VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG XUÂN SƠN
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Phản biện 1: PGS.TS HỒ SỸ SƠN
Phản biện 2: PGS.TS BÙI MINH THANH
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: 13 giờ, ngày 18 tháng 10
năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viên Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây tình hình kinh tế, xã hội của nước ta có
nhiều chuyển biến tích cực, phù hợp với sự phát triển chung trong
khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, nền kinh tế thị
trường đã làm nảy sinh những mặt trái. Tội phạm ngày một gia tăng,
tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm, tinh vi hơn.
Trong các loại tội phạm thì tội phạm xâm hại đến quyền sở hữu
chiếm tỉ lệ lớn.
Đối với Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích lớn thứ 5 và số
dân đông thứ 3 trong cả nước với 27 đơn vị hành chính cấp huyện, thị
xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Thanh Hóa nằm ở vị trí trung chuyển
giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam và nằm trong khu vực
chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vị trí địa lý trở
thành một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội của tỉnh. Đi đôi với sự phát triển thì tình hình tội
phạm trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Trong đó,
tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (LDTNCĐTS) là
một trong những tội phạm xảy ra khá phổ biến gây ra những hậu quả
nguy hiểm cho các quan hệ xã hội. Thực tiễn việc xét xử loại tội
phạm này vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc xác định tội danh,
quyết định hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" hoặc “phi hình sự hóa”
các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế của các cơ quan áp dụng pháp
luật trong hoạt động tố tụng có lúc còn tỏ ra lúng túng, không thống
nhất đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng công tác điều
tra, truy tố, xét xử và là nguyên nhân dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội
phạm. Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của vấn đề này, nhằm góp
phần làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý trong định tội danh,
quyết định hình phạt, bảo đảm tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật
đối với tội danh này trong tình hình hiện nay. Học viên đã mạnh dạn
1
chọn đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội LDTNCĐTS không phải là vấn đề mới và đã có khá nhiều
công trình khoa học, các bài viết đề cập đến loại tội phạm này, như:
TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu,
trong: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam” phần các tội phạm; tập
thể tác giả do GS. TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản –
Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện”; Tác giả
Hoàng Thị Hạnh với công trình nghiên cứu “Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự”. Bên cạnh đó
còn có một số bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, các
nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ
tội phạm học hay dưới góc độ luật hình sự ...Tuy nhiên, chưa có bất
kì một công trình nghiên cứu về thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao
có hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm
LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ Luật hình sự và
làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội LDTNCĐTS. Phân tích thực
trạng áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử đối với tội này,
làm rõ những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội này. Đề xuất các giải pháp khắc
phục.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lí luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2012 - 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lí luận: Điều 140 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009,
so sánh với những quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 và
Điều 175 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; làm rõ lí
luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Về mặt thực tiễn: nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn từ năm 2012 - 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn bản pháp luật của
Nhà nước về các vấn đề tội phạm và hình phạt, về đấu tranh phòng,
chống tội phạm; lý luận về tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng
hình sự.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu bản án, logic, quy
nạp, diễn dịch, mô tả ... và các phương pháp nghiên cứu của khoa học
hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ
hơn lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Về thực tiễn: Có thể là nguồn tài liệu tham khảo trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp
3
những luận cứ khoa học phục vụ cho hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ
luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội LDTNCĐTS, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay và thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1. 1. Lịch sử hình thành và phát triển quy phạm pháp luật hình sự
Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm
1954
Sau khi Hiến pháp năm 1946 được thông qua, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu, đặc
biệt là sở hữu XHCN: Sắc lệnh số 26/SL (25/02/1946) trừng trị các
tội phá hoại tài sản; Sắc lệnh số 233/SL (17/11/1946) trừng trị các tội
phù lạm, biển thủ công quỹ…
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985
4
Thủ tướng chính phủ ban hành Thông tư 442/TTg ngày
19/11/1955, Sắc lệnh 27/SL ngày 28/02/1946
Ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước công bố Sắc lệnh số 267/SL.
Ngày 21/10/1970 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của nhân dân. Thông tư số 213/NCPL ngày
05/5/1973 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ công an; Chỉ thị số 14/TATC ngày 12/7/1974 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 228 của Bộ chính trị…
Ngày 15/3/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976, tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi đó được quy định tại điểm b Điều 4
của Sắc luật này với tên gọi “Bội tín”. Tháng 4/1976 Bộ tư pháp đã ra
Thông tư số 03/TTB/TT hướng dẫn thi hành Sắc lệnh này
1.1.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiêu lực thi
hành
Ngày 17/6/1985 BLHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt
Nam được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1986,
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lúc bấy giờ được quy định
tại Điều 135 và Điều 158. Do phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình đất nước phát triển, BLHS năm 1985 tiếp
tục có bốn lần sửa đổi vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997.
1.1.4. Giai đoạn bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi
hành
Ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X nước CHXHCN Việt
Nam đã thông qua BLHS năm 1999 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2000. Các tội trong chương xâm phạm sở hữu XHCN và
chương xâm phạm sở hữu của công dân đã được nhập lại thành một
chương duy nhất: “Các tội xâm phạm sở hữu”. Ngày 19/6/2009,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
5
họp thứ 5 đã họp và thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 1999. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2010 giá trị tài sản bị
chiếm đoạt tại khoản 1 Điều 140 BLHS năm 1999 đã được thay đổi
từ mức một triệu đồng lên bốn triệu đồng.
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm
Tội LDTNCĐTS là hành vi của chủ thể có năng lực trách
nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật
hình sự đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng hoặc dưới bốn
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xóa án tích bằng các hình thức hợp đồng rồi sử dụng
tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng
hoàn trả lại tài sản hoặc dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
* Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội LDTNCĐTS là quan hệ sở hữu. Chủ thể của
quan hệ sở hữu trong tội LDCĐTS bao gồm Nhà nước, các tổ chức
và công dân. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi
xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu.
* Mặt khách quan của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm
do Luật hình sự quy định, bao gồm những biểu hiện của tội phạm
diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Nội dung mặt
khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
6
* Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 thì chủ thể của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ là người đã đủ 16 tuổi trở lên
và có năng lực TNHS.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, thể
hiện diễn biến tâm lý của bị cáo đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà bị cáo thực hiện, bao gồm: lỗi (cố ý hoặc vô ý), động cơ, mục
đích phạm tội.
1.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
với các giao dịch dân sự, kinh tế và một số tội phạm có liên quan
1.2.1 Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
với các giao dịch dân sự, kinh tế
Tội LDTNCĐTS và các giao dịch dân sự, kinh tế đều có những
điểm giống nhau đó là: các bên đã giao kết xác lập một giao dịch dân
sự, kinh tế hoàn toàn ngay thẳng, hợp pháp dưới hình thức hợp đồng.
Tuy nhiên, để phân biệt tội LDTNCĐTS với các giao dịch dân sự,
kinh tế, phải chứng minh được yếu tố chiếm đoạt hoặc sử dụng tài
sản đó vào mục đích bất hợp pháp, dùng thủ đoạn gian dối, hoặc đến
thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả, bỏ trốn để nhằm chiếm đoạt tài sản đó.
1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
với một số tội danh khác
* Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo
chiếm đạt tài sản:
Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa hai tội này là mục đích
chiếm đoạt xuất hiện trước hay sau khi nhận được tài sản.
Ở tội LDTNCĐTS, người phạm tội nhận được tài sản một cách
ngay thẳng hợp pháp thông qua một giao dịch dân sự, kinh tế; lúc đó
người phạm tội chưa có ý thức chiếm đoạt, chỉ sau khi nhận được tài
7
sản thì họ mới có ý thức chiếm đoạt. Còn ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, việc thông qua các hợp đồng dân sự, kinh tế, chỉ là một dạng của
hành vi lừa đảo và người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản từ
trước.
* Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội
tham ô tài sản
Điểm khác biệt đó là: Chủ thể tội LDTNCĐTS là bất kỳ cá
nhân nào có đầy đủ các dấu hiệu chủ thể của tội phạm hình sự. Còn
chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn và
tại thời điểm thực hiện tội phạm, người đó đang có trách nhiệm quản
lý đối với tài sản bị chiếm đoạt. Và khách thể của tội phạm
LDTNCĐTS là quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ bao gồm tài
sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức và tài sản của Nhà nước.
Nhưng tội tham ô tài sản, hành vi chỉ xâm phạm tới tài sản của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp, tổ
chức ngoài Nhà nước
* Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều
280 BKHS 1999 và Điều 355 BLHS 2015):
Tội LDTNCĐTS với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản của công dân giống nhau ở chỗ: Đều xâm phạm quyền sở
hữu tài sản của công dân; đều là tội cố ý trực tiếp; đều lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân, đều cấu thành vật chất. Khác
nhau đó là: ở tội LDTNCĐTS thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài
sản mình được giao trên cơ sở hợp đồng; còn tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân thì người phạm tội đã
chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ,
quyền hạn của mình
8
1.4. Quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trong sự so sánh với Bộ luật hình sự
năm 2015
Quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của
BLHS năm 2015, điều 175 so với điều 140 BLHS năm 1999:
Một là, thay đổi về nội hàm của khái niệm “hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175 BLHS năm 2015 quy định
thêm hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản, mặc dù có điều kiện, khả
năng trả nhưng cố tình không trả” là dấu hiệu khách quan của tội
LDTNCĐTS.
Hai là, thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt:
BLHS năm 2015 cụ thể hóa một số dấu hiệu định khung điểm
e khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 BLHS năm 1999 là sử
dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất
nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” làm tình tiết
định khung hình phạt. Điều 175 còn bổ sung thêm dấu hiệu định
khung hình phạt mới, đó là tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp”, điểm b, khoản 2; tình tiết gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự an toàn xã hội, điểm b, khoản 3; đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án
về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172,
173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị
hại (khoản 1 điều 175 BLHS năm 2015).
Ba là, thay đổi về các mức hình phạt
BLHS năm 2015, điều 175 bỏ hình phạt tù chung thân trong
một số tội, trong đó có tội “ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Các mức hình phạt quy định tại các khoản 3, 4, 5 điều 175
BLHS năm 2015 đều theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội so
với các khoản 3, 4, 5 điều 140 BLHS năm 1999.
9
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THANH HÓA
2.1. Định tội danh đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
2.1.1.Khái quát lý luận về định tội danh
Định tội danh (ĐTD) là một quá trình nhận thức logic, là hoạt
động tư duy do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện, là
tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cụ thể hóa hình phạt
một cách khách quan chính xác, là việc xác định hành vi cụ thể đã
thực hiện đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm cụ thể tương ứng do Bộ
luật hình sự quy định và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi
phạm tội. Định tội danh bao gồm các quá trình sau:
- Xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể
của hành vi phạm tội được thực hiện trên thực tế. Quá trình này bao
gồm các hoạt động chứng minh và các biện pháp tố tụng khác theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Nhận thức đúng đắn quy định của BLHS và cấu thành tội
phạm tương ứng bao gồm các các yếu tố chủ quan và khách quan của
tội phạm.
10
- Xác định phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể được thực
hiện và cấu thành tội phạm tương ứng.
2.1.2. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh
Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội, vì văn bản
này quy định cấu thành tội phạm mà nhờ đó ta xác định được sự phù
hợp của các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể
được coi là cơ sở thực tế của việc định tội. Điều 2 Bộ luật hình sự
năm 1999 đã quy định nguyên tắc “Chỉ người nào phạm tội đã được
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
2.1.3. Thực trạng việc định tội danh lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
* Khái quát tình hình định tội danh “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Từ năm 2012 đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã
xảy ra 10.187 vụ phạm tội với 19.105 bị cáo, trong đó, vụ phạm tội
LDTNCĐTS là 173 vụ (chiếm 1.69%) với 192 bị cáo (chiếm 1,05%);
số vụ phạm tội LDTNCĐTS có năm tăng, có năm giảm, nhưng nhìn
chung là có xu hướng gia tăng. Nếu so với năm 2012 thì năm 2016 số
vụ phạm tội tăng 1,03%.
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản
Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản tội
LDTNCĐTStừ 2012 – 2016 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chỉ diễn ra
ở các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện với 116 vụ án, không có
vụ án nào diễn ra ở cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh. Phần lớn các
vụ án được định tội danh theo điểm a khoản 1 Điều 140 BLLHS năm
1999. Số ít vụ án có hành vi cấu thành tội phạm tại điểm b khoản 1
Điều 140 BLHS
11
+ Định tội danh theo khách thể của tội phạm: Từ năm 2012 –
2016, các vụ án LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đều xâm
phạm tới tài sản thuộc sở hữu của công dân = 97,1%, còn lại là sở
hữu của nhà nước. Đối tượng chiếm đoạt chủ yếu là tiền, vàng, xe ô
tô, xe máy.
+ Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm: Các vụ án
đã được xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa về tội LDTNCĐTS đều
được diễn ra phổ biến bằng các loại hành như: Vay, mượn tiền, vàng
của bạn bè, người thân để sản xuất kinh doanh nhưng bị thua lỗ nên
dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; Mượn
xe máy, thuê xe ô tô tự lái để phục vụ công việc cá nhân sau đó nảy
sinh ý định chiếm đoạt tài sản, cầm cố tài sản để lấy tiền ăn chơi; Vay
tiền, nợ tiền hàng để sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản.
+ Định tội danh theo chủ thể của tội phạm: Trong 5 năm,
TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã xét xử 192 bị cáo, đều là những
người có năng lực chịu TNHS. Trong đó, tội phạm từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi có 7 người = 3.7%; từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi có 45 bị
cáo = 23.4%; tội phạm chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 30 trở lên, có
140 bị cáo = 72.9%. Trong tổng số người phạm tội thì nam giới
chiếm tỷ lệ cao (178/192 bị cáo= 93.1%), nữ giới chỉ chiếm 6.8%
(14/192 bị cáo).
+ Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm: Thực tiễn
các vụ án truy tố và xét xử tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa từ năm 2012- 2016 cho thấy lỗi của người phạm tội đều là lỗi cố
ý trực tiếp. Họ nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Lúc đầu khi giao kết hợp đồng vẫn mong muốn thực hiện
hợp đồng đó đúng thỏa thuận, chỉ sau khi có được tài sản, ý thức
chiếm đoạt mới hình thành và dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc
12
sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản.
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Tội LDTNCĐTS theo quy định tại Điều 140 BLHS có 3
khung tăng nặng từ khoản 2 đến khoản 4 với nhiều tình tiết định
khung tăng nặng khác nhau, tuy nhiên thực tiễn xét xử trong các năm
2012-2016 TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa chỉ giải quyết xét xử các
vụ án có các tình tiết định khung tăng nặng sau:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến
dưới 200 triệu đồng: có 33/156 vụ án (chiếm 21,15%) và có 43/172
bị cáo (chiếm 25%) được Tòa án hai cấp của tỉnh Thanh Hóa xét xử
sơ thẩm.
Thứ hai, tái phạm nguy hiểm theo Điểm đ khoản 2 Điều 140
BLHS năm 1999; Điểm e khoản 2 Điều 175 BLHS năm 2015: chiếm
số lượng ít, chỉ có 03 vụ án, chiếm 1.7% với 03 bị cáo
Thứ ba, theo Khoản 3 Điều 140 BLHS năm 1999 và Khoản 3 Điều
175 BLHS năm 2015: chiếm tỷ lệ không nhiều, chỉ có 16 vụ = 9,2%
* Tình tiết định khung tăng nặng: Khoản 4 Điều 175 BLHS
năm 2015: Phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên.
Đây là tình tiết định khung tăng nặng cuối cùng của tội
LDTNCĐTS theo quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015.
Trong 5 năm, cấp sơ thẩm TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử 6 vụ, 07 bị
cáo bị truy tố và xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 140 BLHS. Trong
số 6 bản này có 2 bản án xét xử các bị cáo về các tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" trong cùng
một bản án.
Khung áp dụng tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
theo điểm b khoản 4 điều 140 BLHS. Bộ luật hình sự năm 2015 Điều
175 đã phi hình sự hóa tình tiết định khung tăng nặng này
13
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt
* Khái niệm
Quyết định hình phạt (QĐHP) là hoạt động nhận thức và áp
dụng pháp luật hình sự, là giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật
hình sự, do Tòa án có thẩm quyền (với danh nghĩa là Hội đồng xét
xử) nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực
hiện ngay sau khi đã ĐTD và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết
định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ
sung) mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung hình
phạt do luật quy định áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.
* Các căn cứ quyết định hình phạt
Điều 45 BLHS năm 1999; Điều 50 Khoản 1 BLHS năm 2015
quy định: Khi QĐHP, tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân
nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.
Điều 50 BLHS năm 2015 quy định thêm: Khi quyết định áp
dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 của điều này,
tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người
phạm tội.
Khi QĐHP, các căn cứ quyết định hình phạt phải được xem
xét, cân nhắc kỹ lưỡng một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng đối
với từng trường hợp hoàn cảnh cụ thể, không bỏ sót hoặc đánh giá
thiếu chính xác, thiếu khách quan
14
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
TAND tỉnh Thanh Hóa trong thời gian từ năm 2012 đến năm
2016 đã QĐHP đối với 192 bị cáo phạm tội LDTNCĐTS. Trong đó,
cấp sơ thẩm có 172 bị cáo, gồm: cải tạo không giam giữ 02 bị cáo,
cho hưởng án treo 49 bị cáo, tù từ 3 năm trở xuống chiếm số lượng
lớn nhất là 102 bị cáo, tù từ 3 năm đến 7 năm có 11 bị cáo, tù từ trên
7 năm đến 15 năm là 8 bị cáo; cấp phúc thẩm có 20 bị cáo, trong đó
có 01 bị cáo tăng hình phạt, 05 bị cáo giảm hình phạt, 10 bị cáo giữ
nguyên hình phạt, 01 bị cáo chuyển từ án tù sang tù, cho hưởng án;
02 vụ và 02 bị cáo hủy án sơ thẩm để xét xử lại và hủy bản án sơ
thẩm do có tình tiết mới 01vụ với 01 bị cáo
Trong tổng số 192 bị cáo có 02 bị cáo bị áp dụng hình phạt bổ
sung; 07 bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 15 bị cáo là người dân tộc
thiểu số và 01 bị cáo là đảng viên. Trong thời gian trên chưa có bị cáo
nào bị xử phạt trên 15 năm tù giam hoặc bị xử phạt tù chung thân.
Qua phân tích số liệu thống kê và đọc trên 100 bản án, TAND
hai cấp tỉnh Thanh Hóa xét xử theo khoản 1, 2 Điều 140 BLHS năm
1999 là chủ yếu. Tòa án chỉ áp dụng khung hình phạt chính đối với
các bị cáo.
* Quyết định hình phạt theo tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội
Khi QĐHP đối với người phạm tội, ngoài việc căn cứ vào các
quy định của BLHS, Tòa án hai cấp tỉnh Thanh Hóa còn cân nhắc
đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
Tòa án đã dựa vào những tình tiết, tính chất và mức độ lỗi, tính chất
của động cơ phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội.
* Quyết định hình phạt đối với tội“Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” theo đặc điểm nhân thân người phạm tội
15
Để quyết định hình phạt đúng, TAND hai cấp tỉnh Thanh
Hóa đã phân biệt từng trường hợp cụ thể, cân nhắc đầy đủ các đặc
điểm về nhân thân người phạm tội, được thể hiện trong lý lịch bị can,
bị cáo và các tài liệu khác có liên quan. Hình phạt đã tuyên đối với
các bị cáo trong thời gian qua thể hiện mức độ tương xứng với hành
vi của các bị cáo, đã thực hiện trên thực tế, phù hợp với khả năng cải
tạo, giáo dục của bị cáo cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ, thái độ
của họ khi chấp hành pháp luật.
* Quyết định hình phạt theo tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, xác định đúng và đủ các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS.Tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của hành vi
phạm tội nào thì chỉ được áp dụng đối với hành vi phạm tội đó.
Thứ hai, HĐXX trên cơ sở đánh giá toàn diện các tình tiết
trong mối liên hệ thống nhất của toàn bộ vụ án để xác định giá trị
pháp lý và ý nghĩa của từng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS làm
căn cứ quyết định mức độ hình phạt tương xứng trong phạm vi khung
hình phạt.
Thứ ba, ngoài những tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định
tại khoản 1 điều 46 BLHS. HĐXX có quyền coi các tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ ràng trong bản án. Ngược lại,
ngoài những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định
tại khoản 1 điều 48 BLHS thì HĐXX không được coi bất kỳ tình tiết
nào khác là tình tiết tăng nặng TNHS cho bị cáo.
Thứ tư, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 4
điều 46 BLHS. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật quy định. Đối
với các tình tiết tăng nặng TNHS thì Tòa án cũng không được quyết
định hình phạt vượt quá giới hạn mức tối đa của khung hình phạt.
16
* Một số vấn đề vướng mắc trong việc quyết định hình phạt về
tội lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản
- Trường hợp “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”. Trường hợp này
vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn.
- Trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn sau đó ăn chơi,
tiều sài hoang phí dẫn đến không có khả năng trả nợ, lại không bị coi
là phạm tội-trường hợp sử dụng tài sản sai mục đích, sai cam kết ban
đầu dẫn đến không còn khả năng chi trả lại chưa có quy định để xử lý
TNHS.
- BLHS năm 2015 đã khắc phục một phần là: “Nếu đến thời
hạn trả lại tài sản, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả”, nhưng để xác định được căn cứ chứng minh này cần phải
có văn bản hướng dẫn pháp luật áp dụng cụ thể, rõ ràng và thống
nhất.
- Về tình tiết định tội: 4 triệu đồng trở lên nhưng tội lừa đảo
chiếm đoạt chỉ quy định 2 triệu. So với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” thì tính nguy hiểm của tội LDTNCĐTS có tính chất nguy hiểm
và hậu quả xảy ra tương đương nhau.
- Về tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy
đủ các điều kiện sau: Mục 5.1 Nghị quyết 01, ngày 12/5/2016 của
HĐTP TANDTC.
- HIện quy định chưa đầy đủ, hướng dẫn chưa thực tế, chi tiết và
đầy đủ.
17
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰVỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
3.1.1. Những nội dung cần sửa đổi
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy quy định về LDTNCĐTS tại
điều 175 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 còn có
những bất cập hạn chế sau:
- Khoản 1 Điều 175 quy định “… hoặc tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về
mặt tinh thần đối với người bị hại”. Quá trình sửa đổi bổ sung tại kỳ
họp thứ 3 Quốc hội XIV đã bỏ phần: “Hoặc tài sản có giá trị đặc biệt
về mặt tinh thần”. Theo quan điểm của tác giả, ban đầu BLHS năm
2015 bổ sung 2 tình tiết này làm dấu hiệu khách quan của tội
LDTNCĐTS là phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Bản chất của
LDTNCĐTS chính là hành vi “Bội tín”, nên khi bị mất tài đi tài sản,
mặc dù giá trị vật chất của tài sản có thể không lớn nhưng đã làm
người bị hại bị tổn thất lớn lao về mặt tinh thần, đó là giá trị tinh thần
nội tâm.Vì vậy, các nhà làm luật cần xem xét phương án giữ nguyên
quy định tình tiết “… hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần
đối với người bị hại hoặc gia đình họ”.
- Về tình tiết “… Hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”. Tình
tiết nàyđược xem như là một dấu hiệu, căn cứ để xác định hành vi
phạm tội của tội LDTNCĐTS. Trên thực tế, những người nhận được
tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng (vay, mượn,
thuê tài sản) sau đó bỏ trốn sẽ thuộc một trong các trường hợp:
18
Thứ nhất, Vì một lý do nào đó họ không còn khả năng trả lại tài sản,
có thể vì lý do khách quan như, hành vi không trả lại tài sản của người đó
không có lỗi cố ý trực tiếp nên không phải là hành vi chiếm đoạt.
Trường hợp lý do dẫn đến việc người đó không có khả năng trả
lại tài sản là do lỗi chủ quan. Người đó đã sử dụng tài sản vào mục
đích bất hợp pháp là sự định đoạt trái pháp luật của chủ thể đối với
tài sản không phải là của mình, những trường hợp này đã được quy
định là một hành vi khách quan của tội LDTNCĐTS.
Thứ hai, Người đó có hành vi bỏ trốn nhưng có khả năng trả lại
tài sản nhưng bỏ trốn cùng với số tài sản nhận được. Trường hợp này
trùng với trường hợp “đến thời hạn trả lại tài sản, mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” chính hành vi bỏ trốn cùng
số tài sản nhận được đã thể hiện thái độ cố tình không trả của chủ thể
trách nhiệm hình sự.
Khi sửa đổi bộ luật hình sự năm 2017, nhà làm luật lại tiếp tục
hình sự hóa tình tiết “hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”. Để quy
định này thực sự đi vào cuộc sống, tránh tình trạng bỏ lọt người phạm
tội; làm oan người vô tội hoặc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần thiết phải có văn bản
hướng dẫn cụ thể về tình tiết này để pháp luật được áp dụng thống
nhất và cụ thể.
Thực tế LDTNCĐTS còn là hành vi không có khả năng trả lại
tài sản do người phạm tội sử dụng tài sản không đúng mục đích, điều
luật hiện hành chỉ xử lý hình sự hành vi sử dụng tài sản vào mục đích
bất hợp pháp. Thực tế quy định như vậy chưa đủ, hiện nay có nhiều
trường hợp đi vay nhưng sử dụng không đúng mục đích dẫn đến việc
mất khả năng chi trả, gây hậu quả xấu nhưng không xử lý được vì họ
không gian dối, không bỏ trốn và không sử dụng tài sản vào mục đích
bất hợp pháp. Để ngăn chặn tình trạng này cần hình sự hóa hành vi
19
vay tiền nhưng sử dụng không đúng mục đích dẫn đến mất khả năng
chi trả.
- Đối với tình tiết định khung “dùng thủ đoạn xảo quyệt”:Việc
đánh giá trong trường hợp cụ thể trường hợp nào là gian dối thông
thường và trường hợp nào là gian dối ở mức độ xảo quyệt rất khó
khăn, do vậy tình tiết này thực tế chưa được áp dụng nhiều nên cần
được xem xét để phi hình sự hóa tình tiết này.
- Cần ban hành các văn bản pháp luật thông tư hướng dẫn áp
dụng các quy định của BLHS:
+ Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể tội LDTNCĐTS xác định
rõ hành vi chiếm đoạt và các thủ đoạn để chiếm đoạt. Phân biệt
chiếm đoạt với các trường hợp vi phạm nghĩa vụ thanh toán và cần
bổ sung thêm các thủ đoạn chiếm đoạt khác.
+ BLHS năm 2015 đã hình sự hóa hành vi “đến thời hạn trả lại
tài sản, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”
thành một hành vi khách quan của tội LDTNCĐTS. Tuy nhiên, cần
có văn bản hướng dẫn phải xác định rõ cụ thể hành vi này, xác định
thế nào được coi là có điều kiện? có khả năng trả lại tài sản?
- Cần phải sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp
để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động giám định, định giá
tài sản.
3.1.2. Ban hành án lệ
Cần phải phát triển án lệ nhằm tránh sự tùy tiện của các cơ
quan tiến hành tố tụng khi xử lý hành vi phạm tội giúp cho các Thẩm
phán đối chiếu, tham khảo để đưa ra phán quyết đúng, góp phần làm
kết quả xét xử của tòa án được khách quan, chính xác, công bằng,
đúng pháp luật.
3.1.3. Cần quy định niềm tin nội tâm là căn cứ để quyết định
hình phạt
20
Bộ luật hình sự hiện quy định 4 căn cứ để QĐHP, gồm: Căn
cứ vào các quy định của BLHS; căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ vào nhân thân người
phạm tội; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Theo tác giả, các nhà làm luật cần nghiên cứu để ghi nhận
thêm một căn cứ để quyết định hình phạt đó là “niềm tin nội tâm”.
Bởi vì: Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật được quy định trong các bản hiến pháp của Việt Nam và
các đạo luật khác được ban hành như BLTTHS, BLTTDS; không phụ
thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các nhận định
đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Khi giải thích, áp dụng
các chuẩn mực, thẩm phán cần hành động dựa vào pháp luật và niềm
tin nội tâm. Niềm tin chính là bộ lựa chọn thông tin và chỉ lối cho
mọi hành động, nó được xuất phát từ những gì mình cho là đúng và
niềm tin nội tâm được hình thành bên trong trái tim của những người
hành nghề luật, nhất là đối với các Thẩm phán, những người có vai
trò cầm cân nảy mực để đưa ra những phán quyết thực sự công tâm,
khách quan, chính xác và chủ động khi đưa ra các phán quyết để đảm
bảo được tính nhân đạo và công bằng của pháp chế XHCN
3.2. Giải pháp về pháp luật
Đây là một trong những giải pháp căn bản và lâu dài. Việc
thực hiện đúng pháp luật là một trong những giải pháp bảo đảm quan
trọng để khắc phục, hạn chế và loại trừ nguyên nhân và điều kiện của
tội phạm trong đó có tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Mặt khác cũng cần tăng cường công tác giáo dục ý thức tôn trọng tài
sản của người khác cho mọi người dân.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể thường
xuyên tuyên truyền đến các thành viên của tổ chức mình và các thành
viên khác trong xã hội về tác hại của các tệ nạn xã hội.
21
Cán bộ làm công tác chuyên môn cần phải khẩn trương tiến
hành việc điều tra, phát hiện, truy tố và xét xử nhanh chóng, kịp thời,
chính xác và nghiêm minh đối với tội phạm.
Cần hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường, cải cách, nâng
cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến giải quyết các tranh
chấp, dân sự, kinh tế, không ngừng sửa đổi, bổ sung BLTTHS,
BLHS; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, thường xuyên kiểm
tra, giám sát các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn các quy định của pháp
luật hình sự là căn cứ quan trọng nhất để đảm bảo cho việc định tội
danh và quyết định hình phạt được khách quan, chính xác, công bằng
và đúng pháp luật.
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực nhận thức và trình độ
chuyên môn, kỹ năng vận dụng quy định pháp luật hình sự về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần thường xuyên tổ chức
các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực thực hiện, tuyên truyền, giáo dục đào tạo nghề nghiệp cho
cán bộ ngành mình nhằm nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng
quy định của pháp luật.
- Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức chính trị, học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực thực tiễn, phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời đại ngày nay.
- Cần tăng cường cơ chế phối hợp hoạt động qua các cơ quan
tiến hành tố tụng. Duy trì việc tổ chức giao ban định kỳ đối với liên
ngành, thông qua đó tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đi đến phương
án xử lý chính xác, đúng pháp luật
22
- Công khai các bản án đã có hiệu lực pháp luật để đảm bảo
tính khách quan, minh bạch đối với mỗi quyết định của cơ quan được
nhân danh Nhà nước, giúp nhân dân theo dõi và giám sát một cách
thiết thực việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, phổ biến chia
sẻ kinh nghiệm làm việc giải quyết các vụ việc hình sự nói chung và
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng
- Tăng cường đầu tư trang bị các thiết bị, phương tiện cơ sở vật
chất để hỗ trợ tốt cho quá trình điều kiện làm việc cải cách chế độ
tiền lương, bảo đảm cuộc sống cho đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng.
3.4. Giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý điều
hành
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao chất lượng
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ, tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra cán bộ trong việc thực hiện quy
chế nghiệp vụ. Xử lý nghiêm minh các vi phạm trong công tác của
các đơn vị và cán bộ công chức; loại bỏ, xa thải khỏi ngành những
cán bộ thoái hóa, biến chất, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên
môn. Nâng cao hơn nữa vị trí vai trò cũng như trách nhiệm của các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh trật tự xã
hội: Công tác quản lý hành chính về TTXH như: đăng ký hộ khẩu
thường trú, tạm trú phải luôn chú trọng, có những biện pháp nghiêm
khắc đối với những cá nhân, tổ chức không chấp hành. Đồng thời
thực hiện tốt công tác cấp phát, quản lý giấy chứng minh thư nhân
dân. Tăng cường hiệu lực quản lý các ngành nghề dịch vụ, nhất là
dịch vụ cầm đồ. Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ trong hoạt động giữa các
cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị xã
hội và công dân trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và tội LDTNCĐTS.
23