................. 50
2.3. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường
hợp đặc biệt ..................................................................................................... 56
Chương 3 CÁC YÊU CẦU VÀ BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ................................................. 60
3.1. Các yếu tố của định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............. 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

BTP

Bộ tư pháp

CQĐT

Cơ quan điều tra

CTTP

Cấu thành tội phạm

ĐTD

Định tội danh

GS.TS


Giáo sư. Tiến sĩ

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

NQ/TW

Nghị quyết-Trung ương

NQ-HĐTP

Nghị quyết – Hội đồng thẩm phán

Nxb

Nhà xuất bản

LĐCĐTS

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TTLT

Thông tư liên tịch

TS

Tiến sĩ

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016......................... 40
Bảng 2.2: Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của Tòa án nhân dân giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016 ........................... 42
Bảng 2.3. Thống kê tội phạm xâm phạm quyền sở hữu xảy ra tại thành phố
Hà Nội giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016 ................................................ 61


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Thể hiện số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 3,4% so với
tổng số vụ án hình sự trên địa bàn................................................................... 43

Biểu đồ 2.2: Thể hiện số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm
2,6% so với tổng số người phạm tội hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội . 43
Biểu đồ 2.3: Thể hiện số vụ án và số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội có xu hướng tăng dần theo từng năm ...... 44
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong nhóm tội xâm phạm
sở hữu tại thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016 ............. 44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà
thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm
thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh
tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo
định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức
lừa đảo khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã đạt được vẫn
còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường mang
lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp,
nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn. Và
các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những tội phạm xẩy ra khá phổ biến trong
bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay. Tội phạm cấu thành đã gây
nhiều biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, tổ chức cũng
như tài sản của công dân, cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc
xét xử các loại tội phạm này trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót. Vấn đề sai
lầm trong việc xác định tội danh và hình phạt, vấn đề “hình sự hóa” các quan
hệ dân sự, quan hệ kinh tế và “phi hình sự hóa” trong đấu tranh chống tội
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mấy năm gần đây tuy đã giảm đi rõ
rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và vẫn còn thu hút sự quan tâm của
nhiều cấp, nhiều nghành và dư luận xã hội thông qua những buổi tọa đàm, hội
nghị. Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn

quy định của pháp luật về các tội phạm cụ thể trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác dẫn đến việc các cơ
quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, hình
phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng và chống tội phạm. Vướng mắc này đặt ra cho các nhà nghiên
1


cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản chất và
danh giới của các tội phạm cụ thể trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm
làm cơ sở cho nhận thức và áp dụng thống nhất về vấn đề này trong thực tiễn.
Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu pháp luật
để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về các tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản giúp ích cho công tác đấu tranh phòng và chống các tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong tình hình mới, tôi chọn đề tài: “Định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ theo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị - xã hội, đạo
đức và pháp luật.Vì vậy mà hoạt động định tội đã được đề cập trong rất nhiều
công trình nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật hình sự của nước ta,
trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu của PGS.TSKH. Lê Cảm:
“Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh”; Chương I, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc
Gia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2003; “Định tội danh - lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài
tập thực hành”, Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004; “Thay đổi định tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Tạp chí tòa án nhân dân, số 11, 2003; “Định tội
danh và quyết định hình phạt” TS. Dương Tuyết Miên chủ biên, Nxb Công

an Nhân dân, 2014; “Lý luận chung về định tội danh”GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2013; Luận án tiến sĩ Luật học: “Trách nhiệm
hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”, của Nguyễn Ngọc Chí; Trịnh
Quốc Toản: “Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương
pháp định tội danh”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Luật gia Nguyễn Ngọc
Điệp: “Tìm hiểu và bình luận các tội xâm phạm sở hữu trong bộ luật hình sự

2


1999”, Nxb Mũi Cà Mau, 2000… Các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói
riêng còn được làm sáng tỏ trong một số bài viết đăng trên tạp trí chuyên
ngành như: “Định tội danh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
PGS.TS. Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân các số: 3,4,5,8,11; “Yếu tố chức
vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu”, “Một số vấn đề đồng phạm
trong các tội xâm phạm sở hữu”, “Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu”,
“Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu”, của TS.Nguyễn Ngọc
Chí, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số: 11,6,2,8 năm 1997; “Tìm hiểu khái
niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam”,
TSKH. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6,2001… Những bài
nghiên cứu trên đã khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt
động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận định một số
nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với một số
tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999… Tuy vậy, hiện nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội. Những
thành tựu, khó khăn, vướng mắc, bất cập và những bảo đảm định tội danh
đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở phân tích những vấn
đề lý luận về định tội danh, các quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bản Thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016,
luận văn đề xuất các giải pháp định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Thông qua mục đích nghiên cứu, xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề
tài là phân tích, đánh giá những vấn đề như sau:
3


- Phân tích khái niệm: Ý nghĩa, quá trình và cơ sở pháp luật của định
tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích định tôi danh theo các yếu tố cấu thành của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích thực trạng tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016 chỉ ra nguyên nhân của
thực trang đó.
- Phân tích yêu cầu đối với định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn lấy các quan điểm khoa học về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các quy định của pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; thực tiễn định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016
để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và luật tố
tụng hình sự. Các số liệu thực tế phản ánh thực trạng định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được thu thập từ thực tiễn định tôi danh của Tòa án nhân dân
hai cấp Thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách hình
sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm

4


đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân Thành phố Hà
Nội trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biến chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bao
gồm phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp
số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết
của hai cấp tòa án Thành phố Hà Nội.
Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu các quy định của pháp luật
với thực tiễn Thành phố Hà Nội nhằm tìm ra những tồn tại, hạn chế - nguyên
nhân và những giải pháp khắc phục.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu
để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung
và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng luôn là một trong
những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, được thể hiện
trên ba bình diện chủ yếu dưới đây:

a. Về mặt lập pháp, bên cạnh những quy định hiện hành như Bộ luật
hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, thì các quy định về việc định tội danh nói chung và định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng vẫn còn rời rạc, nằm rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999”,
Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của các

5


điều 139,193,194,278,279 và 289 Bộ luật hình sự năm 1999… dẫn đến tình
trạng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong việc giải thích pháp luật.
b- Về mặt thực tiễn chính xuất phát từ thực tiễn định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước nói chung và ở tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội nói riêng đã cho thấy sự yếu kém của một bộ phận cán bộ,
công chức trong việc nhận thức cũng như áp dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật hình sự dẫn đến hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm
chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm gây thiệt hại cho các quyền và tự do của
công dân, làm giảm hiệu quả của công cuộc đấu tranh chống tội phạm.
c- Về mặt lý luận, vấn đề định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
tuy đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau nhưng chưa
có một nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội, vì vậy:
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các khía cạnh pháp lý
về định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng góp phần xây dựng, hoàn thiện lý thuyết
định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự.

- Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là
Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hà Nội.
6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, quá trình và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Nếu như trong tố tụng hình sự, hoạt động định tội danh được hiểu là
việc xác định một tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội, theo đó các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện nhiều hoạt
động tố tụng theo trình tự , thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự thì trong
khao học luật hình sự định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một
trong những nội dung quan trọng của quá trình ấp dụng pháp luật hình sư vào
cuộc sống. Để có nhận thức đúng đắn về hoạt đọng định tội danh ta cần làm
rõ khái niệm định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói riêng.
Theo từ điển luật học (nhà xuất bản Từ điển bách khoa) thì định tội danh

được hiểu là để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội thì phải định tội được theo tội danh mà luật hình sự quy
định. Cơ sở của việc định tội dựa vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Cơ quan điều tra khi đề nghị truy tố, trong bản kết luận điều tra đã phải
sơ bộ một tội danh. Viện kiểm sat khi quyết định truy tố bị can ra trước tòa án
xét xử phải xác định cụ thể tội danh trong bản cáo trạng theo điều luật hình sự
quy định. Sau khi kết thúc thủ tục tố tụng tại phiên tòa và nghị án, Tòa án
(Hội đồng xét xử) quyết định cuối cùng về tội danh (định tội) và hình phạt áp
dụng (lượng hình).
Có quan điểm cho rằng, định tội danh là một quá trình nhận thức lý
luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn
7


áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến
hành bằng cách trên cơ sở chứng cứ , tài liệu thu thập được và các tình tiết
thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự
phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật
hình sự quy định [12, tr 33].
Theo một quan điển khác, định tội danh được hiểu là hoạt đọng thực
tiễn của các cơ quan tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án) và một
số cơ quan khác cố thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một
người có phạm tội hay không , nếu phạm tội thì đó là tội gì , theo điều luật
nào của Bộ luật hình sự hay theo cách nói khác đây là quá trình xác định tên
tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [32, tr.9].
Cũng có những quan điểm cho rằng định tộ danh là việc xác định và
ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi
phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
được quy dịnh trong quy phạm pháp luật hình sự [36, tr 9-10].
Những quan điểm trên đã đề tương đối đầy đủ nội hàm của định tội

danh. Tuy nhiên ở từng quan điểm thì chưa bao gồm hết các nội dung và đôi
chỗ chưa phản ánh được bản chất của định tội danh.
Xuất phát từ bản chất của hoạt động định tội danh, chúng tôi đưa ra
khái niệm sau đây về định tội danh: Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các
cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành trên cơ sở các tài
liệu, chứng cứ thu thập được để xác định có hay không có sự phù hợp giữa
hành vi chiếm đoạt tài sản đã sảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự, làm tiền
đề cho việc quyết định hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
Từ khái niệm này có thể khẳng định mục đích của định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là nhằm đạt được sự thật khách quan – đưa ra sự đánh giá chính
8


xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự , làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa
trách nhiệm hình sự một cách công minh , có căn cứ và đúng pháp luật.
1.1.2. Quá trình định tội danh
Quá trình định tội danh là quá trình xác định sự đồng nhất của các tình
tiết cơ bản điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện với các dấu hiệu cấu thành một tội phạm nào đó được quy định trong
pháp luật hình sự [36, tr 88].
Vậy, quá trình định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm 3
giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, các dấu hiệu chung nhất của hành vi được
xác định hay nói cách khác, xác định loại quan hệ pháp luật. Trong gia đoạn
này, người áp dụng pháp luật giải quyết một vấn đề là trong trường hợp này
có các dấu hiệu phạm tội hay không, hay hành vi đó có được coi là vi phạm
pháp luật khác. Trong trường hợp tìm thấy quan hệ pháp luật hình sự, nghĩa là
trong hành vi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có các dấu
hiệu phạm tội, lúc này quá trình định tội danh chuyển sang giai đoạn thứ hai.

Trong giai đoạn này quá trình xác định các dấu hiệu cùng loại của hành vi
phạm tội, hay nói cách khác, xác định tội phạm trên được nêu trong chương
nào của Bộ luật hình sự (BLHS). Giai đoạn thứ ba của qúa trình định tội danh
là đối chiếu và so sánh các loại dấu hiệu tội phạm. Ví dụ, Điều tra viên sau
khi xác định rằng hành vi phạm tội này có liên quam đến tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Chương XIV BLHS) cần phải làm sáng tỏ đó là tội gì: Tội cướp
tài sản, tội cướp giật tài sản hay tội trộm cắp tài sản … Chính trong giai đoạn
này việc so sánh được tiếp tục trong phạm vi của một điều luật thuộc một
chương cụ thể của BLHS: Cơ cấu thành cơ bản hay cấu thành tội phạm với
các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Quá trình tội danh đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội tất yếu
trải qua ba giai đoạn nói trên . Như vậy, việc so sánh một hành vi với ý nghĩa
là tội phạm được tiến hành ngay trong giai đoạn nói trên. Như vậy, việc so
9


sánh một hành vi với ý nghĩa là tội phạm được tiến hành ngay trong giai đoạn
đầu của tố tụng hình sự. Điều tra viên không thể bị hạn chế bằng một kết luận
chung rằng trường hợp cụ thể đang được xem xét liên quan tới một nhóm các
hành vi tội phạm. Để truy cứu trách nhiệm hình sự một người nào đó cần phải
kết thúc cả quá trình định tội danh. Cần xác định tính có lỗi của một người
nhất định trong việc thực hiện một hành vi phạm tội được quy định trong một
điều luật nào đó của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của BLHS. Nói cách khác,
cần phải tiến hành giai đoạn thứ hai của quá trình định tội danh - tức là xác
định loại hành vi, xác định chương nào trong BLHS đề cặp loại tội phạm đã
được thực hiện. Sau giai đoạn này còn có nhiệm vụ làm sáng tỏ trường hợp
đang được xem xét thuộc loại tội nào và điều luật nào trong tội LĐCĐTS của
BLHS quy định trách nhiệm hình sự về tội phạm đó.
Định tội danh tội LĐCĐTS dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm là một phương pháp khoa học của việc áp dụng các quy phạm của pháp

luật hình sự. Việc sử dụng phương pháp này sẽ cho phép tiến hành đối chiếu
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với định nghĩa của pháp luật
về loại hình vi tương tự không dựa theo các dấu hiệu ngẫu nhiên, mà theo các
dấu hiệu cơ bản và điển hành mà chúng đã được chia thành từng nhóm trong
một hệ thống đã được quy định rất khoa học. Đó chính là định tội danh dựa
theo các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Trong quá trình định tội danh đối với một hành vi nguy hiểm cho xã
hội, việc tìm ra quy phạm pháp luật hình sự để dựa vào đó tiến hành sự đối
chiếu các tình tiết thực tế của hành vi với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm có vị trí quan trọng nhất. quá trình tìm kiếm quy phạm pháp luật trải
qua bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, là sắp xếp theo thứ tự các cứ liệu đã tìm được và
chọn trong số đó ra các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý. Trong số nhiều thông tin
10


về tội phạm đã được thực hiện, người tiến hành nhiệm vụ định tội danh chỉ
cần chọn các thông tin có thể có ý nghĩa cho việc định tội danh. Trong bất kỳ
trường hợp nào, ngay trong giai đoạn đầu tiên của quá trình điều tra, điều tra
viên hướng tới việc lựa chọn và chỉnh lý tất cả các tình tiết thực tế của một
nhóm các dấu hiệu đã có trong bất kỳ một tội phạm nào: mặt khách thể của tội
phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ thể của tội tội phạm và mặt chủ
quan của tội phạm. người tiến hành công việc đó đưa các tình tiết đã thu thập
được vào bốn nhóm nói trên.
Giai đoạn thứ hai, là làm sáng tỏ tất cẩ các cấu trúc, mô hình quy định
của pháp luật có thể phù hợp vơi tài liệu thực tế hiện có.
Giai đoạn thứ ba, là xác định nhóm các cấu thành tội phạm, mà các
nhóm này phù hợp với tình tiết có trong vụ án. Sua khi lập nhóm các cấu
thành tội phạm sẽ chuyển sang giai đoạn thứ bốn – giai đoạn cuối cùng , là

lựa chọn trong nhóm ấy một cấu thành tội phạm nào mà các dấu hiệu của nó
phù hợp với tội phạm đã được thực hiện. bốn giai đoạn này phản ánh một
cách đầy đủ, chính xác và khách quan việc làm của người làm công việc tìm
kiếm quy phạm pháp luật để định tội danh một hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã được thực hiện.
Như vậy, định tội danh tội LĐCĐTS là một dạng của hoạt động áp
dụng pháp luật có ý nghĩa lớn về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật.
định tội danh phải dựa vào tình tiết thực tế của vụ án và các quy định của
pháp luật hình sự. nhưng để đặt tới chân lý khách quan, thì người định tội
danh phải tiến hành theo một trật tự đã trình bày ở trên.
1.1.3. Ý nghĩa định tội danh
Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị xã hội, đạo đức và
pháp luật rất lớn [36,tr.28]

11


Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt nhà nước của nhân dân ta đối với
vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm. định tội danh đúng là một biểu hiện
của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi
đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các
lợi ích của xã hội, của nhà nước và của con người của công dân. Góp phần
đảm bảo công lý và công bằng xã hội.
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là sự thể hiện việc đánh giá
chính trị - xã hội và pháp lý đối với những hành vi nhất định. Định tội danh đúng
sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi không nguy hiểm cho
xã hội, không trái pháp luật hình sự tạo điều kiện tiền đề pháp lý cho việc quyết
định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội [36, tr.29].
Hậu quả của việc định tội danh là rất đa dạng. Nhưng hậu quả cơ bản

nhất trong số đó là việc áp dụng hình phạt hoặc những biện pháp tác động
pháp lý hình sự khác do luật quy định. Định tội sai không chỉ làm cho việc
quyết định hình phạt không đúng, không công bằng mà còn áp dụng không có
căn cứ, không công bằng hoặc không áp dụng một loạt các biện pháp pháp lý
hình sự khác (quyết định hình phạt bổ sung…) áp dụng hoặc không áp dụng
đặc xá, miễn trách nhiệm hình sự, giảm thời gian chấp hành hình phạt không
đúng thời hiệu, án tích… Nếu do sai lầm trong định tội danh và sai lầm đó
làm việc quyết định hình phạt không phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm
cho bị cáo phải gánh chịu hậu quả pháp lý không đang phải gánh chịu thì sai
lầm đó vi phạm một cách thô bạo các lợi ích của người bị kết án.
1.2. Cơ sở pháp luật của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Ý nghĩa của bộ luật hình sự đối với việc định tội danh
Để gải quyết vấn đề định tội danh, bao giờ cũng phải xem xét cơ sở
pháp luật của nó. Cơ sở pháp luật là những dấu hiệu của cấu thành tội phạm
được quy định trong bộ luật hình sự. Theo đó BLHS được coi là cơ sở pháp lý
duy nhất cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho
12


xã hội. Sở dĩ khẳng định như vậy là vì: ở nước ta hiện nay BLHS là nguồn
trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình
sự hiện hành được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và quá trình định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và quyết định hình
phạt nói riêng. Theo điều 49 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp…” và điều 70
quy định: “Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm và sửa
đổi Hiến pháp; làm và sửa đổi luật…”. Tức là bất cứ sự thay đổi, bổ sung làm
rõ các qui định trong pháp luật hình sự đều phải do Quốc hội tiến hành thông qua

hoạt động lập pháp. Để đảm bảo cho việc giải thích pháp luật bằng văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao nhất, thì sự giải thích bắt buộc do Ủy ban thường vụ
Quốc hội tiến hành trên cơ sở ủy quyền của Quốc hội. Các văn bản hướng dẫn,
giải thích BLHS do chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm
sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Bộ tư pháp (BTP), Bộ công an (BCA), ban
hành theo sự chỉ đạo, ủy quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bản chất của việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là so sánh
đối chiếu và kiểm tra để tìm sự giống nhau giữa các dấu hiệu của một hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu
hiệu tương ứng trong định nghĩa về loại tội phạm cụ thể nào đó được quy định
trong pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự chứa những mô hình pháp lý mà
nhờ nó chúng ta xác định được sự trùng lặp của các dấu hiệu của một hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể được coi là cơ sở thực tế của định tội danh. Sự
liệt kê đấy đủ tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội được đánh giá là hành
vi tội phạm đã được quy định trong BLHS và các qui định pháp luật hình sự
khác đã thể hiện nguyên tắc “chỉ người nào phạm tội đã được Luật hình sự
qui định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Khi xây dựng hệ thống các quy
13


phạm pháp luật phần các tội phạm BLHS,trong quá trình tội phạm hóa các
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã tìm xem các dấu hiệu nào đặc trưng cơ bản
nhất, lặp đi lặp lại nhiều lần nhất để điển hình hóa và quy định chúng trong
BLHS với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tương ứng của các cấu thành tội
phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm đặc biệt tăng
nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ và dùng nó làm mô hình pháp lý của việc
định tội danh. Dựa vào mô hình pháp lý đó những người có thẩm quyền tiến
hành trong việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của những hành vi nguy hiển cho xã hội cụ thể tương
ứng được thực hiện trong thực tế khách quan. Làm cơ sở cho việc ra kết luận,

quyết định việc áp dụng các quy phạm pháp luật cho hành vi tương ứng.
1.2.2 Các qui phạm pháp luật hình sự áp dụng khi định tội danh
Kết quả của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rút ra kết
luận rằng hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được giải quyết bao quát qui
phạm nào của BLHS. Việc định tội danh cần phải có viện dẫn đến điều luật cụ
thể của BLHS. BLHS nước ta gồm hai phần là: qui phạm pháp luật phần
chung và qui phạm pháp luật phần các tội phạm.
Trong đó phần chung quy định nhiệm vụ, các nguyên tắc, các chế định
cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Phần các tội phạm nêu mô hình cụ thể của
tội phạm các loại và mức độ trừng phạt đối với mỗi tội phạm. Phần chung và
phần các tội phạm của BLHS có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc áp dụng
phần các tội phạm phải dựa trên các luận điểm chung của BLHS. Quy phạm
pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần các tội phạm có mối liên
hệ chặt chẽ, không thể thiếu của định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc đối chiếu dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu trong mô
hình một loại tội phạm tương ứng, xác định sự giống nhau của một tình huống
14


cụ thể đã xảy ra trong cuộc sống với một trường hợp được nêu trong quy
phạm pháp luật hình sự.
Như vậy, quy phạm pháp luật phần các tội phạm tội lừa đảo chiếm đảo
tài sản nêu mô hình tội phạm một cách cụ thể, chi tiết, nhờ vậy ta xác định
được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trong thực tế là tội
phạm nhưng trong quá trình định tội danh các quy phạm phần chung giúp
chúng ta phát hiện các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể, mặc dù chúng ta
không áp dụng điều luật cụ thể nào của phần chung. Tất cả các quy phạm
pháp luật hình sự được sử dụng khi định tội danh đều được pháp điểm hóa

trong BLHS, bởi vậy khi tiến hành định tội phải dựa vào các điều luật tương
ứng trong BLHS. Nhưng cần đặc biệt lưu ý tới hiệu lực về không gian và thời
gian của điều khảo được viện dẫn. Có như vậy thì việc định tội danh mới đảm
bảo có đủ cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi đó.
Ngoài ra, để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, Bộ luât tố tụng hình sự
(BLTTHS) quy định trình tự, thủ tục và các giai đoạn tố tụng điều này cũng
có nghĩa rằng mọi hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng: CQĐT ở giai
đoạn khởi tố - điều tra. VKSND ở giai đoạn truy tố và TAND ở giai đoạn xét
xử phải tuân theo đúng các quy định của BLTTHS. Trong đó, định tội danh ở
giai đoạn xét xử là một giai đoạn trung tâm và quan trọng để tăng cường pháp
chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong giai đoạn xét xử của tòa án
nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của nhà nước nói chung, góp
phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
1.2.3. Cấu thành tội phạm - mô hình pháp lý của định tội danh
Định nghĩa về tội phạm cụ thể được nêu trong quy phạm pháp luật phần
các tội phạm của BLHS tồn tại như mô hình về tội phạm làm cơ sở pháp lý
15


cho việc định tội danh. Mô hình đó thể hiện dưới dạng một cấu thành tội
phạm cụ thể.Và sự đánh giá tội phạm về phương diện pháp lý của nhà nước
được thể hiện dưới dang cấu thành tội phạm đó. Bởi vậy, cấu thành tội phạm
là mô hình khái quát, trừu tượng mang tính chất khao học gồm những dấu
hiệu chung cơ bản nhất của các tội phạm cùng thuộc một loại. Đó là những
dấu hiệu điển hình và có tính lặp đi lặp lại ở tất cả những hành vi thuộc loại
tội phạm đó.
Cấu thành tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm những dấu hiệu

cần và đủ. Nó gồm những dấu hiệu cần vì nếu thiếu một trong những dấu hiệu
đó thì cấu thành tội phạm không được xác định. Đồng thời nó cũng là những
dấu hiệu cho một cấu thành tội phạm bởi không cần thêm một dấu hiệu nào
nữa cho bất cứ một cấu thành tội phạm nào vì nó đã xác định và có đủ cơ sở
để phân biệt một cấu thành tội phạm cụ thể này với các cấu thành tội phạm
khác. Điều đó không loại từ việc xác định tình tiết thực tế khác nhằm mục
đích cá thể hóa hình phạt, quyết định hình phạt bổ sung.
Cấu thành tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một sự trừu tượng mang
tính khoa học, là một mô hình chung nhất cho tất cả các hành vi nguy hiểm
cho xã hội thuộc cùng loại. Bởi vậy, cấu thành tội phạm không đề cập tới tất
cả dấu hiệu, đặc diểm của tội phạm ấy mà nó chỉ đề cập đến các dấu hiệu điển
hình nhất, lặp đi lặp lại trong các hành vi tội phạm cùng loại đó, nói lên bản
chất của loại tội phạm đó. Đó là những dấu hiệu tối cần thiết cho những hành
vi mà nhà làm luật dự trù cho mô hình tội phạm trong điều luật. Đối với một
vụ án cụ thể việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm là chưa đủ. Để cá
thể hoa hình phạt thì phải nghiên cứu hàng loạt các tình tiết khác. Nhưng
trong một vụ án cụ thể việc xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm sẽ là đủ
cho việc định tội danh đối với một hành vi phạm tội. Do đó, việc làm sáng tỏ
các tình tiết khác sẽ nằm ngoài nôi dung của định tội danh.

16


Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để
truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cần phải hiểu các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm một cách cụ thể chính xác. Từ đó xác định được tất cả các tình
tiết có ý nghĩa pháp lý trong vụ án, xem xét và sử dụng nó trong việc cá thể
hóa hình phạt… Việc quy định một cấu thành tội phạm là bảo đảm quan trọng
cho pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều đó không cản trở việc Tòa án xem

xét tới tất cả các tình tiết liên quan tới vụ án cụ thể. Ngược lại, pháp luật hình
sự đòi hỏi Tòa án phải xem xét vụ án một cách đầy đủ toàn diện tất cả các
tình tiết đảm bảo tính công bằng trong xét xử.
Mặt khác, cấu thành tội phạm là mô hình tội phạm được ghi nhận trong
Luật hình sự, nhưng để định tội tội danh các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
đúng, thì người định tội danh phải biết đánh giá các dấu hiệu trong mô hình
tội phạm trên cơ sở ý thức pháp luật của họ và các tình tiết xảy ra trong thực
tế. Điều đó đòi hỏi người định tội danh phải biết lựa chọn, đánh giá, xác định
được cấu thành tội phạm của hành vi, tình tiết nào có ý nghĩa pháp lý, những
tình tiết cơ bản nào đặt trong thể thống nhất xác định được cấu thành tội phạm
của hành vi. Từ đó mới có thể so sánh, đánh giá, tìm sự phù hợp giữa các tình
tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trong thực tế với cấu
thành tội phạm nêu trong điều luật.
Qua phân tích chúng ta thấy rõ vai trò của cấu thành tội phạm đối với
định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Nhưng nó chỉ thực sự có ý nghĩa
khi người định tội danh hiểu được các dấu hiệu của cấu thành tội phạm một
cách cụ thể và chính xác. Để giúp cho cán bộ pháp luật hiểu rõ về cấu thành
tội phạm cũng như dấu hiệu trong các cấu thành tội phạm. Cách phân loại có
ý nghĩa khoa học nhất giúp cán bộ pháp luật hiểu rõ nội dung pháp luật, chú ý
đến các đặc điểm cơ cấu pháp luật trong BLHS là cách phân chia theo phương
diện riêng của hành vi phạm tội, nó được phân thành 4 nhóm: Nhóm dấu hiệu
17


nói về khách thể của tội phạm, nhóm dấu hiệu nói về khác quan, nhóm dấu
hiệu nói về chủ thể và nhóm nói về chủ quan của tội phạm. Đây là cách phân
chia phù hợp với tình tiết trong thực tế và một thể thống nhất nó tạo ra một
cấu thành tội phạm cụ thể. Sự phân chia này bao trùm tất cả các cấu thành tội
phạm, nhưng trong mỗi loại dấu hiệu ở các cấu thành tội phạm cụ thể khác
nhau lại mang một nội dung khác nhau. Có những loại nội dung giống nhau,

nhưng đặt chúng trong một thể thống nhất trong một cấu thành tội phạm thì
chúng lại tạo ra những cấu thành tội phạm khác nhau.
Vì định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quá trình so sánh tìm
ra sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội đã được thực hiện trong
thực tế với các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm quy định trong BLHS. Do
đó chúng ta có thể coi định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là xác định
cấu thành tội phạm trong một hành vi nguy hiển cho xã hội. Qua khái niệm
định tội danh, ta hiểu rằng quá trình định tôi danh với một hành vi nguy hiểm
cho xã hội phải được tiến hành trên cơ sở các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
đã xảy ra và dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng đã được phân
tích đánh giá. Điều quan trọng trong quá trình định tội danh là việc xác định
cơ sở pháp lý cho việc định tội danh.Tức là xác định dấu hiệu trong cấu thành
tội phạm. Điều đó thể hiện ở chỗ chỉ có pháp luật hình sự mới quy định dấu
hiệu nào của một tội phạm thuộc loại tội này hay loại tội khác là cơ bản, điển
hình, đặc trung và cần thiết. Hay nói cách khác, chỉ nhà làm luật mới có
quyền quy định trong quy định pháp luật hình sự mô hình tội phạm, cơ cấu
của cấu thành tội phạm. Quy phạm phần các tội phạm là nguồn chủ yếu chứa
đựng đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Chính các quy phạm pháp
luật phần các tội phạm đề cập đến tất cả các hành vi bị trừng phạt bằng pháp
luật hình sự là tội phạm. Mỗi luật trong phần các tội phạm đều xác định tên
của hành vi, đồng thời cũng thể hiện bản chất của tội phạm thuộc một loại cụ
thể. Đồng thời, khi xây dựng các tình tiết trong cấu thành tội phạm, nhà làm luật
18


cũng xem xét tới các tình tiết đã nêu trong các quy pham pháp luật phần chung.
Vì vậy, khi áp dụng quy phạm pháp luật hình sự cúng ta phải xem xét cả quy
phạm phần chung. Tóm lại, khi xác định các dấu hiệu của một cấu thành tội
phạm cụ thể cần phải xem xét toàn bộ hệ thống pháp luật hình sự, tên gọi của các
chương trong BLHS, các quy phạm pháp luật trong phần các tội phạm, các quy

phạm pháp luật trong phần chung , thực tiễn xét xử, các định nghĩa khoa học về
các loại tội phạm và các bình luận về pháp luật hình sự. Tức là quá trình phát
hiện và làm sáng tỏ cấu thành tội phạm được tiến hành trong phạm vi pháp luật
hiện hành. Việc làm sáng tỏ cấu thành tội phạm là một đảm bảo quan trọng đối
với định tội danh chính xác. Và định tội danh là việc đối chiếu, so sánh một hiện
tượng xảy ra trong thực tiễn khách quan sinh động với một cấu thành tội phạm,
với những dấu hiệu đặc trưng cơ bản nói lên bản chất của loại tội phạm tương
ứng. Điều đó đòi hỏi người cán bộ pháp luật phải có ý thức pháp luật, có sự đánh
giá chủ quan chính xác, đầy đủ và thống nhất.
Trong luật hình sự, do tính chất đa dạng của tội phạm, có thể có nhiều
cấu thành tội phạm khác nhau cho một loại tội phạm. Trước hết nhà làm luật
xây dựng cho mỗi loại tội phạm một cấu thành tội phạm cơ bản và những dấu
hiệu bổ sung phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của một loại tội phạm.
Ba dạng cấu thành tội phạm này là một loại tội phạm được quy định trong
một điều luật. Như vậy, đối với mỗi loại tội phạm có thể có ba dạng cấu thành
tội phạm phản ánh ba trường hợp tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội
khác nhau một các cơ bản.
Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định
tội. Cấu thành này bao gồm: Những dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép
phân biệt tội này với tội khác. Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội
phạm ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu định khung tăng nặng, tức
dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một
cách đáng kể (đa số đó là khoản 2,3,4 của các điều luật ở phần các tội phạm
19


×