Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.67 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO NGUYỄN VŨ

TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM,
KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN
BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ .................................. 6
1.1 Nhận thức chung về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố ....................................................................................................................... 6
1.2 Hoạt động tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm ....................... 19
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM, KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƢNG YÊN ..................................... 28
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố ........................................................................... 28
2.2. Thực tiễn về việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hưng Yên .............................................. 46
2.3. Những ưu điểm, tồn tại bất cập qua quá trình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố


giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên .................................................................................................................. 51
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
CỦA HOẠT ĐỘNG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO TỐ GIÁC VỀ TỘI
PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƢNG YÊN ............ 60
3.1 Dự báo những yếu tố tác động đến tình hình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong thời gian tới .................................................... 60
3.2 Giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố ................................................ 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 80


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên


KSV

Kiểm sát viên

PGS

Phó giáo sư

QH

Quốc hội

TTLT

Thông tư liên tịch

TTHS

Tố tụng hình sự

TBVTP

Tin báo về tội phạm

TP

Thành phố

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

VKS

Viện kiểm sát


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 số liệu thống kê của VKSND tỉnh Hưng Yên từ năm 2012-2016.... …… 50
Bảng 2.2 Tình hình thụ lý, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
theo pháp luật tố tụng hình sự từ năm 2012-2016 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hưng Yên

............................................................................................................ 52

Bảng 2.3 Tình hình thụ lý, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
theo pháp luật tố tụng hình sự từ năm 2012-2016 của Cơ quan điều tra Công an tỉnh
Hưng Yên..................................................................................................................52
Bảng 3.1 Công tác tổ chức cán bộ của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên 5 năm
từ 2012-2016 ............................................................................................................65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã mang lại những
thành tựu to lớn, hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị văn
hóa xã hội quan hệ hợp tác và hội nhập sâu rộng đáng tin cậy, góp phần tạo tiền đề
cần thiết cho sự phát triển và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Để duy trì và phát triển bền vững các quan hệ xã hội, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến việc nâng cao pháp luật sát với đời sống xã hội, mới đây tại kỳ
họp quốc hội chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã chỉ đạo tập chung và tăng
cường việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật giáo dục cùng với đó là coi
trọng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, động viên, khuyến khích
kịp thời phát hiện tố giác hành vi phạm tội và phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/08/2013 của Bộ Công an – Bộ Quốc phòng
– Bộ Tài chính – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 06) được ban hành, Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát hai cấp của tỉnh Hưng Yên cũng đã có những chuyển biến tích cực
trong nhận thức và thực hiện công tác tiếp nhận, phân loại và giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự, đẩy nhanh tiến độ
giải quyết, số lượng tin báo được tiếp nhận nhanh, thời gian giải quyết ngắn, đáp
ứng cơ bản yêu cầu của Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc
hội khóa 13, Nghị quyết 37/2012/QH 13 ngày 23/11/2012: “Nâng tỉ lệ xử lý tố giác
tin báo về tội phạm đạt trên 90%; điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt trên
70%, các tội phạm rất nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% trên tổng
số án khởi tố…”.[10]
Sau khi Thông tư liên tịch số 06/2013 có hiệu lực thi hành, một số Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát nhân dân các cấp đều thành lập tổ kiểm sát tin báo, tố giác
về tội phạm, có Điều tra viên, Kiểm sát viên chuyên trách tiếp nhận từ giai đoạn thụ lý

1


đơn, phân loại, giao cho các Đội nghiệp vụ. Nhìn chung, Thông tư liên tịch số 06 đã
giải quyết cơ bản những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong công tác tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự, nhất
là về thời gian giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật

tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được rút ngắn lại.
Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu. Trên cả phương diện lập pháp và thực thi
trong tố tụng hình sự, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Điều này thể hiện rõ
trong Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, chỉ có 03 điều luật quy định về việc tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, với những nội dung đơn
giản. Nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định hoặc làm rõ trong Bộ Luật Tố
tụng hình sự. Sau hơn 10 năm thi hành, các Cơ quan tư pháp mới có Thông tư liên tịch
số 06 hướng dẫn về vấn đề này, nhưng vẫn chưa được hoàn thiện và đầy đủ.
Với những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài “Tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên” làm đề tài luận văn
thạc sỹ luật học của mình để tiến hành nghiên cứu với mong muốn được góp phần
nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện về những giải pháp trong vấn đề thụ lý và giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trước
diễn biến của tình hình tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tiếp nhận, giải quyết tố giác về tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố
theo pháp luật tố tụng hình sự nói chung, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu, mỗi công trình nghiên cứu đều được thể hiện ở các góc độ khác nhau, mỗi lĩnh
vực mà các tác giả đã chọn và nghiên cứu đều cho thấy được vấn đề cấp thiết và có
tính thực tiễn cũng như giá trị lý luận cao đó là Bình luận khoa học bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, do PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh chủ biên, NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội năm 2003. Trên tạp chí khoa học “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm
thực hành quyền công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách
tư pháp” NXB Chính trị quốc gia Hà Nội tác giả Nguyễn Hải Phong năm 2014. Bài

2



viết trên tạp chí chuyên nghành của Phạm Quốc Huy năm 2003 bàn về các khái
niệm “Tố giác về tội phạm” , “ Tin báo về tội phạm” và “Kiến nghị khởi tố” trong
bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, tạp chí kiểm sát số 17 năm 2003 ... Luận văn thạc
sỹ luật học của Ths. Nguyễn Duy Ngọc về “Tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về
tội phạm – thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của Công an các quận, huyện
thành phố Hà Nội”; luận văn thạc sỹ luật học của Ths. Trương Vũ Bình về “Giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm theo
chức năng, thẩm quyền của Bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc”; luận
văn thạc sỹ luật học của Ths. Nguyễn Ngọc Thế về “Tổ chức tiếp nhận, xử lý tin
báo, tố giác về tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng Cảnh sát nhân dân
Công an Tỉnh Quảng Ninh”, ngoài ra còn có một số đề tài khác như của Lê Ra về
“Thực tiễn thực hiện chức năng nhiệm, nhiệm vụ của VKSND trong việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố”, Luận văn thạc sỹ luật học của tác
giả Thái Hưng năm 2013 là “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc
giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra VKSND tối cao”, trang thông tin điện tử VKSND tối cao ...
Các bài viết đã phân tích ở một số khía cạnh về việc tiếp nhận và giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm. Nhìn chung, các công trình trên đã bước đầu nghiên cứu đến
những khía cạnh và góc độ khác nhau về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, nhưng học viên muốn đề cập và phân tích thêm, hệ thống cũng như định hướng
hoàn thiện các quy định của tố tụng hình sự về giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm.
Từ những phân tích và dẫn điểm trên, bản thân học viên muốn có sự nghiên
cứu thêm một cách hệ thống về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trong thời gian qua và đưa ra
đóng góp ý kiến của mình về những giải pháp, kiến nghị trong việc nâng cao hiệu
quả việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt
động tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp


3


luật tố tụng hình sự cũng như nghiên cứu vấn đề này trên đại bàn tỉnh Hưng Yên. Qua
đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện chất lượng của công tác tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu làm
rõ những vấn đề lý luận về công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,
kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Thu thập và nghiên cứu phân tích các văn bản, tài liệu liên quan đến công tác
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự ( bộ luật, nghị quyết, thông tư hướng dẫn, chỉ thị, tài liệu pháp luật…)
- Khảo sát thực tiễn hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm. Đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, từ đó tìm ra nguyên nhân của những
thiếu sót, khuyết điểm trong công tác này.
- Đề xuất phương pháp có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự ở tỉnh Hưng Yên nói riêng và trên cả nước nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình hình và thực trạng của hoạt động tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, phòng ngừa đấu tranh phòng và chống tội phạm về cải cách tư
pháp, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp.

4


Quá trình nghiên cứu được sử dụng dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng. phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn
dịch, lịch sử cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài
trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ lý luận khoa học về tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự việt nam
Đề tài nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác của các cơ
quan và dùng để giảng dạy, bào chữa hoặc mọi tổ chức cá nhân có nhu cầu tìm hiểu.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá thực trạng, tình hình trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói chung và trên phạm vi cả nước nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được chia
thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tiếp nhận và giải

quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Chƣơng 3: Giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng của công tác tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO,
TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1 Nhận thức chung về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố
Công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đưa đất
nước phát triển lên tầm cao mới là nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta. Để thực
hiện được thắng lợi trong nhiệm vụ này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
ta đã tập trung xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tăng cường hơn nữa công tácđấu
tranh để đẩy lùi từng bước những hành vi vi phạm pháp luật nói chung, và tội phạm
nói riêng, là nhiệm vụ chung hàng đầu của Đảng và Nhà nước, của mọi tổ chức xã
hội và mỗi công dân, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật giữ vị trí, vai trò quan
trọng và là lòng cốt; Đặc biệt là luôn luôn chú trọng tập chung giải quyết thông tin
về hoạt động của các loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng làm cơ sở cho việc lập
kế hoạch, chương trình đấu tranh phòng chống tội phạm kịp thời trong từng thời kỳ.
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam là hoạt động quan trọng trong điều tra ban đầu, hoạt động
này là cơ sở là căn cứ để mở đầu cho hoạt động tố tụng. Để làm rõ vấn đề này, trước
hết, chúng ta cần phải làm rõ thế nào là tội phạm và tin báo, tiếp nhận kiến nghị
khởi tố và giải quyết như thế nào:
Sự nghiệp quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực, từng bước được nâng cao về

kỷ cương phép nước, trong đó đảng và nhà nước lãnh đạo thực hiện chặt chẽ cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
So với pháp luật hình sự phong kiến, định nghĩa về hình thức, về tội phạm
mang tính chất tiến bộ. Định nghĩa đó thể hiện nguyên tắc cơ bản của pháp chế dân
chủ tư sản là “không có tội phạm, nếu điều đó không cấm trong đạo luật hình sự”.
Định nghĩa về tội phạm có hạn chế của nó và hạn chế đó thể hiện ở chỗ định
nghĩa đó không làm sáng tỏ được bản chất giai cấp – xã hội của tội phạm, không
đưa ra cơ sở của việc phạm tội hóa hành vi.

6


Định nghĩa nội dung về tội phạm làm sáng tỏ hơn bản chất xã hội đích thực
của nó, chỉ ra những lợi ích của giai cấp nào bị tội phạm xâm phạm, thiệt hại nào do
tội phạm gây ra cho các quan hệ xã hội đang thống trị, các cơ sở nào của việc phạm
tội hóa hành vi, tức là các cơ sở để coi hành vi là tội phạm.
Lần đầu tiên trong lịch sử của luật hình sự, định nghĩa nội dung về tội phạm
được pháp luật hình sự Xô viết đưa ra. Điều 5 của “Các cơ sở chỉ đạo của luật hình
sự Cộng hòa Liên bang Nga năm 1919” định nghĩa: “Tội phạm là sự vi phạm trật tự
các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ”. Tiếp đó, định nghĩa về tội
phạm được dần dần hoàn thiện và được ghi nhận trong bộ luật hình sự của Cộng
hòa Liên bang Nga năm 1922 và 1926.[41,tr.105]
Tại điều 8 Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, có nêu khái niệm về tội phạm như sau: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật Hình sự, do
người có năng lực, trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm đến chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.[18,tr.44]
Như vậy, cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm là một cuộc đấu tranh với
phạm vi rất lớn, bao trùm từ đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị và có vị trí đặc biệt
trong nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo cho sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1.1.1 Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
* Tin báo về tội phạm
Trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, thông tin về hoạt động
của các loại tội phạm là cơ sở quan trọng trong việc lập các kế hoạch, chương trình
đấu tranh phòng chống tội phạm.

7


Tin báo có khái niệm phạm vi rất rộng. Trong lý luận của các ngành khoa
học khác nhau như Triết học, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội…có rất nhiều
quan điểm khác nhau về tin báo. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
thì tin báo là nội dung của sự phản ánh, là thuộc tính bản chất của vật chất.
Như vậy, tin báo tồn tại khách quan và khái niệm của nó gắn liền với khái
niệm vật chất và ý thức. Trong Đại từ điển tiếng Việt phổ thông, tin báo được xác
định là: “Điều báo cho biết sự việc, tình hình xảy ra”.
Trong lĩnh vực trật tự xã hội thì tin ban đầu là những tin mà các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhận được về vụ việc, con người có dấu hiệu hoạt động xâm
phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội cần xác minh làm rõ để có chủ trương,
biện pháp giải quyết kịp thời.
Khoa học điều tra hình sự tiếp nhận khái niệm tin báo của ngôn ngữ tự nhiên
và xác định là một thuật ngữ khoa học bao gồm cả hai nội dung phản ánh: phản ánh
vật chất và phản ánh tinh thần của tội phạm.
Dưới góc độ ngôn ngữ học thìtin là điều được truyền đi cho biết về sự việc,

tình hình xảy ra, tin là sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho
biết về thế giới chung quanh và những quá trình xảy ra trong nó. Báo là cho biết
việc gì đó đã xảy ra, hoặc cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có
thể hại đến trật tự an ninh chung…Là dấu hiệu cho biết trước.
Tin báo về tội phạm là những thông tin do người dân cung cấp cho cơ quan hoặc
người có trách nhiệm về con người hoặc hành vi phạm tội hay có dấu hiệu phạm tội.
Ở phương diện phản ánh, những thông tin về tội phạm là kết quả phản ánh của
những tội phạm đó trong hiện thực khách quan, sự tồn tại của những thông tin này
mang tính quy luật. Những thông tin này tồn tại ở dạng vật chất, đó là tín hiệu thông
tin. Trong hoạt động điều tra tội phạm, tín hiệu thông tin có thể tồn tại ở hai dạng: vật
chất và tư tưởng ý nghĩ. Hai hình thức tồn tại của tín hiệu thông tin này chính là sự đa
dạng của những dấu vết tội phạm để lại trong môi trường xung quanh.
Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm thì tin báo, tố giác về tội phạm là
những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét tính
chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo tin, tố giác

8


đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu hiệu của tội
phạm hay không… Tin báo, tố giác về tội phạm là căn cứ để Cơ quan điều tra mở ra
những hoạt động điều tra, xác minh theo luật định.
Tại Khoản 2 Điều 3 thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTCBNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn BLTTHS về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Công an,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có giải thích như
sau: “Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”. [10]
* Tố giác về tội phạm

Tố giác là gì? Dưới góc độ của ngôn ngữ học thì tố giác là báo cho cơ quan
chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. Theo từ điển Bách Khoa
Công an nhân dân Việt Nam thì “Tố giác là công dân tố cáo trước cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội về người hoặc hành động phạm pháp đã xảy ra. Lời tố giác là
một trong những nguồn tin ban đầu về những vụ việc có tính hình sự, là nội dung
phản ánh đầu tiên về vụ việc đó…”. Tại Điều 101 Bộ Luật Tố tụng Hình sự Việt
Nam năm 2003 quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức…”. [17,tr.64]. Như vậy,
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam khi quy định cũng tạo điều kiện cho công dân dễ
dàng tố giác tội phạm trước các cơ quan Nhà nước, nhằm khuyến khích mọi người
dân tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Quan điểm khác cho rằng: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện, tố
cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền
giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của Bộ luật
Tố tụng hình sự”. Tố giác về tội phạm được hiểu là việc cá nhân phát hiện, tố cáo
người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết theo quy định của BLTTHS.

9


Như vậy, tố giác là hành động của công dân khi phát hiện các hoạt động
phạm pháp của một đối tượng hay một nhóm đối tượng. Hành động này thể hiện ở
việc tố cáo các hành vi của đối tượng vi phạm trước cơ quan pháp luật và các cơ
quan có trách nhiệm phải tiếp nhận, giải quyết các thông tin do người dân cung cấp.
Tố giác về tội phạm chỉ bao gồm các hành vi vi phạm pháp luật bị phát hiện có thể
cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Tại Khoản 1 Điều 3 thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTCBNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn BLTTHS về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Công an,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và

phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có giải thích như
sau: “Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá
nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm
tiếp nhận, giải quyết” .[2]
Nhưng BLTTHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 và có hiệu lực vào tháng 1 năm
2018 lại quy định tại khoản 1 điều 144 “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện
và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”[22, tr.123]
* Kiến nghị khởi tố
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “Kiến nghị” được hiểu là “ Nêu ý kiến
đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét”; “Yêu cầu” là: “Nêu ra
điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm
vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”.[33] Hai thuật ngữ này
đều có chung là đề nghị một cơ quan, một người nào đó làm một việc thuộc nhiệm
vụ, trách nhiệm, khả năng của họ. Ở góc độ pháp lý, theo chúng tôi, kiến nghị khởi
tố là quyền của cơ quan Nhà nước, thể hiện bằng văn bản kiến nghị gửi đến CQĐT
và VKS, Yêu cầu khởi tố về hình sự để điều tra, xử lý tội phạm và người phạm tội
nào đó. Kiến nghị khởi tố là một dạng đặc biệt của tin báo về tội phạm. Bộ luật
TTHS đã quy định tất cả các cơ quan nhà nước đều có quyền kiến nghị khởi tố: Các
cơ quan Nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, Thanh tra việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và

10


phải thông báo ngay cho cơ quan điều tra, VKS về mọi hành vi phạm tội xảy ra
trong lĩnh vực quản lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu liên quan
cho CQĐT, VKS xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội và trong thực
tiễn, thông thường là văn bản kiến nghị khởi tố của cơ quan Thanh tra, Tòa án phát
hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm và chuyển hồ sơ vụ việc và kiến nghị khởi tố đến
CQĐT có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng

văn bản cho VKS cùng cấp biết.
Có quan điểm cho rằng: “Kiến nghị khởi tố là văn bản kiến nghị khởi tố cùng
hồ sơ, tài liệuvề hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm được phát hiện
thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng được gửi đến
cơ quan Cảnh sát điều tra hoặc VKSND”.[28] Quan điểm này chưa xác định rõ chủ
thể của kiến nghị khởi tố. Quan điểm khác cho rằng: “Kiến nghị khởi tố là việc cơ
quan Nhà nước thông qua công tác kiểm tra, Thanh tra phát hiện có hành vi phạm
tội, hành vi có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kèm theo tài liệu liên quan, kiến
nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm
tội”.[23] Quan điểm này đã xác định chủ thể của kiến nghị khởi tố là các cơ quan
Nhà nước. Tuy nhiên, cả hai quan điểm trên đều cho rằng thông qua công tác thanh
tra, kiểm tra phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm mới có kiến nghị khởi tố.
Chúng tôi cho rằng quan niệm như vậy là phiến diện, bởi vì cơ quan Tòa án thông
qua công tác xét xử cũng có quyền kiến nghị khởi tố…
Về lý luận, cần phân biệt trường hợp nào là cơ quan Nhà nước là chủ thể của
tin báo về tội phạm và là trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố: cơ quan
Nhà nước là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong trường hợp thông qua công tác
thanh tra, kiểm tra, xét xử… phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ
sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố gửi đến CQĐT, VKSND
cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án. Cơ quan Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội
phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm
quyền để xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác
hiện nay chưa có quy định rõ ràng, đầy đủ thế nào là kiến nghị khởi tố; phân biệt
giữa Kiến nghị khởi tố và Yêu cầu khởi tố. Theo chúng tôi, BLTTHS cần xác định

11


tên gọi chung là Kiến nghị khởi tố đối với các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức, vì
đây là văn bản mang tính pháp lý, có tính chất về việc chung hơn. Còn đối với cá nhân,

khi có ý kiến đề nghị khởi tố thì được gọi là văn bản Yêu cầu khởi tố, việcnày phù hợp
với quy định tại điều 105 BLTTHS: khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
Như vậy: Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan Nhà nước khi thực hiện
nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền xem xét khởi tố vụ án hình sự. Đây là việc các cơ quan Nhà
nước, qua công tác kiểm tra, Thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ, công tác khác
phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi phạm tội và có văn bản
kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi
tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra và xử lý theo
pháp luật.
1.1.2 Đặc điểm của tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
Đặc điểm của tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận và
thực tiễn, là cơ sở để xác định phạm vi, nội dung và tính xác thực của tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
và chủ thể của nó. Do vậy, việc xác định chính xác nội dung của tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
là rất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong công tác điều tra. Kết quả nghiên cứu lý
luận và thực tiễn cho thấy tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự có những đặc điểm sau:
* Đặc điểm pháp lý:
Trên phương diện lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy rằng tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
mang đặc điểm pháp lý, điều này thể hiện ở những đặc trưng sau:
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự phải được tiếp nhận và giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật và phải được thông báo đến đúng các chủ thể mà theo quy định của pháp

12



luật có chức năng tiếp nhận thông tin về tội pham. Pháp luật tố tụng hình sự bắt
buộc các cơ quan có chức năng, thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự như: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án…
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự là cơ sở không thể thiếu được để các cơ quan trực tiếp tiến
hành đấu tranh phòng chống tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình
sự nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, phải được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, tuân theo thủ
tục, trình tự do luật tố tụng quy định. Đây chính là đặc trưng thứ hai để khẳng định
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự mang đặc điểm pháp lý.
Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, thông tin nói chung và tin báo nói
riêng được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập ở tất cả các giai đoạn, từ những
nguồn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong những thông tin này có
những thông tin về tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự mà pháp luật tố tụng hình sự quy định là cơ sở và căn cứ để khởi tố vụ
án hình sự.
Tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về căn cứ khởi tố
vụ án hình sự: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội
phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân.
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức.
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực

tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
5. Người phạm tội tự thú.”[17,tr.64]

13


Từ quy định trên, có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự được phản ánh
trong các nguồn, theo quy định của pháp luật, là cơ sở và căn cứ để khởi tố vụ án
hình sự. Về bản chất tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự là những thông tin phản ánh những tội phạm
hay những vụ việc mang tính hình sự xảy ra do người dân, cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án) và những cơ quan khác theo quy định của pháp luật.
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự chính là những thông tin ban đầu mà công dân, cơ quan, tổ
chức với sự hiểu biết và tinh thần trách nhiệm của mình thông báo đến các cơ quan
chức năng về những gì họ nghe thấy, họ nhìn thấy và họ cho rằng có dấu hiệu của
tội phạm báo cho cơ quan tổ chức có nhiệm vụ trách nhiệm. Những tin báo, tố giác
của công dân, cơ quan, tổ chức hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng
thường rất nhiều, tuy nhiên tính chính xác và đầy đủ của nguồn thông tin này đôi
khi rất hạn chế, nguồn gốc thông tin thường không xác định được, ví dụ: ai cung
cấp, tại sao lại biết được những thông tin đó, nó xảy ra ở đâu, hiện tượng như thế
nào, biết được trong điều kiện, hoàn cảnh nào…hơn nữa trong thực tế nhiều công
dân sợ liên lụy nên hay dấu tên tuổi, địa chỉ để khỏi bị gọi, hoặc lo sợ bị trả thù nếu
người phạm tội biết ai cung cấp thông tin, chính vì thế việc xác minh làm rõ nguồn
gốc cũng như tính chính xác của những thông tin này thường gặp rất nhiều khó
khăn. Những thông tin ban đầu có thể chính xác hoặc không chính xác, có thể cụ thể
cũng có thể đơn giản, sơ sài nhưng nguồn cung cấp thông tin lại rất phong phú nên
khi nhận được những thông tin ban đầu chỉ được xem là nguồn cung cấp để xác

định có hay không dấu hiệu phạm tội.
Tuy nhiên BLTTHS năm 2015 được sửa đổi (cácđiều 143, 145, 146 và 147)
[37,tr.124,125,126]đã lược bỏ những quy định trùng lặp và một số quy định đã
đượcmở rộng pháp nhân và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành phát hiện dấu hiệu
tội phạm. Ngoài ra Bộ luật còn khắc phục được một phần nhượcđiểm của Bộ luật
trên tạođiều kiện thuận lợi trong thực tiễnáp dụng, bảođảm giải quyết kịp thời,

14


đầyđủ và kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, chống bỏ lọt tội phạm, bảođảm đồng bộ với luật tổ chức VKSND, luật tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015.
* Tiếp nhận, giải quyếttin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự rất đa dạng về nguồn gốc và nội dung:
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự rất đa dạng về nguồn gốc. Nơi Tiếp nhận, giải quyết nơi
cung cấp tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình
sự rất phong phú và đa dạng như: tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật
tố tụng hình sự của công dân, tin báo của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, tin
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tin báo do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng. Cơ quan hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh
sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội
phạm theo pháp luật tố tụng hình sự. Đối với từng tội phạm cụ thể thì tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự cũng có những
đặc điểm riêng quy định về cách thực hiện việc áp dụng tương ứng.
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự rất đa dạng. Mỗi hành vi phạm tội thường rất khác nhau,
trực tiếp xâm hại đến những khách thể khác nhau được Luật hình sự Việt Nam bảo

hộ. Chủ thể của tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự cung cấp thông tin đến các cơ quan chức năng cũng có những động cơ, mục
đích khác nhau. Chính vì vậy, mỗi cơ quan tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự ở các lĩnh vực khác nhau
thì có những nội dung phản ánh khác nhau.
Từ những đặc điểm phân tích trên, cho thấy sự đa dạng về nguồn gốc và nội
dung của tin báo, tố giác về tội phạm. Sự đa dạng này chi phối quá trình thu thập
tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật
tố tụng hình sự của các cơ quan chức năng.

15


* Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự mang tính thời sự:
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự là những nguồn tin ban đầu thông tin về tội phạm. Do vậy,
nó mang tính thời sự đối với các cơ quan chức năng khi tiếp nhận. Tính thời sự cao
hay thấp của các tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự trong các trường hợp khác nhau cũng khác nhau, phụ thuộc vào
khoảng thời gian từ thời điểm xảy ra vụ việc đến thời điểm chủ thể cung cấp thông
tin, phát hiện ra vụ việc đó và cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác
mình làm rõ, và khoảng thời gian từ khi cơ quan chức năng tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự đến thời
điểm ra quyết định khởi tố hay kkông khởi tố vụ án hình sự. Điều này có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
* Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự thường thiếu chính xác, không đầy đủ về nội dung:
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự thường do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và người dân

cung cấp cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Những thông tin này khi đến
các cơ quan chức năng thường do các chủ thể phát hiện ở những thời điểm khác
nhau, sau đó sao chép lại hoặc do những động cơ, mục đích khác nhau nên thường
đưa ra những nhận định chủ quan của mình. Vì vậy việc tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự thường
không đầy đủ và thiếu chính xác. Ngoài những nguyên nhân nêu trên, còn có những
nguyên nhân khác như: các cơ quan, tổ chức hoặc người dân phát hiện tội phạm một
cách tình cờ, ngẫu nhiên nhìn thấy… do tác động của hành vi phạm tội, khi gây án,
bọn tội phạm có nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm đánh lạc hướng để che dấu hành vi
phạm tội của mình, điều này dẫn đến nhận thức và báo tin cho các cơ quan chức
năng thiếu chính xác và không đầy đủ.
Đặc biệt, trong điều kiện xã hội hiện nay, vì quyền lợi bản thân nên có một
số cá nhân có nhiều động cơ, mục đích khác nhau lợi dụng điều này nhằm bịa đặt,

16


xuyên tạc, thông tin sai sự thật về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự đến các cơ quan chức năng để thỏa mãn mục đích riêng của mình. Điều này
tác động rất lớn đến quá trình phát hiện, thu thập, kiểm tra, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và thời gian của các cơ quan để xác minh sự việc. Do vậy, đặc
điểm của tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình
sự thường mang tính chủ quan, thiếu chính xác và thông tin không đầy đủ.
1.1.3 Phân loại và ý nghĩa của tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
* Phân loại: Việc phân loại khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự phụ thuộc vào lăng lực của
người phân loại. Để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu cũng như mục đích tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, có thể phân loại tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự theo các cơ sở sau:

Phân loại tin báo, tố giác về tội phạm theo tính chất của từng loại tội danh:
Căn cứ vào Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2009, ta phân tố giác, tin báo về tội phạm
thành bốn loại: tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến tội phạm ít nghiêm
trọng; tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến tội phạm nghiêm trọng; tố giác,
tin báo về tội phạm có liên quan đến tội rất nghiêm trọng và tố giác, tin báo về tội
phạm liên quan đến tội đặc biệt nghiêm trọng.
Phân loại theo đối tượng phạm tội: Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nhân thân
của các đối tượng tội phạm thì phân loại tin báo, tố giác về tội phạm theo các nhóm: tin
báo, tố giác về tội phạm liên quan đến các đối tượng có tiền án, tiền sự; tin báo, tố giác
về tội phạm theo các nhóm: tin báo, tố giác về tội phạm liên quan đến các đối tượng có
chức vụ trong các cơ quan nhà nước; tin báo, tố giác về tội phạm theo các nhóm: tin
báo, tố giác về tội phạm liên quan đến các đối tượng băng nhóm.
Phân loại theo vụ việc phạm tội: căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội và số lượng các đối tượng tham gia để phân loại tin báo, tố giác về
tội phạm thành ba nhóm: tin báo, tố giác về tội phạm có liên quan đến tội phạm đơn
lẻ; tin báo, tố giác về tội phạm có liên quan đến tội phạm có tính chất đồng phạm;
tin báo, tố giác về tội phạm có liên quan đến tội phạm có tổ chức.

17


Phân loại theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: Căn cứ theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và nguồn gốc của tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự có thể phân chia thành năm loại theo Điều
100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
1. Tố giác của công dân.
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức.
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,

Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực
tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
5. Người phạm tội tự thú.[17,tr.64]
Việc phân loại tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự như trên rất có ý nghĩa trong công tác thống kê các vi phạm pháp luật
hình sự. Từ đó đưa ra những dự báo và xây dựng kế hoạch đấu tranh, phòng chống
và ngăn ngừa tội phạm. Cách phân loại như trên tác động đến quá trình tiếp nhận và
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Chính vì vậy, cần nhận thức đúng đắn đặc
điểm của tin báo, tố giác về tội phạm, đó là việc cần thiết và đặc biệt quan trọng trên
cả hai phương diện lý luận và thực tiễn của quá trình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
* Ý nghĩa: Hoạt động khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên những cơ sở tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự được phản
ánh từ các nguồn cung cấp thông tin khác nhau theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định một số hoạt động điều tra ban
đầu cho các cơ quan tiến hành tố tụng được phép thu thập tài liệu, chứng cứ trước
khi khởi tố vụ án hình sự. Từ những quy định trên của pháp luật tố tụng hình sự, ta
thấy rằng hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều
tra, giải quyết tội phạm.

18


Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo
pháp luật tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn ban đầu
làm căn cứ để khởi tố vụ án mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập các
thông tin về các loại tội phạm ẩn, các đối tượng truy nã đang lẩn trốn trong xã hội…
Tiếp nhận, gải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp

luật tố tụng hình sự còn phản ánh hoạt động của các tội phạm trong đời sống xã hội,
việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp
luật tố tụng hình sự tốt sẽ là nguồn thông tin quý giá để đánh giá tình trạng tội
phạm, từ đó có kế hoạch phòng ngừa hiệu quả. Mặt khác, căn cứ vào số lượng và
chất lượng các tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự sẽ đánh giá được mức độ tham gia các phong trào tấn công, trấn áp tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trên từng địa bàn khu dân cư
của quần chúng nhân dân.
Tiếp nhận, gải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp
luật tố tụng hình sự còn là căn cứ để các cơ quan chức năng có thẩm quyền tiến
hành thẩm tra, xác minh làm rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của những tin báo,
tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự đó, trên cơ sở
quyết định có hay không việc khởi tố vụ án hình sự.
Tiếp nhận, gải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp
luật tố tụng hình sự là cơ sở để các cơ quan chức năng có thẩm quyền tiến hành các
hoạt động theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Sau khi khởi tố vụ án dựa
trên các dấu hiệu phạm tội, thì hàng loạt các hoạt động điều tra theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự mới được tiến hành và chỉ khi đó những tài liệu thu thập
được mới đảm bảo có tính căn cứ và tính hợp pháp cho việc chứng minh tội phạm.
1.2 Hoạt động tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm
1.2.1 Các hình thức tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
Như chúng ta đã biết, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm luôn được coi là
nguồn cung cấp thông tin để xác định có hay không dấu hiệu phạm tội, nhưng việc
xác định này thuộc về cơ quan tiến hành điều tra tổ chức tiến hành thu thập và điều

19


tra xác minh làm rõ nguồn gốc cũng như tính xác thực của tin báo, tố giác trên. Vậy
tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm được cung cấp từ những nguồn nào?

Tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm là những thông tin do người dân cung
cấp cho cơ quan hoặc người có trách nhiệm về một hành vi phạm tội nào đó đang
hoặc đã xảy ra hoặc một người có dấu hiệu, hành vi phạm tội. Tin báo, tố giác về tội
phạm được hiểu là thông tin, thông báo của người nào đó hoặc một tổ chức cho các
cơ quan, tổ chức với CQĐT, VKS, Tòa án... Tiếp nhận thông tin về những hành vi,
vụ việc đã xảy ra mà người, tổ chức báo tin đó cho là có dấu hiệu tội phạm.
Theo quy định của luật tố tụng hình sự, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự được cung cấp bởi những
nguồn sau:
Thứ nhất: tố giác của công dân thông qua nhiều hình thức công dân có thể
cung cấp nhiều tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền trực tiếp như: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án hoặc các cơ quan chức năng khác, cũng có thể thông qua
hòm thư tố giác của công dân đặt ở một số nơi nhất định. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin, cũng như theo quan điểm của Hồ
Chí Minh thì cách mạng muốn thành công phải luôn lấy dân làm gốc “dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, dân ta có trăm tay nghìn
mắt, nếu biết dựa vào dân, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật, nếu biết lấy dân
làm gốc thì đó chính là vấn đề then chốt, chìa khóa của sự thành công. Tố giác của
công dân không chỉ là trách nhiệm, là quyền của công dân mà còn là nghĩa vụ của
công dân đối với an ninh của một quốc gia, do đó Bộ luật hình sự có quy định một
số điều luật liên quan đến việc tố giác này như hành vi che dấu tội phạm, không tố
giác tội phạm là một hành vi vi phạm pháp luật hình sự bị coi là tội phạm; hành vi
không chịu khai báo hoặc khai báo gian dối của một số loại chủ thể nhất định cũng
bị coi là tội phạm nếu hậu quả của hành vi đó là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã
hội. Trong những năm qua, do xác định đúng về vị trí, tầm quan trọng của những tin
báo tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự do người dân cung
cấp, chúng ta đã phá được rất nhiều vụ án hình sự. Chính vì vậy, một trong những

20



nội dung được đề cập trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm đó là: tiếp
tục vận động quần chúng nhân dân tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự cũng như tiếp nhận, giải
quyết tin báo về tội phạm phát sinh trong xã hội.
Thứ hai, tin báo của cơ quan, tổ chức. Đây là một trong những nguồn cung
cấp thông tin vô cùng quan trọng. Những tin báo này thường chính xác và có cơ sở
vững chắc cho việc định hướng điều tra, xác minh của cơ quan chức năng có thẩm
quyền, cũng chính vì tầm quan trọng của nguồn tin báo này mà nội dung đầu tiên
trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật
tố tụng hình sự đã đề cập đến tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của những thông tin
do các cơ quan, tổ chức cung cấp.
Thứ ba, tiếp nhận tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tin trên
báo, đài, truyền hình là các vấn đề nhạy cảm được đông đảo quần chúng biết tới
quan tâm và nó thể hiện tính dân chủ thực sự của nhà nước ta. Thời gian qua, trên
các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt quan tâm đưa những tin phản ánh về
tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội, vụ việc tiêu cực…đây là những thông tin đã gây
được sự chú ý của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, mặc dù không thể không có
những thiếu sót trong việc đưa tin, nhưng những tin báo này đã phần nào góp phần
giảm thiểu những tiêu cực, thiếu sót trong thực tiễn cũng như thông qua đó, các cơ
quan chức năng đã khám phá giải quyết và kiến nghị khởi tố được nhiều vụ án quan
trọng, lấy được lòng tin trong nhân dân.
Thứ tư, thông qua các cơ quan pháp lý có thẩm quyền như: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân tiến hành điều
tra, phát hiện trực tiếp dấu hiệu tội phạm.
Thứ năm, người phạm tội tự thú. Những tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự đều được cung cấp từ những nguồn trên.
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật

tố tụng hình sự là những thông tin ban đầu, những thông tin này có ý nghĩa rất lớn
cho các cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét tính chất nghiêm trọng hay không nghiêm

21


×