Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tội giao cấu với trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ÁNH NGỌC

TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

HÀ NỘI, 2017


MỤC LỤC
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIAO CẤU

VỚI TRẺ EM....................................................................................................................... 6
1.1. Lý luận về tội giao cấu với trẻ em............................................................................ 6
Việt Nam ........................................................................................................................... 12
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giao cấu với trẻ em .................... 14
1.3. Tội giao cấu với trẻ em trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới…….38
Chương 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI .................................................................................................................... 44


2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng đến tình hình tội
phạm tội giao cấu với trẻ em ............................................................................................. 44
2.2. Khái quát tình hình tội giao cấu với trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
năm 2012 đến năm 2016 ................................................................................................... 45
2.3. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với Tội giao cấu với trẻ em . 48
2.4. Nguyên nhân của những sai lầm trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt
Nam về tội giao cấu với trẻ em ......................................................................................... 61
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM ................................................. 66
3.1. Tiếp tục hình sự hóa, tội phạm hóa đối với hành vi giao cấu với trẻ
em……………………………………………………….…………………………66
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự 2015 về tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi...... 67
3.3. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
giao cấu với trẻ em............................................................................................................. 70
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em ngày càng được quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của
Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 đã ghi nhận “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
đã đề ra yêu cầu:“... Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của
thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em...”. Ngày 05-11-2012, Bộ Chính trị

ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, trong đó xác định: “Xây
dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và
các công ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết
hoặc tham gia...”. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ thống pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi xâm hại đến sự phát
triển của các em.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi Việt Nam thực hiện chính sách mở
cửa, hội nhập, trên phạm vi toàn quốc, các tội phạm xâm hại trẻ em ở nước ta diễn
biến rất phức tạp và luôn có chiều hướng gia tăng trong đó có tội giao cấu với trẻ em.
Điều này đã gây bức xúc, nhức nhối trong dư luận và để lại nhiều hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng chống đối với tội phạm giao
cấu với trẻ em trên địa bàn toàn quốc nói chung cũng như trên địa bàn thành phố Hà
Nội nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, tồn tại một số hạn chế, thiếu sót. Qua
tổng kết 14 năm thi hành Bộ luật Hình sự cho thấy những hạn chế, vướng mắc này
xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có bất cập trong quy định của Bộ luật Hình
sự. Thực tế chỉ ra rằng, một số dấu hiệu cấu thành của tội giao cấu với trẻ em, cũng
như các tình tiết định khung tăng nặng so với thực tiễn hành vi phạm tội này còn chưa
1


phù hợp, điều đó dẫn đến việc xử lý tội phạm này chưa thực sự hiệu quả và chưa đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Do đó, đặt ra một yêu cầu cần phải nghiên cứu về tình hình loại tội phạm này
trên địa bàn thành phố Hà Nội để có những đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định
của Bộ luật Hình sự về tội phạm này, đặc biệt trong bối cảnh Bộ luật Hình sự năm
2015 vừa được thông qua còn cần nhiều góp ý hoàn thiện. Từ những phân tích trên,
người nghiên cứu đã lựa chọn “Tội giao cấu với trẻ em theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là đề tài luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói chung và “Tội giao cấu với trẻ em”
là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học đã được công bố ở những
mức độ khác nhau, từ những khía cạnh và phương diện khác nhau... Cụ thể:
-

Về các công trình là Giáo trình, tài liệu giảng dạy ở các cơ sở đào

tạo Luật học có liên quan đến tội phạm này:
+ Giáo trình Luật hình sự của Trường ĐH Luật Hà Nội do GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên), NXB Công an nhân dân năm 2010;
+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Phần các tội phạm của Học viện Khoa
học xã hội do PGS. TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm
2014;
-

Về các công trình là Sách chuyên khảo có:

+ Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999 (Tập I), Các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của tác giả
Đinh Văn Quế, NXB Tư pháp năm 2006;
+ Sách 500 bài tập Định tội danh của GS. TSKH Lê Cảm và TS. GVC Trịnh
Quốc Toản, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia năm 2012.
-

Các công trình là Luận án, Luận văn có:

+ Trần Thùy Chi (2011), Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật
Hình sự hiện hành, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.


2


+ Nguyễn Minh Hương (2014), Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong
luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số bài báo, bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án của Tòa án
nhân dân Tối cao, Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, cũng như
một số bài tham luận trong các diễn đàn khoa học trình bày về nhóm tội xâm phạm
tình dục trẻ em, các bài viết đăng trên Tạp chí Luật học của trường Đại học Luật Hà
Nội, tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp…
Rõ ràng, xâm phạm tình dục trẻ em là một vấn đề rất được quan tâm, bằng
chứng là có nhiều các công trình nghiên cứu tổng quát cũng như chi tiết các nội
dung liên quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào về tội giao cấu với trẻ em từ
chính hoạt động thực tiễn địa phương tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng
và chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tế; đặc biệt từ sau khi BLHS năm
2015 được thông qua, những điểm mới về tội phạm này so với BLHS năm 1999 vẫn
chưa được phân tích làm rõ. Chính những vấn đề này dẫn đến sự khó khăn khi
nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ tội giao cấu với trẻ em trong BLHS

cũng như thực tiễn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Trên cơ sở đó,
tác giả đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm này.
-


Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cần phải tập trung các nhiệm vụ

sau:
+ Phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội giao
cấu với trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam, phân tích các quy định về hình phạt
đối với tội giao cấu với trẻ em.

3


+ Phân tích, tìm hiểu đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của bộ luật
hình sự về tội giao cấu với trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó rút ra
những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn.
+ Từ sự phân tích, tìm hiểu đánh giá thực tiễn áp dụng, có những đề xuất,
kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật Hình sự Việt Nam về tội giao cấu với trẻ
em.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp hình sự Việt Nam

về tội giao cấu với trẻ em, thực tiễn áp dụng các quy địn của BLHS Việt Nam trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
-

Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu dưới gốc độ khoa học luật hình sự, các số liệu nghiên cứu


được dùng trong luận văn là các số liệu thống kê được thu thập tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội giai đoạn 2012- 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
-

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng.
-

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương

pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp chứng minh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp... để
giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu Tội giao cấu với trẻ em, tuy không phải là một vấn đề mới,
nhưng đặt trong bối cảnh hiện nay, khi Hiến pháp 2013 đã đi vào đời sống, BLHS
năm 2015 đã được Quốc hội thông qua, thì vấn đề này cần được nghiên cứu một
cách chi tiết, cụ thể. Luận văn được thực hiện, với mong muốn của tác giả, sẽ:
- Phân tích và bàn luận những quy định của pháp luật hiện hành về tội giao
cấu với trẻ em, những quan điểm còn chưa thống nhất nội dung các quy định này.

4


- Là luận văn đầu tiên nghiên cứu về tội giao cấu với trẻ em trẻ em trong
BLHS năm 2015.
Về thực tiễn, tác giả hi vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho việc
xây dựng và áp dụng pháp luật, cho việc đào tạo và nghiên cứu...

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành ba chương, bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giao cấu với trẻ em
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội giao cấu với trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội giao cấu với trẻ em

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM
1.1.

Lý luận về tội giao cấu với trẻ em

1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em – những chủ nhân tương lai của đất nước là một trong nhóm đối
tượng đặc biệt được quan tâm trong xã hội. Với hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam, việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được coi là
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất
nước. Là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới tham gia
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam đã thể hiện sự
chăm sóc đặc biệt tới thế hệ tương lại này.
Vậy trẻ em được hiểu như thế nào? Hiện nay trong thực tiễn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau về khái niệm trẻ em. Trong khoa học, trẻ em được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, như

trong triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển
của xã hội. Con người tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội.
Trong mọi thời đại, tương lai của một quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.Từ góc độ xã hội học, trẻ em được xác định là
người có vị thế và vai trò xã hội khác với người lớn vì trẻ em là giai đoạn con người
đang học cách tiếp nhận những chuẩn mực xã hội và đóng vai trò xã hội của mình
[42, tr.556]. Dưới góc độ tâm lý học, khái niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý – nhân cách con người [4, tr.367]. Từ góc độ sinh học,
trẻ em là con người ở giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước đến tuổi
trưởng thành [38, tr.61].
Còn dưới góc độ pháp lý, trẻ em được xác định theo “độ tuổi”, theo đó một
cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào năm sinh của người
đó tại thời điểm xác định. Trong pháp luật quốc tế, độ tuổi trẻ em được quy định cụ
thể và tương đối thống nhất. Theo Điều 1 của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em
năm 1989 “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với
6


trẻ em có độ tuổi thành niên sớm hơn” hay tại Điều 2 Công ước số 182 của Tổ chức
Lao động quốc tế ban hành năm 1999 cũng quy định“Trong Công ước này, thuật
ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi”. Như vậy, có thể hiểu
rằng mọi người ở độ tuổi từ khi mới sinh ra cho đến khi đủ 18 tuổi thì đều được coi
là ở độ tuổi trẻ em, tuy nhiên quy định về độ tuổi của “trẻ em” theo công ước này là
quy định mở, theo đó việc áp dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác
nhau, tùy thuộc vào nội luật của mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn.
Tại Việt Nam, pháp luật quy định về độ tuổi trẻ em chính thức được đề cập
tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016, theo đó“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy
trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được xã hội, pháp
luật bảo vệ chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Tại dự thảo khi xây dựng
Luật trẻ em năm 2016 đều quy định độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Quy định

này phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 cũng như một số
Điều ước quốc tế khác mà Việt Nam tham gia, tuy nhiên đến dự thảo cuối cùng
trình Quốc hội, độ tuổi trẻ em lại quay trở về dưới 16 tuổi. Việc xác định trẻ em là
người dưới 16 tuổi của pháp luật Việt Nam như trên là hoàn toàn phù hợp với các
điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán truyền thống và các đặc điểm của thể
lực, trí lực của con người Việt Nam.
Ngoài ra còn các luật khác bao gồm: Bộ luật dân sự (2015), Bộ luật hình sự
(1999), Luật quốc tịch (2000), Luật hôn nhân và gia đình (2014)... của nước ta đều
có các quy định liên quan đến việc xác định đối tượng trẻ em, xuất phát từ đặc thù
của từng ngành luật và căn cứ vào quyền lợi và nghĩa vụ tốt nhất cho trẻ em; cụ thể,
tại Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi” và “có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tài sản
và nhân thân của mình”; Điều 19 Bộ luật lao động quy định “Người lao động chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi”; Luật Thanh niên quy định thanh niên là người từ
16 đến 30 tuổi, còn dưới độ tuổi này thì được gọi là thiếu niên và nhi đồng – trong
đó bao gồm cả trẻ em. Còn theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”(khoản
1 Điều 12 BLHS năm 1999), và “người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
7


trách nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng” (khoản 2 Điều 12 BLHS năm 1999); Luật Quốc tịch, Luật Hôn nhân
và gia đình cũng có những quy định lứa tuổi được coi là trẻ em phù hợp với góc độ
tiếp cận của ngành luật đó... Điểm thống nhất chung của các ngành luật đều coi trẻ
em là người dưới 16 tuổi theo quy định của Luật trẻ em, và được tính từ khi sinh ra
cho đến khi đủ 16 tuổi tại thời điểm xác định.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam khái niệm trẻ em không được định nghĩa
một cách cụ thể mà mô tả ngay trong điều luật về tuổi của trẻ em, ví dụ như Tội
hiếp dâm trẻ em quy định “Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi thì bị phạt từ từ bảy năm đến mười lăm năm” (khoản 1 Điều 112 BLHS năm
1999) và “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm
trẻ em...” (khoản 4 Điều 112 BLHS năm 1999); Tội cưỡng dâm trẻ em quy định
“Người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi dến 16 tuổi thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười năm” (khoản 1 Điều 114 BLHS năm 1999); Tội giao cấu với trẻ em quy
định “Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm” (khoản 1 Điều 115 BLHS năm 1999).
Căn cứ các quy định trên, có thể hiểu luật hình sự quy định: Trẻ em là bao gồm tất
cả những người dưới 16 tuổi, và ở từng điều luật cụ thể thì nhà làm luật quy định
mốc độ tuổi là dưới 13 tuổi hay từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và đều dùng chung
thuật ngữ là trẻ em.
Bên cạnh khái niệm trẻ em, pháp luật Việt Nam còn sử dụng khái niệm
“Người chưa thành niên”. Điều 18 Bộ luật dân sự 2005 nêu định nghĩa về người
chưa thành niên: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Theo
đó, Bộ luật Dân sự cũng quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành
niên từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi [35, Điều 20] và người chưa đủ mười sáu
tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự [35, Điều 21]. Bộ luật hình sự trên
cơ sở cách hiểu đồng nhất với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái
niệm thế nào là người chưa thành niên, nhưng quy định về trách nhiệm đối với
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi
8


trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm [33, Điều 12]. Như vậy trong pháp luật
Việt Nam, để xác định một người là trẻ em hay là người chưa thành niên đều dựa
vào độ tuổi được xác định của người đó, theo đó độ tuổi của người chưa thành niên
là dưới 18 tuổi, còn trẻ em là dưới 16 tuổi. Có thể thấy, khái niệm trẻ em và khái
niệm người chưa thành niên có sự giao thoa, trong đó khái niệm “người chưa thành
niên” rộng hơn khái niệm “trẻ em”.

Từ phân tích các quy định trên, có thể rút ra khái niệm trẻ em như sau: “Trẻ
em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển của con người từ lúc sinh ra cho
đến trước giai đoạn trưởng thành (thường dưới 16 tuổi), có thể chất chưa đầy đủ
cần được bảo vệ, chăm, sóc, giáo dục để phát triển”.
1.1.2. Khái niệm về tội giao cấu với trẻ em
Để có thể đưa ra được khái niệm về Tội giao cấu với trẻ em, trước hết, cần
hiểu thế nào là hành vi giao cấu với trẻ em. Dưới góc độ khai thác nguyên nghĩa của
cụm từ “giao cấu” thì có một số định nghĩa khác nhau được phổ biến trong các sách
từ điển hiện nay của nước ta như sau: Theo Từ điển tiếng Việt thì: “Giao cấu là giao
tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái ở
động vật để thụ tinh”. Tác giả Lê Văn Đức, giao hợp là giao cấu và giao cấu là ăn
nằm, đi lại, lấy nhau giữa một nam một nữ hay một đực một cái. Tác giả Đào Duy
Anh, giao cấu là từ Hán Việt, là âm và dương giao hợp với nhau tức là trai gái làm
tình giao với nhau (ralations sexuelles). Tác giả Nguyễn Kim Thản định nghĩa giao
cấu là sự giao nhau giữa bộ phận sinh dục ngoài của giống đực và của giống cái (ở
động vật). Giao hợp là giao cấu (chỉ nói về người). Từ điển Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia định nghĩa giao hợp hay giao cấu, thường chỉ hành vi đưa bộ phận sinh
dục nam/đực vào bộ phận sinh dục nữ/cái. Giao cấu hay quan hệ tình dục được chia
làm hai loại: Quan hệ tình dục thâm nhập và quan hệ tình dục không thâm nhập.
Quan hệ tình dục thâm nhập là quan hệ tình dục qua đường âm đạo, qua đường
miệng, qua đường hậu môn. Còn quan hệ tình dục không thâm nhập là hình thức
quan hệ tình dục đồng giới hoặc lưỡng tính, hay thực hiện hành vi quan hệ tình dục
được thực hiện bằng tay, hay việc thủ dâm lẫn nhau hoặc sử dụng “sex toys” (đồ
chơi tình dục: với những công cụ, thiết bị, đồ vật được sản xuất có kết cấu giống bộ
9


phận sinh dục nam hoặc nữ nhằm kích thích khoái cảm về tình dục), thuốc kích
dục… hình thức này được hiểu là các “hành vi quan hệ tình dục khác”.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “giao cấu” từ trước đến nay mới chỉ được

quy định trong một văn bản pháp luật duy nhất đó là Bản tổng kết và hướng dẫn
đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày
15/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao như sau: “Giao cấu là sự cọ sát trực tiếp
dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với
ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể
có xuất tinh hay không…”.
Thông qua các định nghĩa trên về giao cấu cho thấy các quan điểm đều thống
nhất cho rằng giao cấu là sự cọ sát trực tiếp giữa dương vật và bộ phận sinh dục nữ
hoặc đưa dương vật nam vào bộ phận sinh dục người phụ nữ (quan hệ tình dục thâm
nhập) mà không thừa nhận các hành vi quan hệ tình dục khác (quan hệ tình dục
không thâm nhập). Tức là gián tiếp thừa nhận hành vi giao cấu chỉ xảy ra giữa hai
người khác giới. Tuy nhiên, với cách hiểu như trên là không còn phù hợp với khái
niệm giao cấu thông thường, thực tiễn cũng như xu hướng lập pháp của các nước
trên thế giới hiện nay. Trong việc quan hệ tình dục nhằm thỏa mãn khoái cảm của
bản thân, con người không chỉ đơn thuần sử dụng một hành vi duy nhất là đưa
dương vật vào âm hộ. Trong cuốn “Tình dục học đại cương” của bác sỹ Đào Xuân
Dũng có đề cập đến khái niệm tình dục như sau: “Tình dục là hành vi để tìm kiếm
khoái cảm hoặc để sinh sản, có nội hàm rộng, không chỉ có nghĩa là giao hợp giữa
người nam và người nữ mà còn bao gồm cả nhiều hành vi khác nhằm đem lại khoái
cảm bằng tay hay bằng miệng, ở vùng cơ quan sinh dục hay ở những bộ phận khác
của cơ thể. Cũng vẫn là tình dục khi thực hành tìm kiếm khoái cảm với bạn tình
khác giới hay cùng giới, với một hay nhiều hơn một người, tự mình gây ra khoái
cảm hay gây khoái cảm cho nhau, mơ tưởng đến chuyện tình dục hay sử dụng dụng
cụ chuyên dụng” [3, tr.35]. Có thể thấy hành vi tình dục ở con người là rất rộng,
ngoài hành vi đưa dương vật vào âm hộ, họ còn có thể đưa dương vật vào nhiều bộ
phận khác trên cơ thể như miệng, hậu môn,… của bạn tình nhằm thỏa mãn khoái
cảm; không những sử dụng dương vật, người tham gia quan hệ tình dục còn có thể
10



dùng tay, miệng hoặc các dụng cụ hỗ trợ tình dục khác như đồ chơi tình dục, dương
vật giả… Đặc biệt trong quan hệ tình dục đồng giới thì việc đưa dương vật vào âm
hộ bạn tình là điều không thể, do đó những hành vi trên xảy ra rất phổ biến như hai
người nam quan hệ tình dục qua đường hậu môn, hai người nữ dùng tay hoặc dương
vật giả để kích thích cho người còn lại… Như vậy, nếu vẫn áp dụng các quan điểm
như nói trên thì sẽ không bao quát hết được phạm vi, hành vi được mô tả của tội
danh này, và trên thực tiễn có thể dẫn đến trường hợp không đủ căn cứ để truy tố
đối với người thực hiện hành vi hay trường hợp bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Khác với các quan điểm về khái niệm giao cấu nói trên, quan điểm của ông
Đỗ văn Dương, Viện phó Viện khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, định nghĩa: “Giao cấu được hiểu là việc đưa bộ phận sinh dục của người này
chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt là
đồng giới hay khác giới”. Như vậy, nếu một người chủ động sử dụng bộ phận sinh
dục của mình để “quan hệ” với người khác (không nhất thiết phải là hai bộ phận
sinh dục với nhau) thì là giao cấu.
Từ những phân tích trên, và để phù hợp với thực tiễn hiện nay, giao cấu nên
được hiểu là: “Bất kì sự cọ xát trực tiếp nào của những người khác nhau giữa
dương vật hoặc đồ chơi tình dục với âm hộ, hậu môn hoặc miệng với ý thức ấn vào
trong, không kể sự xâm nhập là sâu hay cạn. Hành vi giao cấu có thể diễn ra giữa
những người khác giới hoặc đồng giới”.
Về khái niệm tội phạm, khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập chủ quyền…”.
Từ khái niệm tội phạm được quy định trong luật, nghiên cứu một số khái
niệm tội phạm trong giáo trình của các cơ sở đào tạo và một số sách chuyên khảo,
theo quan điểm người nghiên cứu, tội phạm phải thỏa mãn các đặc điểm:
Thứ nhất, phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội – đó là những hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những khách thể được Luật Hình sự bảo vệ.


11


Thứ hai, tính có lỗi – theo đó, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là
tội phạm nếu chủ thể có lỗi khi thực hiện hành vi đó. Lỗi được xác định là kết quả
của sự tự lựa chọn của người phạm tội trong điều kiện khách quan và chủ quan để
thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Thứ ba, tính được quy định trong BLHS: có một số quan điểm cho rằng đặc
điểm này nên là “tính trái pháp luật hình sự” vì “có trường hợp được phép thực
hiện hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự và khi đó hành vi đã thực hiện
không phải là tội phạm” [18, tr.23]. Tuy nhiên, theo quan điểm của người nghiên
cứu, tính được quy định trong BLHS bao quát hơn cho mọi trường hợp, đồng thời
có thể hiểu hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy định trong BLHS
là tội phạm là cách định nghĩa hợp lí, phù hợp với cách xây dựng của BLHS.
Từ phân tích khái niệm giao cấu với trẻ em và tội phạm, có thể hiểu:
Tội giao cấu với trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đã thành
niên, có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện việc giao cấu thuận tình với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, gây tổn hại hoặc đe dọa danh dự, nhân phẩm, quyền
được phát triển bình thường về tình dục của trẻ em.
1.1.3. Sự cần thiết quy định tội giao cấu với trẻ em trong Luật hình sự
Việt Nam
Trên cơ sở phân tích khái niệm trẻ em ở phần 1.1.1, có thể khẳng định trẻ em
là chủ thể đặc biệt trong các chủ thể của quyền con người. Pháp luật Việt Nam luôn
tôn trọng, đề cao và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền trẻ em. Tại Đại hội
Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên từ “Quyền trẻ em” được dùng trong các văn kiện của
Đảng. Từ đó, quyền trẻ em với tư cách là quyền con người được thảo luận công
khai và rộng rãi ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng các quyền của trẻ
em, quy định cụ thể các quyền của trẻ em trong hệ thống chủ trương, chính sách và
pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm

cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (Điều 37). Có thể thấy, quyền trẻ em ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện, phát triển và được công nhận là một bộ phận quan trọng
12


của quyền con người. Quy định các tội phạm XHTD trẻ em nói chung và Tội giao
cấu với trẻ em nói riêng là sự công nhận một cách hợp pháp các giá trị xã hội của
quyền con người, quyền trẻ em; các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính bắt
buộc, được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Mọi hành vi xâm hại trẻ em đều bị xử lý, đặc
biệt các hành vi xâm hại tình dục trẻ em bị coi là tội phạm và được quy định trong
pháp luật hình sự đã thể hiện rõ nét sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ
quyền trẻ em.
Theo số liệu thống kê, dân số Việt Nam tính đến năm 2016 đạt mức 93 triệu
người, trong đó có khoảng 25 triệu trẻ em. Trẻ em là những người đang trong độ
tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt thể chất và tâm lý. Trẻ em thường có tâm lý
tò mò, thích khám phá những điều mới lạ nên rất cần sự định hướng đúng đắn, sự
chăm sóc, tình yêu thương của gia đình, nhà trường và xã hội. Phần lớn trẻ đều có
tâm hồn ngây thơ, non nớt, có tâm lý dễ thuận theo và nghe lời người lớn, nên là đối
tượng dễ bị lợi dụng. Hơn nữa, trẻ em có kiến thức, vốn hiểu biết về xã hội còn hạn
chế, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế, chúng chưa nhận thức
được hết những mối nguy hiểm ngoài xã hội nên trẻ em chưa đủ khả năng tự bảo vệ
bản thân, chưa có sự phản kháng cần thiết đối với hành vi xâm phạm quyền lợi của
mình. Do đó, trẻ em là đối tượng rất dễ bị kẻ xấu dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo. Tất cả những
đặc điểm trên của trẻ em sẽ khiến cho hành vi phạm tội tác động dễ dàng hơn đến
trẻ em thông qua đó xâm hại đến các quyền của trẻ em được pháp luật hình sự bảo
vệ. Người phạm tội sẽ lợi dụng các đặc điểm này của trẻ em để thực hiện dễ dàng
hơn, hậu quả nguy hiểm dễ xảy ra hơn... và điều này làm cho hành vi phạm tội có
tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội thông thường.
Do đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt thể chất và tâm sinh

lý, nên khi trẻ bị xâm hại tình dục sẽ dẫn đến những hậu quả rất nặng nề, nó không
chỉ gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe mà còn tác động tiêu
cực đến tâm lý và sự phát triển bình thường của trẻ. Một nghiên cứu cho thấy hậu
quả lớn nhất khi trẻ bị XHTD là trẻ tổn thương về tinh thần và ảnh hưởng đến tương
lai (84,3%). Trẻ dễ bị mặc cảm, phát triển không bình thường (65,7%). Trẻ khó hòa
nhập với xã hội (55,7%). Tổn thương về sức khỏe thể chất chiếm (69,1%). Gây ra
13


những tổn thương nặng nề tại bộ phận sinh dục: bị nhiễm trùng đường tiết niệu,
chảy máu kéo dài ở bộ phận sinh dục hoặc các tổn thương thể chất khác. Trẻ em có
thể bị nhiễm các bệnh xã hội, bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS
[52].Với các em nữ việc bị XHTD có thể khiến các em mang thai ngoài ý muốn gây
nguy hiểm cho bản thân và thai nhi (vì cơ thể các em chưa phát triển hoàn chỉnh)
hoặc gây ra nhiều nguyên nhân dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau. Vì vậy, trẻ em là đối tượng đặc
biệt cần được toàn xã hội bảo vệ.
BLHS năm 1985 đã tội phạm hóa các hành vi xâm hại tình dục trẻ em, trong
đó có hành vi giao cấu với trẻ em thành Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi quy
định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phâm, danh dự của
cong người. Đến lần pháp điển hóa thứ hai, BLHS năm 1999 đã thay đổi tên tội
danh thành Tội giao cấu với trẻ em. Việc quy định tội phạm này trong BLHS là hết
sức quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống, bảo vệ trẻ em khỏi
nạn xâm hại tình dục trẻ em.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giao cấu với trẻ em
Trong lịch sử lập pháp của Việt Nam cũng như trên thế giới, tội giao cấu với
trẻ em là loại tội được quy định từ rất sớm. Tuy nhiên tại mỗi thời kỳ các quy định
cụ thể về loại tội này là khác nhau.
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất – Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được thành lập. Ngay sau những ngày đầu mới thành lập, Nhà nước ta vừa phải đối
phó với nạn thù trong giặc ngoài, xây dựng lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá,
vừa phải từng bước tổ chức, cùng cố, xây dựng chính quyền nhân dân… Do mới
được giải phóng khỏi ách xâm lược, vừa được thành lập, lại có xuất phát điểm từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, Nhà nước ta chưa thể xây dựng được một hệ
thống pháp luật nói chung, và những quy định về Luật hình sự nói riêng một cách
hoàn thiện.

14


Vào ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh số 47/SL
quy định tạm thời giữ các luật lệ cũ: “Cho đến khi ban hành những bộ pháp luật duy
nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ
vẫn tạm giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi
ấn định trong sắc lệnh này” (Điều 1 Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ
tịch chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa). Những luật lệ được nhắc tới
trong Sắc lệnh 47/SL ở trên gồm: “Luật hình An Nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật”,
Bộ “Hình luật pháp tu chính”, được ghi nhận tại Chương 4 Luật Hình từ Điều 8
Điều 10 Sắc lệnh 47/SL ngày 10/10/1945:
“Điều 8. Bộ “Luật hình An Nam” ban bố tại Bắc bộ do Dụ ngày 25 tháng 08
năm 1921 và Nghị định của nguyên Toàn quyền Đông dương ngày 02 tháng 12 năm
1921 cùng những dụ và nghị định sửa đổi bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi Bắc
bộ kể cả Hà Nội và Hải Phòng.
Điều 9. Bộ “Hoàng Việt hình luật” ban bố tại Trung bộ do Dụ ngày 03 tháng
07 năm 1933 và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông dương ngày 04 tháng 07
năm 1933 cùng những Dụ và nghị định sửa đổi bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi
Trung bộ kể cả Đà Nẵng.
Điều 10. Bộ “Hình luật pháp tu chính” do sắc lệnh 31 tháng 12 năm 1912

cùng những sắc lệnh sửa đổi sắc lệnh ấy vẫn thi hành ở Nam bộ.”
Tinh thần của điều luật trên còn được nhắc lại trong Sắc lệnh số 51/SL ngày
17/4/1946 với nội dung: “Những luật lệ hiện hành vẫn giữ nguyên như cũ, trừ
những điều khoản trái với sắc lệnh này cùng trái với chủ quyền và chính thẻ dân
chủ cộng hòa của nước Việt Nam”.
Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm bảo vệ. Xuất phát từ quan
điểm bảo vệ trẻ em đồng nghĩa với việc bảo vệ thế hệ mai sau của đất nước, quốc
gia, dân tộc, là bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
cha ông, là bảo vệ những người không có khả năng hoặc hạn chế khả năng tự vệ,
khi hành vi phạm tội tác động đến trẻ em là tác động đến đối tượng yếu thế cần
được bảo vệ. Chính vì thế, lịch sử Việt Nam qua các triều đại phong kiến từ xưa ít

15


nhiều cũng đã quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em trước tội xâm phạm tình dục và
cũng đã có những hình phạt trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội.
Trước hết phải kể đến Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật
(biên soạn từ thời Lê Thái Tổ đến Lê Thành Tông, thế kỷ XV), bộ luật này đã có
những quy định bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm hại tình dục. Điều 404 trong chương
“Thông gian” quy định: “Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người
con gái có thuận tình cũng xử như tội hiếp dâm”. Như vậy, đối tượng được pháp
luật bảo vệ trong điều luật này là người con gái dưới 12 tuổi, dù người con gái đó có
thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm vì ở tuổi này con gái vẫn chưa trưởng thành,
dễ bị lừa gạt, khống chế. Bộ luật Hồng Đức do đó đã quy định tuổi được phép quan
hệ tình dục với người nữ là trên 12 tuổi.
Đến năm 1815, Bộ Hoàng triều luật lệ được ban hành, còn được gọi là Luật
Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398, với 22 quyển, trong đó có một số chế định
trong việc trừng trị nghiêm khắc đối với hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Điều 330
quy định: “Cưỡng gian bé gái dưới 10 tuổi thì bị chém ngay còn cưỡng gian bé gái

trên 10 tuổi dưới 12 tuổi nếu việc cưỡng gian đã thành thì bị phạt treo cổ, nếu việc
cưỡng gian không thành thì phạt trăm lượng, lưu ba ngàn dặm”.
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945. Từ
năm 1945 đến 1954 vì đất nước vừa xây dựng chính quyền ở miền Bắc vừa đấu
tranh chống thực dân Pháp ở miền Nam nên ta vẫn sử dụng luật cũ. Đến năm 1955
khi toàn bộ luật hình cũ không còn áp dụng nữa, các Tòa án xét xử theo án lệ, theo
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước nên tới thời điểm này Nhà nước ta vẫn
chưa ban hành một văn bản pháp luật hình sự mới quy định về tội giao cấu với trẻ
em.
Để cho các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời
giúp cho việc xét xử trên thực tế được dễ dàng và thuận lợi, năm 1976, trên cơ sở
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử. Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua bản
tổng kết 329/HS2 ngày 11/5/1967 hướng dẫn đường lối xét xử tội giao cấu với trẻ
em và các tội phạm xâm hại tình dục khác, trong đó đã đề cập đến bốn hình thức
phạm tội về tình dục đó là Tội hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm
16


(trong đó có cưỡng dâm trẻ em), giao cấu với người dưới 16 tuổi, và dâm ô (trong
đó có dâm ô với trẻ em). Như vậy, Tội giao cấu với trẻ em được ghi nhận là thuộc
nhóm xâm phạm tình dục đối với trẻ em. Bản hướng dẫn cũng đưa ra hướng dẫn về
cách định tội danh, phân biệt Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi với Tội hiếp dâm,
cụ thể: Các hành vi giao cấu với các em dưới 13 tuổi tròn nói chung, không kể các
em có sự thỏa thuận hay không thỏa thuận đểu phải coi là hiếp dâm vì trí óc non nớt
của các em, phải coi các em ở trong tình trạng không thể tự bảo vệ và biểu lộ ý chí
đúng đắn. Riêng đối với các em từ đủ 13 tuổi đến 14 tuổi, trong một số trường hợp
cá biệt, có em đã dậy thì có thể thực hiện sự thuận tình giao cấu. Cho nên, khi có sự
thuận tình giao cấu với các em đó, cần căn cứ vào mọi tình tiết của vụ án (tính tình,
thân hình, thái độ của các em) để nhận định xem có phải là tội hiếp dâm trẻ em hay
tội giao cấu với người dưới 16 tuổi [40].

Trong khi chờ pháp luật có quy định đầy đủ và toàn diện hơn thì bản tổng kết
có ý nghĩa rất lớn, vì đã tổng kết kinh nghiệm những năm qua, rút ra và chỉ thêm
một số điểm để hướng dẫn công tác xét xử một số loại tội phạm về mặt tình dục
được tốt hơn, đồng thời là cơ sở để pháp điển hóa trong BLHS năm 1985 về loại tội
danh này. Bản tổng kết 329/HS2 ngày 11/5/1976 này đã được sử dụng cho đến khi
BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội giao cấu với trẻ em
Trước tình hình đổi mới của đất nước, với những chuyển biến về mặt kinh tế
- xã hội, để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tất yếu đòi hỏi Nhà
nước phải ban hành hệ thống pháp luật mới trong đó có pháp luật hình sự.
Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa VII đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ 1/1/1986. Đây là một bước
tiến quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. Bộ luật đã kế thừa và phát
triển những thành tựu của Luật hình sự Việt Nam đặc biệt là sau Cách mạng tháng
8. Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam gồm hai phần: phần chung và phần các tội
phạm, gồm 20 chương với 280 điều, trong đó Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi
được quy định tại Điều 114 – chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, cụ thể: “Người nào đã thành niên mà giao cấu với
17


người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Như vậy, BLHS năm 1985 ra đời
chính thức quy định tội giao cấu với người dưới 16 tuổi với khung hình phạt cải tạo
không giam giữ đến một năm hoặc phạt từ từ ba tháng đến ba năm.
Bộ luật Hình sự 1985 ra đời trong giai đoạn nước ta đang chuẩn bị tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện về mọi mặt của đời sống xã hội đã góp phần thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới, các vấn đề xã
hội và nhu cầu của cuộc sống ngày càng phức tạp. Vì vậy, để phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, Bộ luật Hình sự

năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và năm
1997.
Sau khi được ban hành, đến năm 1989 Luật sửa đổi bổ sung thêm khoản 2
“giao cấu với nhiều người hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm”. Đến năm 1997 trải qua lần sửa đổi thứ tư từ khi BLHS năm 1985 ra
đời, Điều 114 được đổi tên thành “Tội giao cấu với trẻ em”, hình phạt ở khoản 1
được sửa đổi theo chiều hướng tăng nặng từ“ba tháng đến ba năm” thành “từ một
năm đến năm năm”; khoản 2 “giao cấu với nhiều người hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng” được sửa đổi thành “Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Phạm tội nhiều lần; b) Có tính chất loạn luân; c) Làm nạn nhân có thai; d) Gây
tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân”; hình phạt tù “tù từ hai năm đến bảy năm”
được sửa đổi thành “tù từ năm năm đến mười năm” và bổ sung thêm khoản 3
“Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này thì bị
phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm”.
Như vậy, qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã tương
đối hoàn thiện và góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh chống và ngừa Tội
giao cấu với trẻ em, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như đảm bảo
trật tự, an toàn công cộng.
1.2.3.Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội giao cấu với trẻ em
Qua gần 15 năm thi hành, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã giữ một vai trò quan
trọng, đặc biệt tích cực trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm của nước ta.
18


Tuy nhiên, do được xây dựng và ban hành trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội
trong nước cũng như quốc tế có nhiều điểm khác biệt cơ bản so với giai đoạn thực
hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau này.
Vì vậy, dù đã qua bốn lần sửa đổi, bổ sung song nhiều quy định của Bộ luật Hình sự
không còn phù hợp cũng như không đáp ứng đầy đủ yêu cầu phòng, chống tội phạm
trong giai đoạn mới. Do vậy, ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã

thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực thi hành trên cả nước từ ngày
01/07/2000 và đây là Bộ luật vẫn được áp dụng trong giai đoạn hiện nay. Bộ luật
Hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, cơ bản Bộ luật Hình sự
năm 1985, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm trong
tình hình mới.
Tội giao cấu với trẻ em trong Bộ luật Hình sự năm 1999 thuộc nhóm các tội
xâm hại tình dục trẻ em, được quy định tại Chương XII – Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người. Kế thừa và phát triển các quy định
của Bộ luật hình sự năm 1985, tội giao cấu với trẻ em được quy định tại Điều 115
Bộ luật Hình sự năm 1999 và được bổ sung tình tiết định khung tăng nặng tại điểm
d khoản 2 là “gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%”; tại điểm a khoản 3 là “Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên” và điểm b khoản 3 là “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội”. Như vậy, trong Bộ luật Hình sự năm 1999, tội giao cấu với trẻ em sau
nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã được các nhà làm luật quy định khá chặt chẽ.
1.2.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội giao cấu với trẻ em
Bộ luật Hình sự năm 1999 khi xây dựng tội giao cấu với trẻ em đã phát huy
vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh, phòng chống
tội phạm giao cấu với trẻ em; đã thể hiện được tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh, chống tội phạm, mặt khác tạo cơ sở pháp lý góp phần nâng cao
hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm qua đó góp phần kiểm soát và kìm chế
tình hình tội phạm.
Tuy nhiên, sau hơn 15 năm thi hành, Bộ luật Hình sự 1999 đã bộc lộ những
điểm bất cập, không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong giai đoạn nước ta
19


đang có những thay đổi về chính sách và kinh tế, sự ra đời của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận và đề cao quyền con
người, quyền cơ bản của công dân, yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà

Việt Nam tham gia, đặt ra nhiệm vụ phải sửa đổi BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009. Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLHS năm 2015 với 3 phần, 26
chương và 426 điều. BLHS năm 2015 đáng lẽ sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01
tháng 7 năm 2016, tuy nhiên do một số lỗi kĩ thuật, mà Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết 144/2016/QH13 về lùi hiệu lực thi hành BLHS. Về cơ bản, chính sách pháp
luật xây dựng nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói chung và Tội giao cấu
với trẻ em nói riêng thể hiện sự tiến bộ, có một số thay đổi nhất định để bao quát hết
những trường hợp xảy ra trong thực tế.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay đổi tên gọi của Điều luật và tội danh từ
Tội giao cấu với trẻ em thành “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” (Điều 145). Cụ thể:
Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;

20



e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Các dấu hiệu pháp lý của Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Dấu hiệu pháp lý là các yếu tố của cấu thành cơ bản trong điều luật, những
yếu tố được mô tả trong cấu thành cơ bản là yếu tố cần và đủ để truy cứu TNHS
người phạm tội. Việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý cấu thành Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có
ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội này, cho
phép xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng
thời cho phép ta phân biệt tội phạm này với tội phạm khác, đánh giá giữa hành vi
phạm tội và không phải tội phạm.
*Khách thể của Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Theo Luật hình sự Việt Nam đó là những quan hệ xã hội được xác
định trong Điều 8 BLHS năm 2015. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định trong chương
XIV về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Các tội phạm cụ thể trong chương này, cùng xâm hại đến khách thể trực tiếp đó là
“tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”. Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi xâm hại


21


đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và sự an toàn
về tình dục của người dưới 16 tuổi.
Trong thực tiễn cũng như phương diện lý luận, một tội phạm có thể xâm
phạm đến một hay nhiều quan hệ xã hội nhưng không phải tất cả các quan hệ xã hội
bị xâm hại đó đều được coi là khách thể trực tiếp, mà chỉ khi căn cứ vào tất cả các
mặt như tính chất quan trọng của quan hệ xã hội, mức độ gây thiệt hại… cho quan
hệ xã hội thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mới được coi
là khách thể trực tiếp của tội phạm. Cũng như một số tội phạm khác trong nhóm các
tội xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của của người dưới 16 tuổi,Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người dưới
16 tuổi, làm băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, gây nên sự bất bình trong quần
chúng nhân dân. Ngoài ra hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi còn có thể làm tổn thương đến sức khỏe của
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi do các em còn ở độ tuổi chưa phát triển đầy đủ
về vấn đề tình dục, một số trường hợp còn ảnh hưởng đến tính mạng của người dưới
16 tuổi.
Khi nghiên cứu về khách thể của tội phạm thì yếu tố không thể thiếu đó là
xác định rõ đối tượng tác động của tội phạm. Đó chính là bộ phận khách thể của tội
phạm bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối với Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì đối
tượng tác động của tội phạm này là người dưới 16 tuổi. Cụm từ “trẻ em” không
còn được sử dụng trong BLHS năm 2015, thay vào đó là cụm từ“người dưới 16
tuổi”, việc thay đổi này đã tiếp tục xác định và cụ thể hóa đối tượng được bảo vệ
của Điều luật này là người dưới 16 tuổi không phân biệt là trẻ em trai hay trẻ em
gái, như vậy tránh được cách hiểu như một số quan điểm trước đây chỉ coi trẻ em

trong Điều 115 của BLHS năm 1999 chỉ là trẻ em gái. Tuy nhiên, đối tượng của tội
phạm này có đặc điểm bắt buộc về độ tuổi, cụ thể là trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu đủ hoặc trên 16 tuổi thì hành vi không cấu thành tội
22


phạm vì nó không xâm phạm khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ.
Trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người dưới 13 tuổi mặc dù có sự đồng ý của người dưới 13 tuổi thì vẫn bị truy cứu
TNHS về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 142 BLHS năm
2015, với mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Có thể thấy, BLHS
năm 1999 quy định tình tiết “mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi
là phạm tội hiếp dâm trẻ em” tại khung tăng nặng với mức cao nhất của khung
hình phạt tù là tử hình đã làm tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm của hành vi này,
trong khi rõ ràng có nhiều trường hợp, nạn nhân đã dậy thì, phát triển nhanh về thể
chất, dẫn đến sự nhầm lẫn về độ tuổi của các em; cũng có trường hợp, ngay chính
bản thân nạn nhân cô tình giấu hoặc nói dối về độ tuổi của mình hoặc giao cấu
thuận tình. Việc nhà làm luật đưa tình tiết định tội trong cấu thành cơ bản là cần
thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn. BLHS năm 2015 bổ sung tình tiết
mới “phạm tội đối với người dưới 10 tuổi”vào khoản 3 Điều 142 quy định về
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với khung hình phạt là “phạt từ 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình”. Với quy định mới này, nhà làm luật đã phân hóa
TNHS đối với các trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác đối với người dưới 13 tuổi thành hai mức khác nhau. Một là đối với đối
tượng tác động là người dưới 10 tuổi, hai là đối với đối tượng tác là người từ đủ
10 tuổi đến dưới 13 tuổi. Ngoài ra, quy định như vậy nhằm thể hiện thái độ rõ
ràng của nhà làm luật đối với người lợi dụng sự non nớt của trẻ em trong độ
tuổi này để đạt được mục đích tình dục của mình, gây ảnh hưởng đến sức khỏe
cũng như tinh thần của các em.
Có thể thấy, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định nhằm thể hiện chính sách hình
sự của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ sự phát triển bình thường về tâm sinh lý
cho người dưới 16 tuổi. Hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác của người đã thành niên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là sự
xâm hại đến sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi vì theo quan điểm
khoa học nếu tâm sinh lý của người dưới 16 tuổi còn chưa phát triển đầy đủ thì
23


×