Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư khu công nghiệp Samsung, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU HÀ

DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NỮ
CÔNG NHÂN NHẬP CƯ KHU CÔNG NGHIỆP SAMSUNG,
TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ CHĂM
SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NỮ CÔNG NHÂN NHẬP CƯ . 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 12
1.2. Khái niệm “Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối
với nữ công nhân nhập cư” ............................................................................. 18
1.3. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ................................................ 20
1.4. Luật pháp, chính sáchhỗ trợ sức khỏe sinh sản đối với nữ công nhân nhập
cư. .................................................................................................................... 25
Chương 2 THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ SINH
SẢN ĐỐI VỚI NỮ CÔNG NHÂN NHẬP CƯ TẠI KHU CÔNG NGHIỆP
SAMSUNG, TỈNH BẮC NINH.................................................................... 32
2.1. Đặc điểm địa bàn, khách thể nghiên cứu ................................................. 32
2.2. Thực trạng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với nữ công nhân
nhập cư ............................................................................................................ 36


2.3. Các yếu tố tác động đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với nữ
công nhân nhập cư........................................................................................... 45
Chương 3 ỨNG DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG CUNG
CẤP KIẾN THỨC VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NHÓM NỮ
CÔNG NHÂN NHẬP CƯ............................................................................. 48
3.1. Mục đích can thiệp ................................................................................... 49
3.2. Thành lập nhóm........................................................................................ 49
3.3. Các hoạt động can thiệp ........................................................................... 51
3.4. Kết thúc và lượng giá tiến trình can thiệp ................................................ 62
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH

Công tác xã hội

SKSS

Sức khỏe sinh sản

CSYT

Cơ sở y tế

SKTD

Sức khỏe tình dục


DVXH

Dịch vụ xã hội

CTQG

Chương trình quốc gia

NKĐSS

Nhiễm khuẩn đường sinh sản

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

LTQĐTD

Lây truyền qua đường tình dục


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Phân cấp nhu cầu theo mức của Maslow ..................................... 21
Bảng 2.1 Mức độ hài lòng của nữ công nhân nhập cư về hoạt động tham
vấn, tư vấn ............................................................................................... 37
Bảng 2.2 Mức độ tiếp cận dịch vụ tham vấn, tư vấn của nữ công nhân nhập
cư ................................................................................................................. 38
Bảng 2.3 Mức độ tham gia hoạt động truyền thông, tập huấn nâng cao nhận
thức của nữ công nhân nhập cư ................................................................... 40

Bảng 2.4 Mức độ hài lòng về hoạt động truyền thông, tập huấn nâng cao
nhận thức của nữ công nhân nhập cư ........................................................... 41
Bảng 2.5 Mức độ hài lòng của nữ công nhân nhập cư về hoạt động kết nối
nguồn lực ..................................................................................................... 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong rất nhiều các mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước quan
tâm thì vấn đề sức khoẻ con người luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi việc đảm
bảo tốt công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản sẽ tạo ra một lực lượng lao động
có chất lượng cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và xã hội đáp ứng yêu cầu của
một nước đang phát triển theo định hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Xã
hội phát triển, nhu cầu chăm sóc SKSS của con người được nâng cao, cũng
chính vì thế nhu cầu tìm hiểu những thông tin xung quanh việc chăm sóc
SKSS cũng ngày càng được quan tâm.
Nữ công nhân nhập cư là những người đóng góp lớn cho sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước. Đây là đối tượng dễ bị tổn thương chịu nhiều thiệt thòi.
Mặc dù địa phương đã triển khai nhiều chính sách, Nhà nước đã có giải pháp
hỗ trợ cho nhóm đối tượng này nhưng phần đông đời sống của họ vẫn còn gặp
nhiều khó khăn. Chính vì gánh nặng về kinh tế, nên nữ công nhân nhập cư
không có đủ điều kiện để tìm hiểu thông tin về cách chăm sóc sức khoẻ, cách
bảo vệ mình trước những nguy cơ về sức khoẻ sinh sản có thể xảy ra trong
cuộc sống. Hệ luỵ không tốt của việc thiếu kiến thức về SKSS sẽ đem lại hậu
quả xấu như mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, trẻ em bị bỏ rơi,…tạo
gánh nặng cho xã hội như nạn mại dâm, ma tuý hay các bệnh lây truyền qua
đường tình dục khác.Chăm sóc SKSS không những giúp nữ công nhân nhập
cư có một cơ quan sinh sản khoẻ mạnh, sẵn sàng cho cuộc sống hôn nhân, gia
đình hạnh phúc mà còn giúp các chị có được trạng thái tinh thần thoải mái và
hoà hợp với xã hội.

Tại khu công nghiệp Samsung, tỉnh Bắc Ninh với cơ cấu nữ công nhân
chiếm hơn 60%; 37% là lao động nhập cư đang trong độ tuổi sinh sản và
1


trung bình mỗi năm có khoảng trên 200 phụ nữ nghỉ chế độ thai sản thì nhu
cầu về chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư là rất lớn.
Chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho nữ công nhân nhập cư là trang bị cho họ sự
hiểu biết về sự phát triển của cơ thể, về sự phát triển giới tính, an toàn tình
dục, hiểu được bản chất con người trong mối quan hệ tình dục.
Tuy nhiên hiện nay, nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp
Samsung còn gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận về giáo dục kĩ năng sống, chăm
sóc SKSS, KHHGĐ. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của
vấn đề xã hội trên, tôi chọn đề tài “Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối
với nữ công nhân nhập cư khu công nghiệp Samsung, tỉnh Bắc Ninh” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Mong rằng đề tài không những đưa ra
một bức tranh chi tiết về thực trạng thực hiện dịch vụ chăm sóc SKSS cho nữ
công nhân nhập cư tại một khu vực cụ thể mà còn đề xuất những giải pháp
can thiệp dưới cách tiếp cận của CTXH nhằm cung cấp cho nữ công nhân
nhập cư kiến thức về chăm sóc SKSS cho bản thân mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát
triển ở Cairo (1994) đã ghi nhận 13 thành tố của SKSS, căn cứ vào tình hình
cụ thể của đất nước, Việt Nam đã chọn 7 nội dung cơ bản về SKSS như sau:
1. Quyền sinh sản
2. Kế hoạch hóa gia đình
3. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS
4. Sức khỏe sinh sản vị thành niên
5. Nạo, hút thai
6. Làm mẹ an toàn

7. Bình đẳng giới trong chương trình sức khỏe sinh sản
2


Nghiên cứu thực trạng ban đầu về “Cung cấp và sử dụng dịch vụ Chăm
sóc SKSS” tại 7 tỉnh UNFPA thuộc CTQG7 được tiến hành từ tháng 11 năm
2015 đến tháng 2 năm 2016 theo thiết kế mô tả cắt ngang {Bộ y tế, 2006}.
Trong số 7 tỉnh điều tra, có 4 tỉnh đã tham gia CTQG6 đó là: Hà Giang, Phú
Thọ, Hòa Bình, Tiền Giang còn 3 tỉnh mới bắt đầu tham gia là Ninh Thuận,
Kon Tum và Bến Tre. Mục đích của điều tra là mô tả thực trạng cung cấp và
sử dụng dịch vụ chăm sóc SKSS ở 7 tỉnh, đồng thời xác định các chỉ số hỗ trợ
công tác theo dõi và giám sát của việc thực hiện dự án ở các tỉnh trong CTQ7,
làm cơ sở cho đánh giá tác động của CTQG 7 tỉnh. Kết quả nghiên cứu cho
thấy rằng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và thuốc thiết yếu phục vụ chăm sóc SKSS
tại các cơ sở y tế được điều tra còn hạn chế, thiếu nhiều so với qui định chuẩn
của quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS, đặc biệt là ở tuyến xã.Kiến thức
chuyên môn của người cung cấp dịch vụ là tương đối tốt nhưng không phải là
toàn diện. Kiến thức, thái độ và hành vi của cán bộ được phân công theo
dõi/quản lý chương trình SKSS và chương trình Dân số- Kế hoạch hóa gia đình
và cán bộ trực tiếp làm công tác truyền thông về Dân số/SKSS ở cả 3 tuyến
tỉnh/huyện/xã chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiến thức, thái độ và hành vi
về chăm sóc SKSS của phụ nữ 15-49 tuổi đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi, nam
giới có vợ từ 15-49 tuổi đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi. Tuy nhiên, kết quả ở
các tỉnh đã tham gia CTQG7 được cải thiện hơn so với những tỉnh mới bắt đầu
tham gia vào CTQG7.Mối quan hệ giữa cung cấp dịch vụ và sử dụng dịch vụ
chăm sóc SKSS tương đối tốt, ở các tỉnh đã tham gia CTQG6 được cải thiện hơn
so với những tỉnh mới bắt đầu được tham gia vào CTQG7.
Những kết quả trên cho thấy, thiếu các yếu tố cơ sở vật chất, trang thiết
bị, thuốc thiết yếu cho cơ sở y tế các tuyến, đặc biệt là tuyến xã. Cần đào tạo
lại kiến thức cũng như kĩ năng thực hành chuyên môn chăm sóc SKSS cho

người cung cấp dịch vụ; trang bị đầy đủ kiến thức cho cán bộ quản lý chương
3


trình và trực tiếp truyền thông về chăm sóc SKSS, DS-KHHGĐ; thông tin giáo dục - truyền thông cho cộng đồng liên quan đến chăm sóc SKSS là rất
quan trọng nhằm tăng cường mức độ tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS.
Phan Thị Mai Hương, Viện Tâm lí học làm chủ nhiệm (2011),“Báo cáo
kết quả nghiên cứu về công nhân”. Đề tài đã thực hiện khảo sát với những
công nhân trên cả ba miền đất nước về vấn đề kinh tế xã hội. Nghiên cứu này
đã chỉ ra rằng người công nhân có sự quan tâm đối với các vấn đề lớn của đất
nước nhưng nhận thức còn chưa thực sự đầy đủ, còn có những hạn chế. Các
thông tin về những vấn đề lớn, được nhiều người quan tâm được công nhân
tiếp nhận chủ yếu qua các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền
hình, đài, báo chí. Thậm chí ngay cả việc tiếp thu thông tin qua các phương
tiện truyền thông đại chúng cũng không phải là nhiều, do phần lớn thời gian
công nhân dành để làm việc, làm tăng ca, do người công nhân còn phải lo cho
cuộc sống hàng ngày, lo kiếm sống. Vì vậy, thông tin thu được cũng không
phải là nhiều. Bên cạnh đó trình độ học vấn của người công nhân nói chung
chưa cao nên điều này cũng ảnh hưởng đến nhận thức của họ.
Nhóm tác giả Lê Thị Kim Ánh và cộng sự (2012) nghiên cứu về việc sử
dụng dịch vụ khám chữa nhiễm khuẩn đường sinh sản của 291 phụ nữ di cư
tuổi 18-49 lao động tại khu công nghiệp Sài Đồng (Hà Nội) chỉ ra rằng điều
kiện sống của các lao động này còn khá hạn chế, sử dụng nước máy khoan,
nhà vệ sinh chung. Chỉ có 55/291 đối tượng phụ nữ di cư đã khám chữa bệnh
đường nhiễm khuẩn đường sinh sản (NKĐSS) tại cơ sở y tế (CSYT) trong
vòng 6 tháng trước tại thời điểm nghiên cứu. Phụ nữ di cư lao động tại các
khu công nghiệp thường trẻ, trong độ tuổi sinh sản và chưa có gia đình. Việc
sử dụng các dịch vụ y tế trong khám chữa bệnh NKĐSS tại các CSYT còn
hạn chế do nhiều nguyên nhân. Nghiên cứu này đã nêu ra các nguyên nhân
liên quan đến bản thân nữ lao động di cư như trình độ học vấn thấp, thu nhập

4


hàng tháng,… Việc e ngại hoặc xấu hổ khi sử dụng dịch vụ khám chữa
NKĐSS tại các CSYT có thể dẫn đến việc nữ lao động di cư lựa chọn việc
điều trị bằng cách tự mua thuốc tại các nhà thuốc. Việc tự điều trị hoặc mua
thuốc điều trị chi phí có thấp hơn, ít kỳ thị hơn.Tuy nhiên điều này dẫn đến
khả năng chữa khỏi bệnh của các đối tượng là không cao.Nghiên cứu cũng
cho thấy tuổi liên quan đến NKĐSS tập trung ở độ tuổi 31-40. Kết quả nghiên
cứu này gợi ý cho việc tăng cường cung cấp bảo hiểm y tế cho các đối tượng
nữ lao động di cư làm việc trong các khu công nghiệp nói riêng, ngoài ra còn
cải thiện điều kiện sống, thu nhập, nâng cao kiến thức thái độ của các đối
tượng là điều kiện vô cùng cần thiết.
Tác giả Bế Trung Anh ( 1999) khi nghiên cứu về hành vi chăm sóc sức
khỏe và SKSS của phụ nữ ở một xã của tỉnh Thái Nguyên chỉ ra rằng phụ nữ
nơi đây còn quan niệm lạc hậu về chăm sóc sức khỏe sinh sản, không có chế
độ dinh dưỡng đầy đủ, trong suốt quá trình mang thai vẫn phải đảm đương
các công việc nặng nhọc. Điều này ảnh hưởng từ quan niệm phụ nữ có thai
nên làm những công việc nặng để sinh con dễ hơn. Sau khi được tuyên truyền
họ cũng tự đi tìm các CSYT để khám thai, tiêm phòng uốn ván khi mang thai.
Yếu tố khả năng chi trả cho việc khám chữa bệnh có vai trò quan trọng, mức
sống cao làm tăng hành vi tích cực chăm sóc SKSS của người phụ nữ. Ngoài
ra sự phức tạp địa hình ở nơi cư trú cũng gây khó khăn cho việc tiếp cận dịch
vụ chăm sóc SKSS.
Bài viết “Tìm hiểu rào cản tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản của nữ công nhân di cư và các mô hình can thiệp” của tác giả Vũ
Thị Hoàng Lan (2012) phân tích rào cản của văn hóa xã hội và chính sách
trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS của nữ lao động di cư và rà soát các
mô hình can thiệp chăm sóc SKSS cholao động nữ di cư. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra các rào cản tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS bao gồm thiếu khuôn khổ

5


pháp lý bảo vệ người di cư, bảo hiểm y tế, thái độ của chính quyền với người
di cư, tình trạng cư trú lao động, thời gian làm việc dài, thu nhập thấp, chi phí
khám chữa bệnh cao, thiếu hiểu biết về SKSS, SKTD. Các mô hình can thiệp
hiện tại chưa giải quyết được các rào cản một cách toàn diện, tính bền vững
của mô hình còn thấp. Những kết quả nghiên cứu về khách thể nghiên cứu là
nữ công nhân di cư – người lao động tại các khu công nghiệp có giá trị lớn
đối với việc thực hiện luận văn này.
Luận văn thạc sỹ “Việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS của lao động
nữ tại thị xã Lộc Bảo huyện Bảo Lâm tỉnh Lâm Đồng” của Trần Nguyễn
Tường Oanh (2009) cho thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói là do
trình độ học vấn còn thấp, nhận thức kém, tính ỷ lại và trông chờ vào sự hỗ
trợ của nhà nước. Môi trường sống cuả lao động nữ không đủ điều kiện, nước
không đảm bảo, nhà vệ sinh ẩm thấp. Họ chưa nhận thức được tầm quan trọng
của việc chăm sóc SKSS mặc dù đã có sự tuyên truyền của nhân viên y tế.Họ
vẫn giữ và tin vào các phong tục tập quán, tin vào thầy bói, thầy cúng trong
chữa bệnh. Ngoài ra một số nguyên nhân khách quan phải kể đến đó là
nguyên nhân từ phía dịch vụ chăm sóc SKSS cũng góp phần ảnh hưởng đến
việc tiếp cận dịch vụ đó chính là thái độ làm việc, thái độ đối xử với bệnh
nhân của cán bộ y tế chưa đúng mực và còn nhiều hạn chế.
Luận văn thạc sỹ “ Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ
sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Đức Cơ,
tỉnh Gia Lai” của Bùi Thị Tình (2016) đã đưa ra được những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản
đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số, đó là: giải pháp về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, thuốc thiết yếu, khoa học công nghệ; giải pháp tăng cường công tác
quản lý trong công tác chăm sóc sức khoẻ đối với phụ nữ dân tộc thiểu số;
giải pháp nâng cao tính sẵn có chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ

6


trẻ em; giải pháp nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ hành vi người dân
trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản với phụ nữ người dân tộc. Ngoài ra luận
văn cũng ứng dụng công tác xã hội nhóm vào dịch vụ công tác xã hội chăm
sóc sức khoẻ sinh sản phụ nữ dân tộc thiểu số.
Từ những tổng quan nghiên cứu trên cho thấy đã có nhiều công trình
nghiên cứu về nữ công nhân và nghiên cứu chăm sóc SKSS cho phụ nữ
nhưng đề tài nghiên cứu về dịch vụ CTXH trong chăm sóc SKSS đối với nữ
công nhân nhập cư còn chưa nhiều. Chính vì vậy, tác giả tiếp cận đề tài
nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ thực trạng hiểu biết của nữ công nhân nhập cư
về chăm sóc SKSS cũng như nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH trong chăm sóc
SKSS đối với nữ công nhân nhập cư.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm đánh giá thực trạng thực hiện dịch vụ chăm sóc SKSS đối
với nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Samsung.Căn cứ vào đó để áp
dụng phương pháp CTXH nhóm trong cung cấp kiến thức về SKSS cho nữ
công nhân nhập cư.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về dịch vụ chăm sóc SKSS đối với nữ công
nhân nhập cư.
- Đánh giá thực trạng dịch vụ chăm sóc SKSS đối nữ công nhân nhập
cư tại khu công nghiệp Samsung.
- Ứng dụng CTXH nhóm trong cung cấp kiến thức về SKSS đối với
nhóm nữ công nhân.
- Đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ chăm sóc SKSS đối với nữ công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp.
7



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư khu công nghiệp.
- Khách thể nghiên cứu:
+ 200 nữ công nhân nhập cư đang trong độ tuổi sinh sản (18-49)
+ Cán bộ công đoàn
+ Cán bộ y tế
+ Cán bộ sử dụng lao động
- Phạm vi nghiên cứu.
+ Phạm vi thời gian: thời gian nghiên cứu sẽ được thực hiện trong vòng
4 tháng (từ tháng 5/2017 đến hết tháng 8/2017).
+ Phạm vi không gian: đề tài được tiến hành tại khu công nghiệp
Samsung (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, có nghĩa tôn trọng khách quan khi xem xét, kiến giải sự
vật, hiện tượng, mọi sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ,
ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Đồng thời,
sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn
vận động và phát triển chung của xã hội.
Cùng với đó là hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về bảo vệ và giúp phụ nữ phát triển. Trong đó đáng chú ý là các quan
điểm như: Văn kiện Đại hội XII của Đảng (tháng 01-2016) xác định phương
hướng: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ.
Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp, chính sách đối với lao động nữ,
8



tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình; Chiến
lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 22 tháng 12 năm 2000): Để thực hiện mục tiêu chiến lược, nhiều giải
pháp về truyền thông - giáo dục thay đổi hành vi và chăm sóc SKSS/KHHGĐ
đã chú trọng tới nhiều đối đối tượng trong đó có phụ nữ; Chiến lược Dân số
và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt ngày 14 tháng 11 năm 2011): Để thực hiện mục tiêu tổng quát
“Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì
mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân
bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”
5.2. Phương pháp thu thập thông tin
5.2.1 Phương pháp phỏng vấn sâu
Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua hỏi và đáp. Người
nghiên cứu đặt ra câu hỏi cho đối tượng khảo sát, sau đó ghi lại hoặc ghi âm
lại những gì mà người nghiên cứu thu được. Phương pháp này được sử dụng
để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, quan điểm,
chính kiến của đối tượng được phỏng vấn.
Phỏng vấn được sử dụng trong bài báo cáo này cho các đội tượng sau:
 Cán bộ công đoàn (10 người)
 Cán bộ y tế (10 người)
 Cán bộ sử dụng lao động (5 người)
 Nữ công nhân (10 người ) ( Được chọn ngẫu nhiên nữ công nhân
trong độ tuổi sinh sản 18-49)
5.2.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Tác giả đã thiết kế nội dung bảng hỏi ( Đính kèm ở phần Phụ lục) nhằm
mục đích thu thập thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu đã
9



phát ra 200 phiếu trưng cầu ý kiến với khách thể là các nữ công nhân nhập cư
tại nhà máy 1 khu công nghiệp Samsung nhằm tìm hiểu hiểu biết của nữ công
nhân về SKSS và các hoạt động CTXH trong chăm sóc SKSS của công ty đối
với nữ công nhân nhập cư.
Tại nhà máy 1 của khu công nghiệp Samsung có tất cả 4500 công nhân
trong đó có 1623 nữ công nhân nhập cư. Tác giả đánh số thứ tự từ 1 đến 1623.
Như vậy cứ tính từ người thứ nhất thì người có số thứ tự thứ 81 sẽ là người
được chọn để trả lời bảng hỏi. Người tiếp theo sẽ tính từ số thứ tự người được
chọn + 80. Cứ như vậy cho đến hết 1623 nữ công nhân nhập cư.
5.2.3 Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã đọc và phân tích một số tài liệu
liên quan đến dịch vụ chăm sóc SKSS nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu đề tài trên một phần là củng cố tri thức, phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội cho người nghiên cứu. Đồng thời đề tài sẽ làm
phong phú thêm phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực nghiên cứu cho công tác xã
hội.Một mặt nghiên cứu này muốn kiểm nghiệm tính ứng dụng của lý thuyết
hệ thống và các lý thuyết nhu cầu của Maslow để tìm hiểu mức độ cần thiết
của dịch vụ chăm sóc SKSS đối với nữ công nhân nhập cư.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Công tác xã hội là bộ môn khoa học luôn đi sát với thực tiễn và nhằm
giúp phát triển xã hội theo hướng tích cực. Nghiên cứu cũng vận dụng những
kiến thức của bộ môn Xã hội học trong vịêc thu thập thông tin và sử lý số liệu
để tìm hiểu về thực trạng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với nữ công
nhân nhập cư. Qua đó đưa ra những nét khái quát nhất về thực trạng cũng như
nhu cầu của nữ công nhân nhập cư về vấn đề chăm sóc SKSS. Căn cứ vào
10



những thực tiễn đó để có thể đưa ra những giải pháp và khuyến nghị lên các
ban ngành có liên quan.
Mặt khác từ vấn đề nghiên cứu có thể vận dụng những kiến thức của
công tác xã hội để đánh giá mức độ đáp ứng của các dịch vụ CTXH nhằm trợ
giúp nữ công nhânnhập cư trong vấn đề chăm sóc SKSS.Đồng thời từ những
kiến thức về CTXH có thể đề xuất ra những giải pháp , khuyến nghị để khắc
phục những mặt hạn chế, phát huy những mặt tích cực của các dịch vụ CTXH
đã có. Hơn thế nữa, trong quá trình nghiên cứu cũng rút ra được kiến thức
cũng như kỹ năng và phương pháp làm việc phù hợp và hiệu quả nhất đối với
nữ công nhân nhập cư cho nhân viên CTXH trong vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; mục lục; danh mục tài
liệu tham khảo; đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với nữ
công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Samsung, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Ứng dụng công tác xã hội nhóm trong cung cấp kiến thức
về sức khỏe sinh sản đối với nhóm nữ công nhân nhập cư.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NỮ CÔNG NHÂN NHẬP CƯ

1.1.


Một số khái niệm cơ bản

1.1.1 Khái niệm dịch vụ
Theo từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công.
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương
tự như hàng hóa như phi vật chất. Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của
dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang,
chăm sóc sức khỏe… và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích
cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với
sản phẩm vật chất.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc
độ khác nhau nhưng theo quan điểm của tác giả:
“Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình)
như hàng hóa nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội”.
1.1.2 Khái niệm sức khỏe sinh sản
SKSS là một phần rất quan trọng của sức khỏe.Khi bàn về sức khỏe là
nói đến 60% công việc của ngành y tế. SKSS gắn liền với toàn bộ cuộc đời
của con người, từ lúc bào thai cho đến khi tuổi già.
Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (Ai Cập) 1994
đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe sinh sản như sau: “Sức khỏe sinh sản là một
12


tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những
gì liên quan tới hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không chỉ

đơn thuần là không có bệnh tật hoặc tàn phế trong bộ máy đó”
Điều này hàm ý là mọi người kể cả nam và nữ đều có quyền nhận được
thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các biện pháp KHHGĐ
an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp tùy theo sự lựa chọn của họ đảm bảo
cho phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng
những điều kiện tốt nhất để có những đứa con khỏe mạnh.
Cũng trong chương trình hành động của hội nghị đã nêu rõ: “SKSS là
trạng thái sung mãn hoàn toàn về thể chất, tinh thần, xã hội và không chỉ là
không có bệnh tật hay không bị tàn phế về tất cả những gì liên quan đến hệ
thống, chức phận và quá trình sinh sản”. Như thế, SKSS có nghĩa là mọi
người có thể có cuộc sống tình dục an toàn hài lòng, họ có khả năng sinh sản,
tự do quyết định sinh con hay không, sinh con khi nào và sinh bao nhiêu con.
Hiện nay, các nội dung SKSS ưu tiên chung trong chương trình mục
tiêu quốc gia là: quyền sinh sản; KHHGĐ; làm mẹ an toàn; phòng tránh các
bệnh lây nhiễm qua đường sinh sản, lây qua đường tình dục và HIV/AIDS;
chăm sóc SKSS vị thành niên; bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS.
1.1.3 Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản
Theo Hội nghị Y tế thế giới Alm-Ata thì chăm sóc sức khỏe là những
chăm sóc thiết yếu với kĩ thuật thích hợp được mang tới cho mỗi người trong
mọi gia đình, được cộng đồng chấp nhận và tham gia với những chi phí rẻ
nhất. Do đó, chăm sóc sức khỏe là sự thường xuyên quam tâm làm một việc
nào đó, chăm sóc sức khỏe chính là hoạt động thường xuyên, liên tục để đạt
đến một trạng thái hoàn hảo về sức khỏe, đó là sự sảng khoái về thể chất, tinh
thần và các quan hệ xã hội. Hoạt động này có thể là tự bản thân chăm sóc
hoặc là sự quan tâm, giúp đỡ người khác.
13


Trong Hội nghị Alm-Ata cũng đã đưa ra khái niệm về chăm sóc sức
khỏe ban đầu như sau: “Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những sự chăm sóc

thiết yếu xây dựng trên những phương pháp và kĩ thuật thực hành, có cơ sở
khoa học và chấp nhận được về mặt xã hội; có thể phổ biến rộng rãi cho tất cả
các cá nhân và gia đình của cộng đồng xã hội cùng tham gia đầy đủ với một
giá mà cộng đồng nước đó có thể chịu đựng được ở một giai đoạn phát triển
của họ và theo tinh thần tự giác, tự nguyện.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các biện pháp, kĩ thuật và
dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa và
giải quyết những vấn đề về sức khỏe sinh sản, nó bao gồm: sức khỏe tình dục
với mục đích đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, tư vấn, chăm sóc
liên quan đến vấn đề sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Như vậy, chăm sóc SKSS đối với nữ công nhân khu công nghiệp là quá
trình sử dụng các biện pháp, kĩ thuật, dịch vụ góp phần nâng cao, phòng ngừa
và giải quyết các vấn đề về sức khỏe sinh sản cho nữ công nhân.
1.1.4 Khái niệm nữ công nhân nhập cư
Khái niệm nữ công nhân nhập cư
Theo từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia: “Phụ nữ hay đàn bà là từ chỉ
giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ một người trưởng
thành, còn “con gái” thường được dùng chỉ đến trẻ gái nhỏ hay mới lớn”.
Nữ công nhân chỉ một bộ phận phụ nữ trưởng thành đủ tuổi lao động
phải bán sức lao động để đổi lấy tiền lương và họ không phải là chủ sở hữu
của phương tiện sản xuất.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Văn hoá – thông tin:
Nhập cư là đến định cư ở một nơi khác. Với đề tài này, khái niệm nữ công
nhân nhập cư muốn nói đến việc một lực lượng lớn nữ giới từ tỉnh khác về
khu công nghiệp Samsung sinh sống và làm việc lâu dài và họ chưa có hộ
khẩu thường trú tại tỉnh Bắc Ninh.
14


Đặc điểm tâm lý của nữ công nhân nhập cư

Nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Samsung đa phần xuất thân từ
nông nghiệp. Họ mong muốn có một công việc tốt gần nhà, thu nhập ổn định,
công việc suôn sẻ, được công ty tạo điều kiện tăng ca để có thêm thu nhập.
Họ không có điều kiện học thêm về văn hoá, kĩ thuật nên khi mới vào khu
công nghiệp, họ chưa thích nghi ngay được với yêu cầu kĩ thuật hiện đại.
Tâm lí xa nhà nên nữ công nhân nhập cư thường trở về nhà trọ sau khi
tan ca, họ hầu như chỉ có mối quan hệ với những người cùng xa quê như mình.
Chính vì vậy, họ có tâm lí e ngại khi tiếp xúc với người khác, không thích tâm sự
chuyện của mình cho người khác biết. Họ mong muốn có một cuộc sống bình
yên tại nơi trọ và làm việc; được sự giúp đỡ của đồng nghiệp trong công ty.
Nữ công nhân nhập cư đi làm hầu hết chỉ chú tâm vào lương tháng, ít
quan tâm đến công việc và thời gian làm việc tại khu công nghiệp.
Do thời gian làm việc khắt khe nên nữ công nhân nhập cư ít có cơ hội
quan tâm và tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Chính vì vậy họ ít có cơ
hội chia sẻ tâm tư nguyện vọng của mình, họ thường âm thầm chịu đựng khi
có xung đột tâm lí. Khi có thời gian, những nữ công nhân nhập cư mong
muốn được giao lưu với bạn bè khác giới, được tham quan du lịch xung
quanh môi trường làm việc.
Trình độ văn hoá, tay nghề còn thấp ảnh hưởng đến việc tiếp thu khoa
học kĩ thuật, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Nên những nữ công
nhân nhập cư thường có tâm lí tự ti, nhất là khi họ đang làm việc tại nơi được
coi là đất khách quê người.
Nhu cầu của nữ công nhân nhập cư
Nhu cầu về vật chất: Nữ công nhân nhập cư cũng như bao người phụ
nữ bình thường khác, họ có nhu cầu khám – chữa bệnh liên quan đến bệnh
phụ khoa; khám thai sản định kì; phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục;
được cung cấp đầy đủ các loại thuốc uống; các biện pháp KHHGĐ.
15



Nhu cầu về tinh thần: Được chia sẻ những khó khăn, căng thẳng trong
công việc, trong đời sống hôn nhân vợ chồng; Chia sẻ, động viên trong quá
trình sinh đẻ; Được tư vấn về các biện pháp KHHGĐ, tư vấn tâm lí trong quá
trình trước mang thai và sau sinh; Hỗ trợ tinh thần cho nữ công nhân nhập cư
khi mắc các bệnh phụ khoa, vô sinh; Được tham gia sinh hoạt nhóm, nhằm
chia sẻ những kinh nghiệm về SKSS của mình,trang bị những kĩ năng để có
thể tự chăm sóc cho mình khi có những vấn đề xảy ra.
1.1.5 Khái niệm Công tác xã hội
Công tác xã hội (CTXH) được xem như là một nghề mang tính chuyên
nghiệp ở nhiều quốc gia từ gần thế kỷ nay. CTXH tồn tại và hoạt động khi
xuất hiện những vấn đề cần giải quyết như tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng
giới, và giúp đỡ những thành phần dễ bị tổn thương như trẻ mồ côi, người tàn
tật, phụ nữ,…Chính vì vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
công tác xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004) cho rằng CTXH
nhằm giúp cá nhân và cộng đồng TỰ GIÚP. Nó không phải là một hành động ban
bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm
và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình. Theo khái niệm này, CTXH
trong việc giáo dục SKSS cho nữ công nhân nhập cư là một hoạt động chuyên
môn khoa học, nằm trong mạng lưới các hoạt động của hệ thống an sinh xã hội
quốc gia.
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai trong cuốn giáo trình Nhập môn công tác xã
hội định nghĩa “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ
giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu
và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về
chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng
giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội”.
16



[8, tr.63]. Theo khái niệm này CTXH trong việc giáo dục SKSS cho nữ công
nhân nhập cư được coi là một trong các hoạt động của nghề CTXH thông qua đó
giúp nhóm yếu thế là nữ công nhân nhập cư nâng cao năng lực và tăng cường
chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy về các chính sách, nguồn lực và dịch vụ để
giúp nữ công nhân nhập cư giải quyết cũng như phòng ngừa các vấn đề liên quan
đến sức khỏe sinh sản.
Quan điểm mới về CTXH của Quốc tế (7/2014), “CTXH là một nghề
thực hành và là một khoa học thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển xã hội, sự cố
kết xã hội và tăng quyền lực giải phóng người dân. Các nguyên tắc công bằng
xã hội, quyền con người, tinh thần trách nhiệm chung và tôn trọng sự đa dạng
là trọng tâm của nghề CTXH. Vận dụng những lý thuyết của CTXH, khoa học
xã hội, khoa học nhân văn và kiến thức bản địa; CTXH vận động/thu hút
người dân và các tổ chức nhận diện những thách thức trong cuộc sống và tăng
cường an sinh cho con người”. Theo quan niệm này, CTXH trong việc giáo
dục SKSS cho nữ công nhân nhập cư dựa trên các nguyên tắc công bằng xã
hội, quyền con người và tôn trọng sự đa dạng của thân chủ. Đồng thời vận
dụng các lý thuyết CTXH, khoa học xã hội, khoa học nhân văn và kiến thức
đặc thù tại cộng đồng vào các hoạt động giáo dục SKSS cho thân chủ là nữ
công nhân nhập cư.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn
đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một
xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống
an sinh xã hội tiên tiến.
Theo quan điểm này, CTXH trong việc giáo dục SKSS cho nữ công
nhân nhập cư là hoạt động góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con
17


người với con người, hạn chế các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc

sống của thân chủ là nữ công nhân nhập cư.
1.1.6 Khái niệm công tác xã hội nhóm
Theo TS Hà Thị Thư trong Kĩ năng CTXH nhóm của sinh viên có viết:
CTXH nhóm là một phương pháp của CTXH nhằm trợ giúp các thành viên
trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường hoạt động tương tác, chia sẻ những
mối quan tâm hay những vấn đề chung khi tham gia vào các hoạt động nhóm
để đạt tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục đích
của cá nhân thành viên.
Từ thực trạng thực hiện dịch vụ chăm sóc SKSS đối với nữ công nhân
nhập cư tại khu công nghiệp Samsung, tác giả tiến hành phương pháp công
tác xã hội nhóm với 10 nhóm viên thông qua các hoạt động khác nhau để xem
xét nhu cầu của các chị về dịch vụ CTXH cũng như kiến thức về chăm sóc
SKSS. Tác giả thực hiện theo đúng tiến trình trong phương pháp CTXH
nhóm: thành lập nhóm; khảo sát nhóm; duy trì nhóm; kết thúc và mang lại kết
quả đúng như mong đợi. Thông qua các hoạt động nhóm, các chị có cơ hội
được bộc lộ những suy nghĩ của mình về vấn đề thảo luận, được lắng nghe ý
kiến của các thành viên trong nhóm. Từ đó tạo sự kết nối giữa các nhóm viên,
tạo điều kiện để hoạt động nhóm diễn ra có hiệu quả
1.2 Khái niệm Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ
sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư
1.2.1 Khái niệm
Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với nữ
công nhân nhập cư được hiểu là các dịch vụ có sử dụng các tri thức, kĩ năng,
phương pháp của CTXH vào việc chăm sóc SKSS cho nữ công nhân nhập cư
nhằm giúp đỡ họ phục hồi, tăng cường các chức năng xã hội của mình, đáp
ứng nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ.
18


Mục đích, ý nghĩa của dịch vụ CTXH trong chăm sóc SKSS đối với nữ

công nhân nhập cư:
Đáp ứng nhu cầu của con người, cụ thể ở đây là những nữ công nhân
nhập cư, những người thiệt thòi, họ cần quan tâm nhưng lại bị xem nhẹ hoặc
bỏ qua. Công nhân nữ nếu được chăm sóc SKSS tốt sẽ không để lại hậu quả
cho xã hội như đẻ con rơi hoặc nạo phá thai, tạo gánh nặng cho xã hội: tệ nạn
mại dâm, ma tuý hay các bệnh lây truyền xã hội khác.
Góp phần xây dựng cộng đồng lành mạnh, cũng là góp phần bảo đảm
quyền của người phụ nữ, góp phần vào công cuộc bình đẳng giới mà xã hội
đang hướng tới. Sâu xa hơn, mục đích của CTXH chính là tính nhân văn và
điều này là một trong những nhiệm vụ, sứ mệnh của CTXH.
1.2.2 Vai trò của dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khoẻ
sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư
Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực ở đây là những nữ công nhân nhập cư đang trong độ
tuổi lao động và sinh sản tại khu công nghiệp.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của nữ công nhân nhập cư. Chất lượng
cuộc sống của con người ngoài việc được đáp ứng đầy đủ vật chất còn phải
được thoả mãn đầy đủ về nhu cầu tinh thần. Để có một cơ thể khoẻ mạnh, tinh
thần lành mạnh, những nữ công nhân nhập cư cần được chăm sóc sức khoẻ
đúng cách, trong đó có chăm sóc SKSS.
Góp phần nâng cao chất lượng dân số, cải tạo nòi giống, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của các thế hệ kế tiếp và tương lai.
Góp phần giữ vững ổn định xã hội, củng cố hạnh phúc gia đình. Dịch
vụ CTXH trong chăm sóc SKSS đối với nữ công nhân nhập cư với các hoạt
động tuyên truyền, vận động, các dịch vụ khám chữa bệnh sẽ góp phần phòng
19


ngừa, ngăn chặn và xử lí có hiệu quả các bệnh LTQĐTD, đẩy lùi và khắc
phục hậu quả của đại dịch HIV/AIDS.
1.2.3 Các hoạt động cụ thể về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc

sức khoẻ sinh sản đối với nữ công nhân nhập cư
Công ty tổ chức rất nhiều các hoạt động chăm sóc SKSS đối với nữ
công nhân nhập cư, nhưng trong giới hạn của luận văn, tác giả đề cập đến 3
hoạt động sau đây:
- Hoạt động tham vấn, tư vấn chăm sóc sức khoẻ: tư vấn phòng chống
các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản; các bệnh lây truyền qua đường tình
dục; HIV/AIDS; các biện pháp KHHGĐ; cách phòng tránh thai; quan hệ tình
dục an toàn; phòng chống xâm hại tình dục; vệ sinh ngày đèn đỏ phù hợp,…
- Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức: nhằm mục đích nâng
cao nhận thức của nữ công nhân nhập cư về quyền SKSS thông qua các hình
thức như tập huấn với các chuyên gia, dán tờ rơi, áp phích quảng bá, truyền
thanh qua loa,…
- Hoạt động vận động kết nối nguồn lực: phối hợp với các ban ngành
dân số, Liên đoàn lao động tỉnh, trung tâm y tế dự phòng tỉnh, các doanh
nghiệp trên đia bàn tỉnh để cung cấp các dịch vụ chăm sóc SKSS đối với công
nhân nhập cư.
1.3 Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.3.1 Tháp nhu cầu của Maslow
Abraham Maslow (1908 – 1970) là nhà tâm lí học người Mỹ, sinh ra ở
New York, ông quan tâm phân tích về hành vi của con người. Giới nghiên
cứu thừa nhận rằng, ông là một trong những lí thuyết gia xuất sắc về nhu cầu
và động cơ của con người trong lao động. Ông là một trong những người tiếp
tục con đường nghiên cứu của Elton Mayo và nổi tiếng với thang nhu cầu.
20


Sau khi quan sát và phân tích theo phương pháp lâm sàng nhu cầu và
động cơ của người lao động, tác giả khám phá ra hai nguyên tắc:
• Nhu cầu của con người có thể được xếp thành thứ bậc;
• Nhu cầu bậc cao chỉ được đáp ứng khi nhu cầu bậc thấp đã được đáp ứng.

Trên cơ sở hai nguyên tắc đó, tác giả sắp xếp nhu cầu của con người
theo năm bậc như sau:
• Bậc 1: Nhu cầu thể sinh lí hay nhu cầu tồn tại (ăn, uống, mặc, ngủ,
đi lại...)
• Bậc 2: Nhu cầu an toàn và được bảo vệ về mặt thể chất (có một nơi ở
và công việc)
• Bậc 3: Nhu cầu xã hội hay nhu cầu thuộc về một thành phần xã hội
nào đó (được chấp nhận, được hiểu, được yêu mến, cho và nhận…)
• Bậc 4: Nhu cầu hình ảnh bản thân (mến mộ mình)(cảm giác hữu ích,
được thừa nhận xã hội, được đánh giá cao và được tôn trọng);
• Bậc 5: Nhu cầu hoàn thiện bản thân và sáng tạo.Con người tồn tại
trong xã hội ai cũng có những nhu cầu nhất định, những nhu cầu đó có thể
giống nhau, nhưng cũng có thể là khác nhau tùy thuộc vào mức độ cũng như
hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân.Theo Abraham Maslow ông sắp xếp nhu
cầu của con người theo thứ tự bậc thanh từ thấp tới cao. Maslow cho rằng mỗi
cá nhân đều có 5 bậc thang nhu cầu cơ bản nhất.
Bảng 1.1: Phân cấp nhu cầu theo mức của Maslow
Mức cao

Nhu cầu về sự tự hoàn thiện
Nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng
Nhu cầu về quyền sở hữu và tình cảm (được yêu thương)

Mức thấp

Nhu cầu về an toàn và an ninh
Nhu cầu về thể chất và sinh lí

21



×