Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại trong pháp luật hình sự Việt Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.09 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ QUỲNH NGA

CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM LÀ PHÁP NHÂN
THƢƠNG MẠI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Văn Độ

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015


Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội văn minh, việc quản lý nhà nước bằng pháp luật là một
yêu cầu tất yếu khách quan và đặc biệt trở thành một yêu cầu bức thiết đối với
việc xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, pháp luật là một trong những
công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội, có vai trò đặc biệt trong việc bảo
đảm sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua
ngày 28 tháng 11 năm 2013 đang ngày càng phát huy hiệu quả trong thực tế đời
sống, với những quy định nền tảng, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc hiện
đại hóa, công nghiệp hóa, diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực khác
nhau. Để đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội hiện đại, thì việc hoàn thiện pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng là một trong những yêu cầu bức
thiết của việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước, phục vụ tốt nhất cho công cuộc đổi
mới đất nước. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu
cầu của quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam và hội nhập quốc tế. Nội dung
này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định cụ thể tại Nghị quyết số 48/NQTW Ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Ngày 02-6-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó, cải cách tư pháp phải kế
thừa truyền thống pháp lý dân tộc, các thành tựu đã đạt được của nền tư pháp
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước
ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế đáp
ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
Trong nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều các doanh nghiệp, các

tổ chức kinh tế được hình thành và phát triển với các quy mô lớn, nhỏ khác
nhau. Bên cạnh những giá trị tích cực mà các tổ chức kinh tế này mang lại như:
Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân… thì bên cạnh đó cũng dần bộc lộ
những góc khuất, những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Thời gian qua,
chúng ta đã phải chứng kiến khá nhiều hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng cho

1


xã hội, cho đất nước do những tổ chức kinh tế gây ra, như hành vi hủy hoại môi
trường khi xả thải ra môi trường những chất thải chưa qua xử lý, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, hay hành vi trốn thuế, kinh doanh
trái phép, đầu cơ, buôn lậu hoặc vì lợi ích cục bộ đã không thực hiện các biện
pháp mà pháp luật đòi hỏi để bảo vệ môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng….
Ví dụ cụ thể như vụ việc Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà
Tĩnh-FHS có hành vi hủy hoại môi trường biển Việt Nam, bằng việc xả chất
thải có chứa độc tố là nguyên nhân làm hải sản và sinh vật biển chết hàng loạt,
nhất là ở tầng đáy. Qua thu thập, phân tích dữ liệu, đã xác định có nguồn thải
lớn xuất phát từ khu vực Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, chứa độc tố như Phenol,
Xyanua,… kết hợp với Hydroxit sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (Mixel),
có tỷ trọng lớn hơn nước biển, theo dòng hải lưu di chuyển theo hướng BắcNam từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng,
gây bức xúc lớn trong dư luận xã hội.
Thực tế cho thấy, việc núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội
ngày càng tăng, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Đa số những trường hợp
trên là do cơ quan lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân thực hiện vì lợi ích
của pháp nhân hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân với những thủ
đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức cao và có những trường hợp
mang tính quốc tế, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho đời

sống của người dân, đòi hỏi cần phải có giải pháp mạnh để phòng ngừa và đấu
tranh.
Tuy nhiên, theo quan niệm truyền thống của khoa học luật hình sự
nước ta thì, tội phạm là sự kết hợp giữa hành vi nguy hiểm của con người và
thái độ lỗi bên trong của người đó. Do đó, những hành vi gây thiệt hại nghiêm
trọng, gây hậu quả nặng nề do các tổ chức kinh tế - pháp nhân thương mại thực
hiện chưa được coi là tội phạm và vì vậy không bị xử lý bằng các chế tài hình
sự. Thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua đã cho thấy, cơ chế xử phạt vi phạm
hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân vi phạm tỏ ra bất cập,
kém hiệu quả. Mặc dù quy trình xử phạt vi phạm hành chính đối với pháp nhân có
ưu điểm là nhanh, kịp thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch và không
giải quyết được triệt để quyền lợi của người dân bị thiệt hại mà họ phải tự chứng
minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường. Cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính
không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như

2


hậu quả của vi phạm….Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, cơ hội các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng đầu tư ra nước
ngoài ngày càng nhiều và ngược lại, nếu pháp luật nước ta chỉ áp dụng cơ chế
xử phạt hành chính đối với pháp nhân vi phạm thì sẽ là không công bằng. Bởi
lẽ, cùng hành vi vi phạm nghiêm trọng tương tự nhau mà doanh nghiệp
Việt Nam hoạt động ở nước ngoài thì có thể bị xử lý hình sự theo pháp
luật của nước sở tại, còn đối với doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động ở nước ta mà vi phạm thì chỉ bị xử phạt
hành chính. Mặt khác, trong điều kiện chúng ta đang triển khai thi hành Hiến
pháp năm 2013 và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua
năm 2014 đã có nhiều đổi mới theo hướng mở rộng quyền cho các doanh

nghiệp, mà theo đó, nhiều quyết định quan trọng của pháp nhân thương mại do
tập thể Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội cổ đông thông
qua. Vì vậy, nếu trong trường hợp này chỉ quy định TNHS đối với cá nhân thì
sẽ không công bằng.
Từ đó, lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
hình sự nước ta, Bộ luật hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa các Nghị quyết của
Đảng và Hiến pháp năm 2013, ban hành những quy định về trách nhiệm hình
sự (TNHS) của pháp nhân thương mại. Đây chính là công cụ pháp lý sắc bén,
hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền,
an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phát triển đúng hướng, đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành
mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất
nước.
Trong bối cảnh như vậy, tác giả chọn: “Chủ thể của tội phạm là pháp
nhân thương mại trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
nhằm tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản của việc xác
định chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại, xác định TNHS của chủ thể tội
phạm là pháp nhân thương mại, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế
xử lý TNHS với các cá nhân phạm tội.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc xác định phạm vi chủ thể của tội phạm hay những đối tượng có
thể bị áp dụng TNHS là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học
luật hình sự. Ở Việt Nam trong giai đoạn trước, theo cách hiểu truyền thống thì
chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con người cụ thể, các tổ chức không được

công nhận là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay tại Điều 8 Bộ luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS 2015) lần
đầu tiên đã xác định chủ thể của tội phạm còn bao gồm cả pháp nhân thương
mại.
Đây là một vấn đề khá mới mẻ, do đó ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa
thực sự có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp về đề tài “Chủ thể của tội
phạm là pháp nhân thương mại trong pháp luật Việt Nam”. Vấn đề này chủ
yếu mới được đề cập đến như một phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận
văn hoặc các bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành…
Có thể nhận thấy, tất cả những công trình nói trên đều có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến một số vấn đề thực tiễn, lý luận của đề tài nghiên
cứu. Mặc dù không có công trình nào nghiên cứu riêng về Chủ thể của tội
phạm là pháp nhân thương mại trong pháp luật Việt Nam, song những kết quả
nghiên cứu tổng hợp sẽ là nền tảng, tiền đề và là nguồn tài liệu tham khảo hữu
ích để tác giả kế thừa, vận dụng có chọn lọc khi triển khai nghiên cứu đề tài
luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt
Nam có thể xem là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ trong suy nghĩ của đa số
người dân hiện nay, do đó, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm sáng tỏ
hơn những vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại
trong luật hình sự Việt Nam, đồng thời làm rõ hơn các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành về TNHS của pháp nhân thương mại khi là chủ thể của tội
phạm và đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về THNS
của pháp nhân thương mại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ chính của luận văn là giải quyết
các vấn đề sau:


4


- Tổng hợp, phân tích làm rõ khái niệm và đặc điểm cơ bản của pháp
nhân thương mại; khái niệm và đặc điểm cơ bản của chủ thể của tội phạm là
pháp nhân thương mại;
- Phân tích và đánh giá các quy định của BLHS 2015 về TNHS của
pháp nhân thương mại;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp
luật về TNHS của pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ luật học, luận văn tập trung
nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến chủ thể của tội phạm là pháp
nhân thương mại, đồng thời kiến nghị hoàn thiện một số nội dung liên quan đến
việc xác định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại, TNHS của pháp
nhân thương mại theo luật hình sự Việt Nam, đảm bảo việc áp dụng pháp luật
hình sự đối với loại chủ thể này trong thực tiễn được thống nhất, rõ ràng.
Đây là một vấn đề khá mới mẻ, nên trong giới hạn nghiên cứu của đề
tài, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu các vấn đề lý luận về chủ thể của tội
phạm, về pháp nhân thương mại với vai trò là chủ thể của tội phạm, các quy
định hiện hành về TNHS của pháp nhân thương mại và kiến nghị hoàn thiện
các quy định của pháp luật về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Luận văn sử dụng phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là phép duy
vật biện chứng và phép duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội được sử
dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: Phương pháp so sánh; phương pháp xã hội

học; phương pháp logic; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp hệ thống hóa...
+ Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật so sánh như:
so sánh theo thời gian và không gian; so sánh bên trong và bên ngoài; so sánh
vi mô và so sánh vĩ mô; so sánh khách thể nghiên cứu; so sánh quy phạm (tiêu
chuẩn)...

5


6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng thể hiện ở chỗ
đây là đề tài đề cập tương đối đầy đủ, hệ thống, logic những vấn đề về chủ thể
của tội phạm là pháp nhân thương mại trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học với các khía cạnh nội dung cụ thể như: Các vấn đề
lý luận chung về chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại, TNHS của
pháp nhân thương mại, kiến nghị, đề xuất hoàn thiện các quy định về TNHS
của pháp nhân thương mại ; phân tích, đánh giá tính hiệu quả trong các quy
định của pháp luật về TNHS đối với pháp nhân thương mại, từ đó thấy rõ giá trị
những kiến nghị, giải pháp được đưa ra nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự
trong tương lai.
Bên cạnh đó, Luận văn còn có giá trị là tư liệu tham khảo cho các nhà
lập pháp - hoạch định chính sách, các nhà tâm lý - xã hội học, các nhà khoa học
- thực tiễn, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành luật
hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm là pháp nhân
thương mại

Chương 2: Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về Trách nhiệm hình sự
của pháp nhân thương mại
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định
của Bộ luật Hình sự 2015 về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM LÀ PHÁP
NHÂN THƢƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.1.1.1. Cơ sở lý luận
Trong lịch sử pháp luật hình sự thế giới, một thời gian dài, TNHS của
thể nhân và TNHS theo lỗi được xác định và ghi nhận như là những nguyên tắc
của luật hình sự. Sở dĩ như vậy là vì, khi xem xét cơ sở của TNHS, luật hình sự
đánh giá tính quyết định không chỉ của yếu tố hành vi khách quan mà cả yếu tố
tâm lý chủ quan của người thực hiện hành vi đó để xác định có tội hay không
có tội. Trong khi đó, theo quan niệm truyền thống thì pháp nhân hoặc pháp
nhân không có yếu tố tâm lý, nên không thể là đối tượng đánh giá trong luật
hình sự. Hay nói cách khác, pháp nhân hoặc pháp nhân không thể là chủ thể
của TNHS.
Từ quan điểm có tính chất quyết định này, nguyên tắc TNHS cá nhân
trong luật hình sự được xác định. Và hầu như toàn bộ các vấn đề lý thuyết về
luật hình sự (như khái niệm tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm, các chế
định TNHS và hình phạt...) và quy định của pháp luật hình sự cũng như thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự đều xuất phát từ nguyên tắc này.
Cùng với sự phát triển của luật hình sự và tình hình tội phạm, khi mà tội
phạm có pháp nhân, các pháp nhân phạm tội phát triển; các tội phạm xuyên

quốc gia, tội phạm tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền... xảy ra ngày càng
nghiêm trọng, trong đó vai trò pháp nhân chủ yếu thay thế cho cá nhân trong
việc thực hiện tội phạm… thì quan niệm chỉ có TNHS cá nhân đã được thay
đổi nhanh chóng, nhất là thời gian nửa sau thế kỷ hai mươi ở cả mức độ pháp
luật quốc tế lẫn quốc gia.
Ở mức độ pháp luật quốc gia, số lượng các quốc gia quy định TNHS
pháp nhân hay pháp nhân ngày càng tăng.Xu thế quy định TNHS của pháp
nhân được coi là tất yếu trong sự phát triển của luật hình sự thế giới. Ở các
quốc gia theo hệ thống thông luật, TNHS của pháp nhân đã được quy định
tương đối lâu (bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX); còn các quốc gia theo hệ thống luật
lục địa, mặc dầu muộn hơn nhưng cũng đã chấp nhận quan điểm TNHS của

7


pháp nhân nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm trong xã hội hiện
đại. Ở các quốc gia chưa quy định TNHS của pháp nhân, vấn đề trách nhiệm
của pháp nhân đều được quy định trong pháp luật dân sự và hành chính.Theo
pháp luật của các quốc gia này thì pháp nhân hoặc pháp nhân gây thiệt hại thì
phải khắc phục hậu quả, phải bồi thường thiệt hại (luật dân sự) hoặc phải khắc
phục hậu quả và bị xử phạt (luật hành chính).
1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, sự hình thành và phát triển của cơ chế
kinh tế thị trường với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Pháp
luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh thương mại ngày càng thông thoáng, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Thay cho kinh tế cá thể nhỏ lẻ,
nhiều tổ chức kinh tế được hình thành; các doanh nghiệp tư nhân, các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài được thành lập ngày càng nhiều; hoạt động kinh
doanh ngày càng tấp nập... Kinh tế thị trường đã mang lại những những lợi ích
vô cùng to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Cùng với những lợi

ích đó, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều hiện tượng tiêu cực được coi là
mặt trái của kinh tế thị trường như các hành vi vi phạm quy định về độc quyền,
cạnh tranh không lành mạnh, buôn lậu, xâm phạm sở hữu trí tuệ, gian lận
thương mại, làm ô nhiễm môi trường... gây nên những hậu quả rất nghiêm
trọng, thậm chí đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Những hậu quả rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng đó không phải do một hoặc một số cá nhân mà chủ
yếu là do những tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác
nhau thuộc mọi thành phần gây ra.
1.1.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật nước ngoài
Những nghiên cứu về vấn đề TNHS của pháp nhân theo quy định của
pháp luật các nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy xu
thế tất yếu của việc công nhận và quy định TNHS của tổ chức trong pháp luật
các quốc gia. Các quy định của pháp luật hình sự ở các nước được nghiên cứu
có những điểm tương đồng mang tính phổ biến, nhưng cũng có những điểm
khác biệt xuất phát từ nhận thức lý luận, truyền thống pháp luật và điều kiện
phát triển cũng như nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm đặc thù ở mỗi
quốc gia. Những điểm tương đồng và khác biệt này thể hiện ở nhiều khía cạnh,
nội dung khác nhau, nhưng chủ yếu trong các quy định về cơ sở TNHS, về
phạm vi chủ thể là pháp nhân chịu TNHS, về phạm vi các tội phạm mà pháp

8


nhân phải chịu TNHS và về các hình thức TNHS (hình phạt) mà pháp nhân
phải gánh chịu.
Việc nghiên cứu, tổng hợp các yếu tố tương đồng cũng như các yếu tố
khác biệt khi nghiên cứu so sánh vấn đề TNHS của pháp nhân ở các nước khác
nhau có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiếp thu, tham khảo kinh nghiệm của
các quốc gia nhằm xây dựng chế định TNHS của pháp nhân ở nước ta.
1.2. Lý luận về chủ thể là pháp nhân thƣơng mại

1.2.1. Pháp nhân thương mại
1.2.1.1. Khái niệm pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại là một thuật ngữ không còn mới mẻ trong xã hội
Việt Nam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về pháp nhân thương mại với tư cách là
một chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, chúng ta phải tập trung
nghiên cứu làm rõ về khái niệm, để phân biệt rõ pháp nhân thương mại với
pháp nhân phi thương mại được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Bởi lẽ,
theo quy định của BLHS 2015, thì chỉ pháp nhân thương mại mới là chủ thể
của tội phạm.
Khái niệm pháp nhân thương mại lần đầu tiên được quy định tại Điều 75
Bộ luật Dân sự 2015, theo đó, tại khoản 1 Điều luật này quy định: “1. Pháp
nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi
nhuận được chia cho các thành viên.”
1.2.1.2. Đặc điểm pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp nhân thư phải là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm
kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Còn nếu tổ chức,
pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận hoặc nếu có lợi
nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên thì đều không phải là
pháp nhân thương mại.
Thứ hai,đối với pháp nhân thương mại, là các tổ chức được thành lập
nhằm mục đích thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, vấn đề
lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các tổ chức này.
Thứ ba, về mục đích, pháp nhân thương mại được thành lập nhằm mục
tiêu chính là lợi nhuận và khi thu được lợi nhuận sẽ chia cho các thành viên của
pháp nhân theo thỏa thuận, tỷ lệ phần vốn góp... tùy vào loại hình của doanh
nghiệp.

9



Thứ tư, về luật điều chỉnh. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp
nhân thương mại chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật doanh
nghiệp 2014. Trong khi đó, pháp nhân thương mại bao gồm cơ quan nhà nước,
đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị... sẽ còn chịu sự điều chỉnh của các
luật về tổ chức bộ máy nhà nước.
1.2.2. Cơ sở và điều kiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại
1.2.2.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Cũng giống như cơ sở trách nhiệm hình sự của thể nhân thực hiện
hành vi phạm tội thì cơ sở để xác định TNHS đối với pháp nhân thương mại
phải bao gồm hai yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp nhân thương mại đó phải thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp nhân thương mại thực
hiện phải được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.2.2.2. Điều kiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới về điều kiện chịu
TNHS của pháp nhân và một số học thuyết nói trên cho thấy, dù có cách lý giải
khác nhau về TNHS của pháp nhân thương mại nhưng hầu hết đều đưa ra
những điều kiện tương đối giống nhau về hành vi phạm tội, về chủ thể của tội
phạm, về quy định của pháp luật… để truy cứu TNHS đối với pháp nhân
thương mại. Cụ thể là:
- Pháp nhân thương mại bao giờ cũng phải chịu TNHS thông qua hành
vi phạm tội của thể nhân.
- Để truy cứu TNHS pháp nhân thương mại, giữa pháp nhân thương
mại và thể nhân bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ ràng buộc nhất định. Pháp
nhân thương mại phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của thể nhân khi người
đó thực hiện hành vi nhân danh tổ chức, thay mặt hoặc đại diện cho pháp nhân
thương mại. Đồng thời thể nhân đó thực hiện hành vi trong phạm vi chức năng,

thẩm quyền và nhiệm vụ được pháp nhân thương mại giao.
- Để truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại, thì hành vi phạm
tội do thể nhân thực hiện phải vì quyền lợi, lợi ích của pháp nhân thương mại
đó.

10


- Thể nhân đó khi thực hiện hành vi phạm tội là do được sự nhất trí
lãnh đạo, chỉ đạo, đồng ý của pháp nhân thương mại thì lúc này, pháp nhân
thương mại mới phải chịu TNHS đối với hành vi phạm tội do thể nhân thực
hiện.
- Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại thông thường
không loại trừ TNHS của cá nhân đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm cụ
thể.
1.2.3. Phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1.2.3.1. Phạm vi chủ thể là pháp nhân thương mại
Một trong những nội dung quan trọng khi nghiên cứu phạm vi TNHS
của pháp nhân thương mại liên quan đến chủ thể. Đây là vấn đề mà mỗi nước
đã chấp nhận chế định TNHS của pháp nhân đưa ra những cách giải quyết khác
nhau.
Tuy nhiên, một số nước quy định chỉ truy cứu TNHS đối với chủ thể
là các pháp nhân hoạt động có mục đích sinh lời chứ không phải tất cả các
pháp nhân, tổ chức để trở thành chủ thể của tội phạm. Căn cứ để chỉ truy cứu
TNHS đối với pháp nhân thương mại là do các đặc tính đặc thù của pháp nhân
thương mại mang lại.
Ở nước ta, trong BLHS 2015, vấn đề TNHS cũng chỉ được đặt ra đối
với chủ thể là các pháp nhân thương mại, còn các pháp nhân phi thương mại
thì không.
1.2.3.2. Phạm vi tội phạm pháp nhân thương mại phải chịu trách

nhiệm hình sự
Phạm vi các tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS được
quy định tương đối khác nhau ở các nước.
Nhìn chung, do những đặc thù riêng của pháp nhân thương mại mà
phạm vi tội phạm quy định đối với chủ thể này mang tính đặc thù riêng biệt,
chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường… Bởi lẽ, không thể truy cứu
TNHS đối với pháp nhân thương mại đối với tội hiếp dâm được, bởi nó hoàn
toàn không thỏa mãn các điều kiện TNHS quy định đối với pháp nhân thương
mại như đã phân tích ở trên.
1.2.4. Chế tài đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1.2.4.1. Các hình phạt áp dụng

11


Nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn pháp luật một số nước cho thấy,
các nước khác nhau có cách quy định hình phạt áp dụng đối với pháp nhân
thương mại là khác nhau.
Do tính chất đặc trưng chỉ có ở pháp nhân thương mại, do đó, ở hầu
hết các nước, hình phạt chính được áp dụng đối với pháp nhân thương mại
phạm tội là hình phạt tiền. Với các đặc thù riêng, hình phạt tiền là hình phạt mà
khi áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội tỏ ra hữu hiệu nhất.
Bên cạnh đó, các pháp nhân thương mại phạm tội còn có thể bị áp
dụng một số hình phạt khác nhau với tư cách là hình phạt chính hoặc hình phạt
bổ sung như: Đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số
lĩnh vực nhất định, tịch thu tài sản, giám sát tư pháp, công bố quyết định của
Tòa án...
1.2.3.2. Các biện pháp trách nhiệm hình sự khác
Bên cạnh việc quy định hệ thống hình phạt áp dụng đối với pháp nhân
thương mại phạm tội thì, việc quy định các biện pháp trách nhiệm hình sự khác

đối với pháp nhân đó cũng được nhiều nước ghi nhận. Để trừng trị, răn đe các
pháp nhân thương mại phạm tội một cách có hiệu quả và hiệu lực trong thực
tiễn, ngoài việc áp dụng các hình phạt nói trên, cần thiết phải có sự ghi nhận
các biện pháp trách nhiệm hình sự khác đối với pháp nhân thương mại phạm
tội. Trong pháp luật hình sự một số quốc gia, các biện pháp TNHS khác áp
dụng đối với pháp nhân thương mại có thể là: Buộc khôi phục lại tình trạng
ban đầu, buộc bồi thường khắc phục hậu quả…
Kết luận Chƣơng 1
Với việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận về chủ thể của tội
phạm là pháp nhân thương mại, tác giả Luận văn thấy rằng, việc đưa pháp
nhân thương mại trở thành chủ thể của tội phạm là xu hướng chung của thế
giới, đáp ứng đòi hỏi tất yếu, khách quan của xã hội, trong đó có Việt Nam.
Trong BLHS 2015, lần đầu tiên chủ thể của tội phạm bao gồm cả pháp
nhân thương mại, đây là nội dung thay đổi quan trọng trong chính sách hình sự,
khẳng định quan điểm của Nhà nước ta trong việc xử lý nghiêm minh các pháp
nhân thương mại vi phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ coi pháp nhân thương mại
mới là chủ thể của tội phạm chứ không phải bất kỳ pháp nhân nào cũng là chủ
thể của tội phạm. Quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ

12


thống pháp luật mà còn nhằm thực thi các cam kết của Việt Nam trong các điều
ước quốc tế mà nước ta là thành viên, bảo đảm công bằng giữa pháp nhân
thương mại Việt Nam ở nước ngoài và pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam,
việc bổ sung TNHS của pháp nhân thương mại không loại trừ TNHS của cá
nhân.
Việc bổ sung quy định TNHS của pháp nhân vào thời điểm này là cần
thiết và đúng lúc vì: (1) tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thương mại

thực hiện diễn ra phức tạp, ngày càng nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống an lành của người dân và
gây mất trật tự, an toàn xã hội; (2) hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất
cập, mặc dù đã có chế tài xử phạt hành chính, quy định của pháp luật dân sự,
kinh tế nhưng không hiệu quả; cơ chế bảo vệ của pháp luật đối với những
người yếu thế trong xã hội khi xảy ra trường hợp pháp nhân thương mại vi
phạm pháp luật nghiêm trọng đối với họ chưa thực sự có hiệu quả. Do đó, trách
nhiệm xử lý pháp nhân thương mại theo quy định của pháp luật hình sự phải
thuộc về Nhà nước, chủ thể có đầy đủ sức mạnh, nguồn lực và thẩm quyền để
thực hiện; (3) việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân là xu thế chung
trên thế giới; (4) để đáp ứng yêu cầu của một số điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên; (5) trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, việc quy định xử lý
hình sự đối với pháp nhân cũng là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xử lý pháp nhân khi có vi phạm pháp
luật xảy ra, đồng thời, tránh việc bỏ lọt tội phạm; (6) với việc quy định TNHS
của pháp nhân thương mại sẽ đưa ra cơ sở pháp lý để quy định trình tự, thủ tục
tố tụng hình sự chặt chẽ với pháp nhân thương mại, góp phần bảo đảm khách
quan, hiệu quả hơn trong việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại
so với các chế tài xử lý hiện hành. Đồng thời, tăng cường bảo vệ quyền lợi của
người dân khi thực hiện khiếu nại, khởi kiện; (7) tạo cơ sở pháp lý để xử lý
những pháp nhân thương mại vì lợi nhuận mà bất chấp pháp luật của Nhà nước,
xem thường tính mạng, sức khỏe của người dân, lũng đoạn thị trường, phá vỡ
trật tự quản lý của nền kinh tế đất nước cũng như để can thiệp vào hoạt động
của các nhóm tội phạm có tổ chức tồn tại dưới hình thức hợp pháp là các pháp
nhân thương mại, như các nhóm tội phạm hoạt động buôn lậu, rửa tiền, buôn
bán người, buôn bán trẻ em, ma túy, ...

13



Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trên thực tế áp dụng các
quy định đối với TNHS của pháp nhân thương mại, thì việc xây dựng các nội
dung thiết chế cần được đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh, tình hình, điều kiện
thực tế ở Việt Nam, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế
giới.

CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
2.1. Kết cấu của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thƣơng mại
Nghiên cứu các quy định của BLHS 2015, chúng tôi thấy kết cấu các
quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
như sau:
- Các quy định tại Phần chung BLHS để điều chỉnh các vấn đề chung
của luật hình sự liên quan đến tội phạm và hình phạt cũng như các vấn đề liên
quan khác. Đến lượt mình, các quy định ở phần chung được thể hiện ở hai
nhóm:
+ Các quy định chung với các quy định khác về trách nhiệm hình sự
với thể nhân. Đây là các quy định mà theo người làm luật, điều chỉnh các vấn
đề trách nhiệm hình sự chung cho cả chủ thể là thể nhân và pháp nhân thương
mại. Thông thường, tuy được quy định trong cùng một điều luật, nhưng các quy
định liên quan đến thể nhân vf pháp nhân thương mại lại được quy định trong
các khoản khác nhau; hay nói cách khác, quy định liên quan đến pháp nhân
thương mại phạm tội được quy định trong khoản riêng các điều luật.
+ Các quy định về pháp nhân thương mại phạm tội được quy định
trong một điều riêng (Điều 33. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại
phạm tội) hoặc chương riêng mang tính đặc thù đối với pháp nhân thương mại
phạm tội (Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm
tội). Trong chương này gồm các quy định mang tính đặc thù, chỉ áp dụng riêng

đối với pháp nhân thương mại phạm tội mà không phải đối với tất cả các chủ
thể của tội phạm.

14


- Các quy định về các tội phạm cụ thể có chủ thể là pháp nhân thương
mại. Trong BLHS 2015, ngoài việc xác định không phải mọi pháp nhân, mà chỉ
có pháp nhân thương mại mới phải chịu trách nhiệm hình sự, người làm luật
còn còn quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
một số tội phạm cụ thể. Trong phần các tội phạm, BLHS quy định:
+ Cấu thành tội phạm(ngoài dấu hiệu chủ thể) được quy định chung
đối với thể nhân và pháp nhân thương mại;
+ Chế tài riêng cho thể nhân và pháp nhân thương mại.
2.2. Quy định Phần chung Bộ luật Hình sự 2015 về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thƣơng mại
2.2.1. Quy định riêng về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại
Trong Phần Chung của BLHS 2015 có khá nhiều quy định riêng về
TNHS đối với pháp nhân thương mại, để phân biệt với TNHS của thể nhân
phạm tội. Cụ thể:
Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội, Điều 33
BLHS 2015 quy định như sau:
“Các h nh phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1. nh phạt ch nh bao g m:
a) Phạt tiền;
b) Đ nh chỉ hoạt động có thời hạn;
c) Đ nh chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2. Hình phạt bổ sung bao g m:
a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;

b) Cấm huy động vốn;
c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mạiphạm tội chỉ bị áp dụng một
hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.”
Như vậy, khác với các hình phạt được áp dụng đối với thể nhân, các
hình phạt áp dụng đối với các pháp nhân thương mại được quy định đảm bảo
phù hợp với điều kiện thực tiễn và đảm bảo phát huy được hiệu quả trong thực
tiễn áp dụng. Một pháp nhân thương mại phạm một tội nào đó được quy định
trong BLHS 2015 thì chỉ bị áp dụng một hình phạt chính, nhưng có thể bị áp
dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Các hình phạt áp dụng đối với pháp

15


nhân thương mại phạm tội được quy định chi tiết tại các điều từ Điều 77 đến
Điều 81 BLHS 2015.
Bên cạnh đó, pháp nhân thương mại phạm tội còn có thể bị áp dụng
biện pháp tư pháp quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS 2015.
Đặc biệt, trong phần chung của BLHS 2015, các quy định đối với pháp
nhân thương mại phạm tội được thiết kế quy định tại một chương riêng biệt là
Chương XI gồm 16 điều luật, từ Điều 74 đến Điều 89. Trong nội dung chương
này quy định cụ thể về: Điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại, về
phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại, về các hình phạt và các biện
pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội, về căn cứ quyết
định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội…
2.2.2. Quy định về pháp nhân thương mại trong các chế định khác của
phần chung Bộ luật Hình sự 2015
Điều 74 BLHS 2015 thì: “Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu
TNHS theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ
nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.”

Điều đó có nghĩa là, khi áp dụng TNHS đối với pháp nhân thương mại,
thì phải tuân thủ các quy định của Chương XI.Những quy định đối với pháp
nhân thương mại phạm tội và những quy định khác thuộc Phần thứ nhất BLHS
2015. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định tại Chương XI và Phần
những quy định chung của BLHS 2015, thì ưu tiên áp dụng các quy định tại
Chương XI này.
Trong phần thứ nhất. Những quy định chung, BLHS 2015 lần đầu tiên
ghi nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm trong các điều khoản
cùng với việc quy định chủ thể của tội phạm là thể nhân.
Trong nội dung Điều 6 BLHS 2015 về Hiệu lực của Bộ luật Hình sự
đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thì quy định đối với pháp nhân thương mại và cá nhân được
quy định lồng ghép. Trong phần chung của BLHS 2015, quy định về pháp
nhân thương mại còn được quy định trong các điều luật khác lồng ghép với các
quy định của thể nhân, cụ thể: Các quy định tại Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều
30. Khái niệm hình phạt; Điều 31. Mục đích của hình phạt và Điều 60. Thời
hiệu thi hành bản án.

16


2.3. Quy định Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự 2015 về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại
2.3.1. Phạm vi các tội phạm có chủ thể là pháp nhân thương mại
Theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương mại phải
chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm sau đây:
- Một số tội xâm phạm trật tự quả lý kinh tế: Điều 188 (tội buôn lậu),
Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới), Điều 190
(tội sản xuất, buôn bán hàng cấm), Điều191 (tội tàng chữ, vận chuyển hàng
cấm), Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả), Điều 193 (tội sản xuất, buôn

bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm), Điều 194 (tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh), Điều 195 (tội
sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú
y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi), Điều 196 (tội đầu
cơ), Điều 200 (tội trốn thuế), Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước), Điều 209 (tội cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán), Điều 210
(tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán), Điều 211 (tội thao túng
thị trường chứng khoán), Điều 213 (tội gian lân trong kinh doanh bảo hiểm),
Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho người lao động), Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh), Điều 225
(tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan), Điều 226 (tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp), Điều 227 (tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò,
khai thác tài nguyên), Điều 232 (tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ
rừng và lâm sản), Điều 234 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang
dã);
- Một số tội phạm về môi trường:Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường),
Điều 237 (tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi
trường), Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi,
đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông),
Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam), Điều 242 (tội hủy hoại
nguồn lợi thủy sản), Điều 243 (tội hủy hoại rừng), Điều 244 (tội vi phạm quy
định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm), Điều 245 (tội vi phạmquy định về
quản lý khu bảo tồn thiên nhiên), Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài
ngoại lai xâm hại).

17


- Một số tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: Điều 300

(tội tài trợ khủng bố) và Điều 324 (tội rửa tiền).
2.3.2. Chế tài quy định đối với pháp nhân thương mại trong các điều
khoản cụ thể
Phân tích chế tài các điều luật quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
- Một là, phạt tiền là hình phạt chính được quy định trong 100% chế
tài. Tội phạm càng nghiêm trọng thì mức phạt tiền càng tăng;
- Hai là, trong nhiều chế tài, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn cũng được
quy định là hình phạt chính. Còn đình chỉ hoạt động có thời hạn hầu như không
được quy định;
- Ba là, các hình phạt bổ sung cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong
một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn được quy định hầu như trong
100% chế tài. Phạt tiền cũng được quy định là hình phạt bổ sung trong nhiều
trường hợp nếu hình phạt chính là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn được áp dụng...
Kết luận Chƣơng 2
Qua việc nghiên cứu, tổng hợp, phân tích đánh giá các quy định của
BLHS 2015 về TNHS của pháp nhân thương mại, tác giả luận văn thấy rằng,
các quy định này về cơ bản là hợp lý và khoa học. Đối với các quy định trong
phần chung BLHS 2015 đã có những quy định lồng ghép đối với pháp nhân
thương mại và cá nhân phạm tội, đồng thời cũng có những quy định riêng biệt,
cụ thể áp dụng đối với chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại. Đây được
đánh giá là điểm tiến bộ của BLHS 2015, giúp cho việc nghiên cứu và áp dụng
trong thực tiễn được thuận lợi và dễ dàng hơn. Đồng thời, với việc quy định
chế tài đối với pháp nhân thương mại trong một khoản riêng tại các điều luật cụ
thể được xem là hợp lý và logic.
Tóm lại, việc quy định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại
trong BLHS 2015, trong đó có sự nghiên cứu một cách cụ thể các đặc thù của
loại chủ thể này cũng như các điều kiện về tình hình kinh tế, chính trị... ở nước
ta, từ đó đưa ra các quy định về phạm vi các tội phạm đối với pháp nhân
thương mại, các hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội, về

cơ bản là hoàn chỉnh, phù hợp.

18


Chƣơng 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật
Hình sự 2015 về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thƣơng mại
Thứ nhất, cần đảm bảo thực hiện đúng tinh thần của Hiến pháp năm
2013, tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã
hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đấu
tranh chống tham nhũng đồng thời bảo đảm mọi người được sống trong một
môi trường an toàn, lành mạnh.
Thứ hai, việc thực hiện các quy định của BLHS 2015 đối với pháp nhân
thương mại phạm tội cần đảm bảo đúng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, việc áp dụng đúng các quy định của BLHS 2015 về TNHS đối
với pháp nhân thương mại phạm tội cần đảm bảo yêu cầu cải cách tư pháp mà
Đảng ta đã đề ra.
Thứ tư, việc quy định và áp dụng đúng các quy định của BLHS 2015 đối
với pháp nhân thương mại phạm tội phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ công lý, công
bằng trong xã hội, đảm bảo tính thượng tôn pháp luật trong xã hội ta.
Thứ năm, kỹ thuật lập pháp của BLHS về chủ thể của tội phạm là pháp
nhân thương mại phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống pháp luật
nói chung, của pháp luật hình sự nói riêng.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về trách nhiệm

hình sự đối với pháp nhân thƣơng mại phạm tội
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Hình sự 2015
3.2.1.1. Hoàn thiện các quy định phần chung

19


- Một là, chuyển Điều 33 quy định các hình phạt đối với pháp nhân
thương mại phạm tội sang Chương XI. Vì đây hoàn toàn là quy định riêng đối
với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này cũng đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất của BLHS giống như Điều 98 BLHS quy định các hình phạt được
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thực hiện.
- Hai là, hoàn thiện khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8
BLHS. Tác giả kiến nghị sửa đổi nội dung điều luật này như sau:
“Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự”.
- Ba là, cần ra soát lại các quy định tại phần thứ nhất, bỏ các quy định về
pháp nhân thương mại mà không có gì khác so với thể nhân.
- Bốn là, sửa đổi, bổ sung Điều 75 BLHS. Theo đó, chỉ cần giữ hai điều
kiện a) và b) và d) tại khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 là được.
- Năm là, cần nghiên cứu, xem xét có nên huỷ bỏ hình phạt đình chỉ hoạt
động có thời hạn.
3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định phần các tội phạm
Trong phần các tội phạm của BLHS 2015, tác giả nhận thấy vẫn còn
có những quy định chưa thực sự hoàn chỉnh, cần được điều chỉnh, cụ thể:
Theo quy định tại Điều78 BLHS 2015 về Đình chỉ hoạt động có thời hạn thì,
pháp nhân thương mại phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt Đình chỉ hoạt động
có thời hạn. Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 200 Luật Doanh nghiệp
2014 thì:

“3. Trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp phải nộp đủ số
thuế còn nợ; tiếp tục thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp
đ ng đã ký với khách hàng và người lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp,
chủ nợ, khách hàng và người lao động có thỏa thuận khác.”
Với quy định này thì khi doanh nghiệp có quyết định tạm ngừng kinh

20


doanh, doanh nghiệp đó vẫn phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục hoàn thành
việc thực hiện hợp đồng đã ký với khách hàng và đặc biệt là với người lao
động… Vậy thì, khi pháp nhân thương mại bị đình chỉ hoạt động có thời hạn
theo quy định tại Điều 78 BLHS 2015 trong một số lĩnh vực, mà trong lĩnh vực
ấy pháp nhân thương mại lại đang ký kết hợp đồng lao động đối với người lao
động thì trong trường hợp này quyền lợi của những người lao động được giải
quyết ra sao? Do đó, tác giả luận văn kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần
sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành điều luật này để đảm bảo việc áp
dụng pháp luật trong thực tiễn được chính xác và thống nhất.
Tác giả kiến nghị cần cần bổ sung chủ thể pháp nhân thương mại chịu
TNHS đối với tội danh quy định tại Điều 236 năm 2015.
3.2.2. Quán triệt và triển khai thực hiện Bộ luật Hình sự 2015
Thứ nhất, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cần thực hiện tốt
việc quán triệt các nội dung của BLHS 2015 cũng như Nghị quyết số
41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Thứ hai, cần làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung liên
quan đến pháp nhân thương mại trong BLHS 2015.
Thứ ba, cần tổ chức các Hội nghịtập huấn, các lớp bồi dưỡng chuyên sâu
và các hoạt động khác có liên quan đến việc tổ chức, thi hành Bộ luật Hình sự
năm 2015 về TNHS của pháp nhân thương mại và Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về thủ tục tố tụng đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là pháp nhân thương

mại.
Kết luận Chƣơng 3
Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là một vấn đề mới
được đặt ra, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực tiễn về chế định này. Do đó,
khi triển khai thực hiện các quy định về pháp nhân thương mại vào thực tiễn
xét xử, cần đảm bảo các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa, các yêu cầu đảm bảo công bằng, công lý trong xã hội, các yêu

21


cầu bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp 2013 và các yêu cầu cải cách tư
pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Để đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu
đó, cần hoàn thiện các quy định của BLHS 2015 đối với pháp nhân thương mại
còn chưa hợp lý hoặc dễ tạo ra các cách hiểu, nhận thức khác nhau, dẫn đến
việc áp dụng trong thực tiễn gặp khó khăn, vướng mắc, không thống nhất giữa
các địa phương cũng như giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, cần
làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, công tác phổ biến, quán triệt, tập huấn,
hướng dẫn thực hiện các quy định về TNHS trong BLHS 2015 cũng như các
quy định về thủ tục tố tụng đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là pháp nhân
thương mại trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

KẾT LUẬN
Ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã
thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và ngày 21 tháng 6 năm 2017, tại
kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13. Bộ luật Hình sự
số100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) đánh dấu một bước
tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống

tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ
chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng
hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho
mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta.
Trên cơ sở đánh giátình hình vi phạm pháp luật dopháp nhân thực hiện
diễn ra trong thời gian vừa qua, nhất là các hành vi gây ô nhiễm môi trường,
buôn lậu, trốn thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm, trốn
đóng bảo hiểm cho người lao động... gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi

22


trường sống an lành của người dân và gây mất trật tự, an toàn xã hội; đánh giá
những hạn chế của pháp luật hiện hành khi xử lý pháp nhân vi phạm, đồng thời
nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia cũng như xu thế
chung của việc quy định TNHS của pháp nhân của các nước trên thế giới đối
với hành vi khủng bố và rửa tiền; trên cơ sở cân nhắc một cách thận trọng, có
đánh giá dựa trên những điều kiện cụ thể của Việt Nam, BLHS năm 2015 đã bổ
sung quy định TNHS của các pháp nhân thương mại (tại các điều: Điều 2, Điều
6, Điều 8, Điều 33, các điều từ Điều 74 đến Điều 89; đồng thời xác định cụ thể
điều kiện truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại (Điều 75) và quy định
33 tội phạm (31 tội phạm là các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi trường,
02 tội phạm là tội phạm xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng mà
pháp nhân phải chịu TNHS (Điều 76).
Những nội dung quy định đối với pháp nhân phạm tội trong BLHS
Việt Nam năm 2015 là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, nhưng cũng vô cùng cần
thiết nhằm đảm bảo công bằng và công lý phải được thực thi một cách hiệu
quả. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu một cách toàn diện
và đầy đủ để việc áp dụng pháp luật được chính xác, đặc biệt là cơ quan Tòa

án, với tư cách là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước để ra các bản
án quyết định việc có tội hay không có tội của một pháp nhân thương mại. Đặc
biệt, do đây là một lĩnh vực, một vấn đề rất mới trong thực tiễn xét xử ở Việt
Nam hiện nay, nên các nhà nghiên cứu, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các nội dung đối với pháp nhân
thương mại phạm tội.
Trong tình hình thực tiễn hiện nay, tác giả hy vọng các kết quả nghiên
cứu được đề cập trong Luận văn sẽ đóng góp tích cực cho việc hiểu và áp dụng
các quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong BLHS 2015 được
thống nhất, hiệu quả, đảm bảo công bằng và công lý trong xã hội./.

23


×