Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tìm hiểu tập quán cưới xin của tộc người tày ở yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 48 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài nghiên cứu khoa học này là do tự bản thân thực hiện
và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm
của riêng mình. Nếu phát hiện bất kì sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung bài nghiên cứu của mình.


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến giảng viên Trần Phương Thúy đã
chỉ dạy, giúp đỡ em trong học phần Văn hóa dân tộc thiểu số để em có kiến thức
hoàn thành bài tiểu luận này.
Bài viết còn nhiều thiếu sót về kiến thức và có nhiều quan điểm chủ quan,
rất mong được thầy cô góp ý chỉnh sửa.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN


MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, ngoài những nét
chung, mỗi tộc người còn có sắc thái văn hóa riêng, làm nên
một nền văn hóa Việt Nam đa dạng nhưng thống nhất.
Việc tìm hiểu văn hóa dân tộc là trách nhiệm của các thê
hệ đi sau, để từ đó có được sự tôn trọng gìn giữ, phát huy những
di sản văn hóa và có cái nhìn bình đẳng trong văn hóa giữa
cộng đồng văn hóa các dân tộc.
Nói đên văn hóa dân tộc không thể không kể đên tập quán
cưới xin - một phong tục, nghi lễ đời người, đánh dấu bước mơ


đầu, hình thành gia đình (tê bào của cộng đồng dân tộc). Cưới
xin chiêm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam
nói chung và từng tộc người nói riêng, trong đó có dân tộc Tàymột dân tộc thiểu số đông nhất trong số 53 dân tộc thiểu số
Việt Nam, có nền văn hóa khá đa dạng và đặc sắc, trong đó tập
quán cưới xin là một sinh hoạt văn hóa hội tụ cả văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của người Tày. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hiện nay, sự giao lưu văn hóa diễn ra trên diện rộng, nhiều
phong tục tập quán trong đó có tập quán cưới xin của người Tày
đang có sự biên đổi mạnh mẽ.
Dân tộc Tày cư trú ơ nhiều tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
như Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang,
Yên Bái, Lào Cai,..., Ngoài những nét chung cơ bản như ơ nhà
sàn, mặc áo chàm..., người Tày ơ mỗi nơi có một nét sinh hoạt
văn hóa mang những sắc thái riêng.
Người Tày ơ huyện Lục Yên- Yên Bái sống xen kẽ với nhiều
dân tộc khác, đặc điểm này được ghi dấu ấn trong văn hóa,

4


truyền thống của đồng bào Tày nơi đây. Tập quán cưới xin của
người Tày Lục Yên cho đên nay tuy đã có một số biên đổi so với
trước đây, song vẫn ít nhiều lưu giữ những nét đẹp độc đáo chỉ
riêng có ơ người Tày.

5


1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam - quốc gia đa dân tộc với 54 anh em sinh sống rải

rác từ Bắc vào Nam. Các dân tộc sống gắn bó, đoàn kêt với
nhau trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Trải
qua các giai đoạn lịch sử đã nảy nơ và sáng tạo cho mình những
yêu tố tập tục văn hoá mang tính truyền thống và có giá trị sâu
sắc. Những yêu tố truyền thống đó là những sắc thái văn hóa
riêng của từng dân tộc góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam
rất đa dạng và phong phú.
Dân tộc Tày ơ Việt Nam là một trong những dân tộc chính,
chiêm số dân cao. Tục cưới xin của người Tày cũng là một nét
đẹp văn hoá vô cùng độc đáo, nó vẫn giữ được những màu sắc
truyền thống từ xa xưa. Qua đây, nó đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự đặc sắc của văn hoá dân tộc.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu học phần "Văn hoá
dân tộc thiểu số" cho tôi thấy việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy
những nét đẹp truyền thống là điều vô cùng quan trọng. Vì vậy,
tôi sẽ lựa chọn vấn đề "Tìm hiểu tập quán cưới xin của tộc người
Tày ơ Yên Bái" để tìm hiểu và nghiên cứu.
2. Bố cục đề tài
Ngoài phần mơ đầu và kêt luận, đề tài còn gồm có 3
chương:
Chương 1: Khái quát về dân tộc Tày ơ tỉnh Yên Bái
Chương 2: Tập quán cưới xin truyền thông của dân tộc Tày
ơ tỉnh Yên Bái
Chương 3: Những biên đổi trong cưới xin và một số giải
pháp để phát huy nét đẹp trong cưới xin của tộc người Tày ơ

6


tỉnh Yên Bái


7


CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC TÀY Ở TỈNH YÊN BÁI
1.1. Tên dân tộc
Tên gọi dân tộc Tày là tên gọi chung và phổ biên nhất.
Người Tày có tiêng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái
(dòng ngôn ngữ Nam Á).
1.2. Phân bố
Dân tộc Tày ơ Yên Bái có 135.314 người, trong đó giới tính
nam tổng số 67.876 người, giới tính nữ tổng số 67.438 người.
Đồng bào Tày sống tập trung ơ 9/9 huyện, thị xã, thành
phố cụ thể: tại thành thị 7.574 người, nông thôn 127.740 người.
Trong đó đông nhất là các huyện: Lục Yên (54.032 người); Văn
Chấn (24.759 người); Văn Yên (17.972 người); Yên Bình (17.906
người); Trấn Yên (15.523 người). Đây là số liệu theo kêt quả tổng
điều tra dân số và nhà ơ tỉnh Yên Bái năm 2009, cuộc tổng điều
tra dân số và nhà ơ được thực hiện theo giai đoạn 10 năm một
lần.
1.3. Dân số
Dân tộc Tày ơ Yên Bái có 135.314 người, trong đó giới tính
nam tổng số 67.876 người, giới tính nữ tổng số 67.438
người. (chiêm 18,3% dân số toàn tỉnh và 16,4% tổng số người
Tày tại Việt Nam).
Người Tày sinh sống ơ Yên Bái đã từ lâu đời. Một số người
Tày ơ huyện Văn Yên di cư từ Lạng Sơn sang Yên Bái từ trước
cách mạng tháng Tám năm 1945. Một số người Tày ơ các huyện
Văn Chấn, Trấn Yên có gốc người Việt di cư từ các tỉnh Nam

Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái, do nhiều

8


nguyên nhân khác nhau mà dần dần đã Tày hoá. Bộ phận người
Tày ơ vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng
biệt so với người Tày ơ vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so
với người Tày ơ vùng Đông Bắc Việt Nam.
1.4. Hoạt động kinh tế


Kinh tê chính của người Tày ơ Yên Bái là nền kinh tê nông
nghiệp, đồng bào làm ruộng nước kêt hợp với săn bắt và chăn



nuôi.
Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao
động và tiêp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông



nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao.
Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa, đưa giống mới vào sản
xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển mạnh chăn



nuôi gia súc, gia cầm

Tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công
nghiệp như: chè, quê, sắn.
1.5. Nét đẹp văn hoá của dân tộc Tày ở Yên Bái



Theo số liệu tổng kiểm kê di sản văn hoá năm 2011 thì hiện nay
trên địa bàn tỉnh Yên Bái có trên 1.200 di sản văn hoá, trong đó
hơn 700 di sản văn hoá vật thể và trên 400 di sản văn hoá phi



vật thể.
Với khoảng 30 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số
(DTTS) chiêm gần 54%, cùng những phong tục, tập quán, lễ hội
đặc sắc đã tạo nên những nét rất riêng của Yên Bái. Để bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hóa nói chung, giá trị văn hóa phi
vật thể nói riêng, tỉnh đã và đang triển khai nhiều giải pháp bảo
tồn, khuyên khích các hoạt động sưu tầm, phổ biên rộng rãi
trong đời sống tinh thần của nhân dân.

9




Một số lễ hội và ngành nghề thủ công truyền thống đã được
khôi phục. Đáng chú ý là công tác sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn
các làn điệu dân ca, dân vũ như: dân tộc Khơ Mú (xã Nghĩa Sơn,
thị xã Nghĩa Lộ); dân tộc Xa Phó (xã Châu Quê Hạ, huyện Văn

Yên); hát Sình ca dân tộc Cao Lan (xã Tân Hương, huyện Yên
Bình); diễn xướng Khảm hải, dân tộc Tày (xã Xuân Lai, huyện
Yên Bình)….; phục dựng, bảo tồn các lễ hội dân gian truyền
thống, các phong tục tập quán như: đám cưới người Dao quần
trắng (xã Yên Thành, huyện Yên Bình); lễ cưới truyền thống dân
tộc Mông (xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn); lễ Mừng cơm mới
dân tộc Xa phó (xã Châu Quê Thượng, huyện Văn Yên); lễ Đám
chay dân tộc Cao Lan (huyện Yên Bình); Têt nhảy dân tộc Dao
đỏ (xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên); lễ hội Xé then dân tộc Thái
(thị xã Nghĩa Lộ), têt Xíp xí dân tộc Thái đen (huyện Văn Chấn);
Múa Mỡi dân tộc Mường (xã Sơn A, huyện Văn Chấn); lễ Cầu
mưa dân tộc Dao (xã Đông An); lễ hội đền Đông Cuông, dân tộc
Tày, xã Đông Cuông; lễ Cấp sắc dân tộc Dao (xã Đại Sơn của
huyện Văn Yên); lễ hội Hạn khuống, dân tộc Thái (xã Nghĩa An,



thị xã Nghĩa Lộ)…
Một số làng cổ dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch đã và
đang được triển khai như: Làng cổ Pang Cáng – dân tộc Mông,
xã Suối Giàng; Làng cổ Viềng công – dân tộc Thái, xã Hạnh Sơn
của huyện Văn Chấn… đó là các làng còn lưu giữ được nhiều các
giá trị văn hoá về kiên trúc, khuôn viên làng nghề thủ công, nhà
cửa và văn hoá phi vật thể như: chữ viêt, ngôn ngữ, phong tục
tập quán, lễ hội…

10


CHƯƠNG 2

TẬP QUÁN CƯỚI XIN TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC TÀY
Ở TỈNH YÊN BÁI
2.1. Quan niệm chung về hôn nhân


Đối với quan niệm của người Tày, hôn nhân không chỉ đơn thuần
là việc kêt duyên của đôi lứa mà còn có ý nghĩa lớn hơn thể hiện
truyền thống đạo lý của dân tộc, giáo dục về nghĩa vợ chồng
trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc, góp phần gắn kêt
cộng đồng, lưu giữ bản sắc dân tộc.



Từ xa xưa, nam nữ thanh niên người Tày được tự do tìm hiểu,
thể hiện tình cảm nhưng việc hôn nhân lại do cha mẹ sắp đặt
vẫn là hình thức hôn nhân chủ đạo.



Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiên hành qua các nghi
thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu têt, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ
đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc
người. Sau khi cưới, cô dâu ơ nhà bố mẹ đẻ cho đên khi có
mang sắp đên ngày sinh nơ mới về ơ hẳn bên nhà chồng. Gia
đình người thường quý con trai hơn con gái và có quy định rõ
ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
2.2. Quan niệm về cưới xin




Bất cứ một dân tộc nào cũng xem vấn đề dựng vợ gả chồng là
một việc hệ trọng của cả cuộc đời con người. Người Tày quan
niệm con người sống ơ đời có 3 việc lớn: việc làm nhà, việc cưới
và báo hiêu cha mẹ. Cho nên việc lập gia đình cho con được
người Tày rất quan tâm và tổ chức chu đáo, vì họ coi đó là cơ sơ



đầu tiên làm nên một gia đình.
Ngoài ra, người Tày còn quan niệm cưới xin là một việc hêt sức

11


quan trọng trong đời sống của mỗi gia đình. Do vậy việc kén
chọn con dâu, con rể do cha mẹ quyêt định. Các bậc cha mẹ lấy
vợ cho con nhằm mục đích chủ yêu là để có người nối dõi tông
đường, thêm nhân lực lao động cho gia đình
2.3. Tiêu chí chọn vợ, chọn chồng
Các bậc cha mẹ chọn con dâu, con rể cần phải có các tiêu
chí sau đây:

-

Tiêu chuẩn chọn vợ
Người vợ lý tương trong xã hội Tày xưa phải là người khoẻ
mạnh, chịu khó chăm chỉ làm ăn, nói năng nhẹ nhàng, biêt

-


thành thạo các công việc nội trợ và đối xủa lễ phép với cha mẹ.
Người con gái phải là người phúc hậu, sinh được nhiều con. Đặc
biệt phải biêt dệt vải, kéo sợi, may quần áo. Người Tày có câu
tục ngữ "Chôm bua chôm bươm láp" (nghĩa là tìm hiểu con gái
vào tháng chạp). Vào thời gian này thời tiêt giá lạnh, các cô gái
thường mặc nhiều quần áo qua đó sẽ dễ nhận biêt người con


-

gái chăm chỉ hay không, có tài thêu dệt và khâu vá gay không.
Tiêu chí chọn chồng
Người chồng lý tương là người khoẻ mạnh cần cù, chịu khó làm
ăn, biêt thương vợ con. Biêt đối xử tốt với bố mẹ, họ hàng, anh

-

chị em nhà vợ.
Do tính chất gia đình người Tày là phụ hệ nên vai trò của người
đàn ông là rất lớn. Cho nên người phụ nữ cũng lựa chọn rất kĩ
người đàn ông của mình, đó cũng phải là người mà họ yêu
thương, kính trọng thì mới có thể chung sống hạnh phúc được.
2.4. Các tục lệ trước ngày cưới của người Tày ở Yên
Bái
Việc cưới xin là việc rất quan trọng trong đời sống của

12


đồng bào Tày. Vì vậy nên việc kén chọn cô dâu, chú rể cũng như

việc chọn ngày, giờ làm lễ cưới xin được lựa chọn xem xét rất kỹ
càng. Đồng bào Tày cho rằng ngày cưới là ngày hệ trọng nhất,
là bước ngoặt trong cuộc đời của mỗi con người. Do đó những
người làm bố làm mẹ phải có trách nhiệm tổ chức ngày cưới cho
con thật chu đáo. Nhưng để tiên tới lễ cưới chính thức phải tiên
hành những bước quan trọng tạo thành một hệ thống lễ nghi
khá phong phó. Nhà trai muốn đón cô dâu phải trải qua các
bước sau:
2.4.1. Lễ dạm ngõ (Pay xắm)
Theo tục lệ, đây là một việc bình thường của 2 gia đình có
quan hệ quen biêt nhau từ trước. Việc gả con là việc 2 gia đình
tự thoả thuận và đồng ý ngầm với nhau. Có thể 2 đứa trẻ chưa
có hoặc tự nhận biêt về tình yêu với nhau.
Việc đi hỏi vợ cho con là việc chủ động của gia đình nhà có
con trai (khi cả 2 gia đình đều có ý cho 2 đứa trẻ). Thông thường
thời gian đi hỏi và thời gian kêt hôn có khoảng cách tầm 3 năm.
-

Lễ vật đi hỏi gồm: 2 lít rượu, 2 con gà sống thiên, 2 kg gạo tẻ

-

hoặc nêp.
Nhười đi hỏi là đại diện của nhà trai (trương họ hoặc anh trai

-

hoặc con trai của chủ họ gia đình)
Các loại lễ vật phải đưa sang nhà gái trong 3 năm theo quy




ước:
Lễ rằm tháng 7: bánh gai, bánh chuối, các loại bánh đều được




tính bằng 12 cặp (tương tự cho 12 tháng trong năm)
Lễ cơm mới+ cốm: đơn vị tính bằng 12 ống tương ứng 12kg
Lễ têt nguyên đán( Têt âm lịch): bắng chưng tính bằng 12 cặp
tương ứng 24 chiêc.

13


Việc đưa quà, lễ vật do người nhà trai đưa không phải có
đại diện của dòng họ. Mỗi lần đưa lễ đều có rượu và gà sống (1
lít rượu và 1 gà sống thiên).
2.4.2. Lễ đối chiếu tuổi, ngày tháng sinh (lễ kháp
thư minh)
Sau khoảng thời gian một năm nhằm xác định mối quan hệ
sâu sắc để tiên tới hôn nhân. Nhà trai chủ động đối chiêu vêg
tuổi, ngày tháng sinh (theo sổ sách tử vi).
- Lễ vật gồm: 1 bữa ăn nhậu (do nhà trai chủ trì) có các
thành phần đại diện họ njaf trai, nhà gái, ông thầy cúng có trình
độ nho học, hiểu biêt về sách tử vi, để kêt luận xem đôi trai gái
có hợp tuổi nhau để trơ thành vợ chồng hay cắt đứt quan hệ).
2.4.3. Lễ cưới nhỏ (lễ xông nhà chồng)
-


Lễ cưới nhỏ (lễ đưa con gái về xông nhà chồng) để con dâu
tương lai được vào nhà chồng một cách chính thức, là có quan

-

hệ đi lại khi có công việc cần thiêt).
Chi phí bằng một nửa chi phí của lễ cưới chính thức.
Không mời khách ngoài họ hàng 2 bên gia đình nhà trai và nhà
gái (có nghĩa là đám cưới nhỏ về quy mô không bằng đám cưới
chính thức nhưng về nội dung thì đày đủ như đám cưới chính
thức).
2.4.4. Lễ báo ngày cưới
Sau 3 năm chờ ngày cưới, nhà trai xem được ngày lành
tháng tốt, cử ông mối sang bên nhà gái hẹn ngày cưới. Trong
buổi lễ này 2 bên bàn bạc và đưa ra quyêt định số lượng lễ vật
dẫn cưới, đi sâu vào từng khoản cụ thể như bao nhiêu tiền mặt,
bao nhiêu con lợn, bao nhiêu con gà, bao nhiêu lít rượu, gạo...

14


Lễ báo ngày cưới phải tiên hành trước ngày cưới từ 1-3
tháng để nhà gái và nhà trai đủ thời gian chuẩn bị. Nhà trai
chuẩn bị lễ vật, tiền bạc và thông báo cho họ hàng, bạn bè.
2.4.5. Lễ ăn hỏi
Thành phần gồm 1 ông chú hoặc bác bên bố chàng trai
làm trương đoàn, 1 ông chú hoặc bác bên mẹ chàng trai làm
phó đoàn, một pả mẻ, chú rể, hai phù rể, một cô gái khoảng 15
– 16 tuổi chưa chồng và đoàn nguời gánh lễ khoảng 8 – 10 người (gồm các chàng trai, cô gái còn trẻ chưa lấy vợ, lấy chồng).

Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái để đón dâu, gồm: 100 chiêc
bánh chưng, 400 chiêc bánh dày nhỏ, 2 chiêc bánh dày to, một
con lợn quay, một đôi gà, rượu, trầu cau, một đôi cá nhỏ, một
ống tiêt, một đoạn lòng lợn, một túi hạt giống (đỗ, thóc, vừng),
một ít đường phên, một túi “cóoc mò” khâu bằng vải đỏ. Trong
sính lễ ăn hỏi, nhà trai nhất thiêt phải có một số vải dệt tay
tặng mẹ vợ, gọi là Rằm Khấu (vải chưa nhuộm) để trả công nuôi
dưỡng. Nhận vải Rằm khấu người mẹ đem nhuộm để khi nào
con gái sinh con thì khâu cho cháu ngoại một cái địu và một cái
tã.
Đên nhà gái, việc tiêp đón diễn ra tình cảm, ý nhị. Pả mẻ
nhà gái cất lời chào đón đoàn nhà trai, quan lang nhà trai thay
mặt đáp lời. Để thử thách tài đối đáp của quan lang nhà trai, pả
mẻ nhà gái có thể căng dây, đặt chổi, buộc con mèo trước cửa
nhà… Quan lang nhà trai phải dùng những lời thơ đối đáp, đề
nghị một cách tê nhị, có lý có tình để nhà gái mơ cửa cho nhà
trai vào đón dâu. Đoàn nhà trai vào nhà, nhà gái trân trọng đón
lễ. Quan lang, pả mẻ hướng dẫn chú rể dâng lễ lên bàn thờ; cô

15


dâu chú rể cùng vái lạy tổ tiên. Sau phần nghi lễ, chú rể dâng rượu mời ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng. Mọi người nhận rượu
đều có những lời chúc mừng tốt đẹp. Sau đó, đoàn nhà trai dự
bữa cơm thân mật với nhà gái.
2.5. Ngày cưới
2.5.1. Tục lệ trong ngày cưới
Đên ngày cưới 2 bên gia đình đều tổ chức tưng bừng, nhộn
nhịp. Đây là ngày lễ trọng đại của cả hai họ, cho nên lễ cưới
cành đông vui bao nhiêu thì gia đình lại càng cảm thấy vinh dự

bấy nhiêu. Nêu như tổ chức lễ cưới mà không đông vui thì sẽ bị
người trong làng khinh rẻ.
Đối với việc tiêp khách, tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ với
thân chủ, các vị khách mời đên dự lễ cưới đều có lễ vật mừng
hoặc bằng tiền, chủ nhà cử một người để ghi chép lễ mừng của
các khách để chủ sau này nhớ mà đi trả.
Đúng ngày giờ đã định ước đoàn chủ rẻ bắt đầu ra cửa đón
cô dâu, đoàn chú rể gồm có:
+ Ông quan làng
+ Bà đón (gia lặp)
+ Chú rể (khươi chính)
+ Phù rể (khươi xêp)
+ Cô đón 2 người (a lặp)
Mọi người trong đoàn đều ăn mặc chỉnh tề, quần áo mới,
đặc biệt chú rể toàn bộ là đồ mới (quần áo, giày, mũ, ô). Khi
đoàn nhà chú rể lên đường. Vị trí trương họ có uy tín cầm đưa
chú rể một cái ô đã mơ sẵn và chúc đoàn đi đường gặp mọi sự
may mắn tốt lành. Cái ô đã mơ sẵn đưa chú rể đấy vì ngày xưa

16


chú rể đi đón dâu phải đội ô.
Quan làng là người thay mặt nhà trai có đủ thẩm quyền và
khả năng giải quyêt mọi việc và mọi lễ nghi khi dẫn đoàn chú rể
sang nhà gái. Quan lành cũng có thể lấy người đã làm mối.
Quan làng và bà đón được lựa chọn trong họ hàng người thân
họ nhà trai, đứng tuổi, có uy tín, đức độ, nói năng hoạt bát, lịch
thiệp, có chồng có vợ song toàn và phải là ngừoi thuộc nhiều
bài hát lượn coi mừng đám cưới.

Phù rể phải chọn người chưa có vợ, thông minh, lanh lợi.
Các cô đón dâu phải là người chưa chồng, hiền lành. Những
ngừoi con trai con gái này phải thuộc nhiều bài dân ca, bài lượn
mừng đám cưới.
Bà đón có nhiệm vụ là dang bên nhà gái, mang những sính
lễ mà hôm trước đó chưa mang sang. Thứ hai, là có nhiệm vụ
dẫn đường cô dâu về nhà chồng. Hai bà đón (a lặp) có nhiệm vụ
sang cùng chú rể, phù rể có nhiệm vụ giúp chú rể thực hiện
những nghi lễ mà bên nhà gái quy định.
Đoàn đưa cô dâu sang nhà trai gồm:
+ Ông đưa (tà xuống)
+ Bà đưa (tài xuống)
+ Cô dâu (lua chính)
+ Phù dâu (lua xêp)
+ Dì đưa (na xuống)
Ông đưa và bà đưa có trách nhiệm giao tiêp với nhà trai và
hướng dẫn cô dâu làm nghi lễ cần thiêt ơ nhà trai, tiêu chí chọn
ông đưa, bà đưa cũng giống như bên nhà trai, khi tiên hành các
nghi lễ bên nhà gái cũng giống như bên nhà trai. Quan làng,

17


ông đưa, bà đưa, bà đón 2 bên đều thưa gửi bằng lời ca, tiêng
hát thay cho những câu đối thoại thông thường giữa 2 họ. Đây
là tập quán, người ta cho rằng thê hệ mới coi là sang trọng.
Phù dâu có nhiệm vụ dẫn cô dâu sang bên nhà chồng, giúp
cô dâu tiêp khách bên nhà chồng, mà khách này là khách của
chú rể. Thứ hai là giúp cô dâu thực hiện những nghi lễ bên nhà
chồng đưa ra. Tiêu chí chọn phù dâu phải là người giỏi giang

hoạt bát, nhanh nhẹn, là người chưa chồng, cũng phải là người
thuộc họ hàng, nhưng người thuộc là em mới lấy làm phù dâu.
Người mang lễ vật thường là các em gái, em trai. Lễ dẫn
cưới gồm: trầu cau, lợn, rượu, gạo, gà sống thiên. Số lượng tiyf
theo vùng và tuỳ vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, song phổ
biên trong cộng đồng người Tày ơ Yên Bái sẽ có số lễ vật bao
gồm: 60 chai rượu, 2 con hà sống thiên, 60 quả cau, 60 kg lợn
hơi, 30-40kg gạo nêp, 24 chiêc bánh dày. Ngoài số lễ vật trên,
còn phải có một tấm vải khô ướt chiều rộng bằng một khổ vải,
chiều dài tầm 8-10 cm.
Bên nhà gái mời họ hàng đên dự và chứng kiên lễ cưới. Cử
đoàn đại diện đưa cô dâu về nhà chồng. Đại diện nhà gái là pà
mẻ, cũng như quan làng bên nhà trai, pà mẻ được toàn quyền
thay mặt cho nhà gái. Người ta còn chọn những người nhanh
nhẹn hoạt bát, đức độ, giỏi ăn nói để thay mặt nhà gái trao con
gái cho nhà người. (phụ lục- ảnh 6)
Trình tự các tục, nghi lễ và hát quan làng trong đám cưới:
2.5.1.1. Hát quan làng
Hát quan làng trong đám cưới người Tày mamg bản sắc rất
độc đáo vì người ta đều dùng lời ca hình tượng, ví von giàu chất

18


trữ tình để thực hiện các nghi lễ, đối đáp giữa nhà trai và nhà
gái. Nó mang tính sinh hoạt văn hoá cộng đồng bơi nội dung
của các bài hát có chất thi pháp, có vần điệu đồng thời chứa
đựng những giá trị về đạo đức lối sống, không chỉ răn dậy cô
dâu, chú rể mà nó còn ảnh hương đên những người có mặt tại lễ
cưới. Khi người hát thì ai cũng sẽ lắng nghe cho tường từng câu

hát và các vần điệu, chúng sẽ thấm sâu vào tâm hồn mỗi con
người tham dự buổi lễ. Chính vì lẽ đó mà các bài quan làng có
sức sống truyền từ đời này sang đời khác, mang ý nghĩa giáo
dục sâu sắc và tồn tại lâu bền đên mai sau. (Phụ lục- ảnh 4)
2.5.1.2. Tục căng dây chặn đường (căng sai dú tang)
Khi đoàn đón dâu của nhà trai đên ngõ nhà gái, nhà gái
cho chăng dây qua đường, có nơi đóng cổng hoặc chăng dải vải,
cho người giả vờ gặng hỏi, chất vấn. Đây là thử thách đầu tiên,
tuỳ ý hát của nhà gái nhà trai phải hát đối cho hợp ý, hợp cảnh
mới được nhà gái cho gỡ dây, mơ cổng. (phụ lục 1)
2.5.1.3. Tục xin trải chiếu (chái phục)
Khi đoàn chú rể đã qua được chặng giữ cửa vào đên nhà,
trong nhà có một gian dành riêng cho đoàn chú rể, khi đên gian
đó thì chưa có chiêu trải hoặc chiêu trải lệch hoặc chiêu trải mặt
trái, cũng có thể là trải hai chiều. Vì thê, mà đoàm chú rể không
dám ngồi, vị quan làng phải cất tiêng hát có nội dung tự giới
thiệu mình là khách quý và có ý trách chủ nhà. Quan làng nhà
gái hát đáp lời xin lỗi đoàn chú rể và trái chiêu ngay ngắn và giả
vờ trách các con cháu ơ trong nhà thiêu lịch thiệp rồi trịnh trọng
mời đoàn chú rể ngồi xuống chiêu.
Khi đoàn nhà chú rể ngồi xuống, quan làng nhà gái phải

19


hát đối một hai bài ca ngợi sự mên khách của nhà gái và đoàn
nhà chú rể cũng phải hát đối lại bài ca ngợi lòng mên khách của
chủ nhà. (Phụ lục 2)
2.5.1.4. Mời nước chè, mời trầu
Khi đoàn nhà chú rể đã ngồi yên, quan làng nhà gái hát bài

mời nước chè, mời trầu, các cô gái bên nhà gái mang trầu, nước
ra lần lượt đi mời từng người, có bao nhiêu người sẽ đủ bấy
nhiêu chén nước và trầu. Quan làng nhà trai hát bài cảm ơn sự
chu đáo của nhà gái và khen nước, trầu ngon. (phụ lục 3)

20


2.5.1.5. Lễ nạp gánh và trình tổ tiên
Quan làng nhà trai dẫn chú rể và phù rể đên trước bàn thờ
tổ tiên của gia đình nhà gái, hai cô gái khiêng lễ vật đi theo
trình các bậc cha mẹ, báo già bản quan làng nhà gái. Những
người thân trong nhà đứng hai bên, trước bàn thờ tôt tiên để
chứng kiên.
Chú rể đứng nghiêm chỉnh bên quan làng, vị quan làng
nhà trai trịnh trọng hát bài nộp gánh, sau đó vị thân chủ nhà gái
đên mơ gánh và chuyển các thứ lên bàn thờ, sau khi sắp xêp lễ
vật lên bàn thờ xong chú rể và phù rể, quan làng nhà trai đứng
trước bàn thờ tổ tiên hát trình tổ tiên, quan làng. Nhà gái hát
bài cho phép chú rể lạy tổ tiên và hát bài nhận lễ. (phụ lục 4)
2.1.5.6. Lễ dâng tấm cải ướt khô (Pái lắm khấu)
Sau lễ nộp gánh và trình tổ tiên, quan lành nhà trai trịnh
trọng hát bài dâng tấm vải ướt khô, chú rể lễ phép dâng tấm vải
ướt khô lên mẹ cô dâu, nêu mẹ cô dâu không còn thì dâng lên
người nuôi dưỡng. Cô dâu từ khi bé tấm vải ướt khô được nhuộm
hồng một đầu tượng trưng cho phần ướt, đầu còn lại để trắng
tượng trưng cho phần khô.
Tầm vải khô ướt mang ý nghĩa đền ơn người mẹ, đã mang
nặng chín tháng mười ngày chăm nuôi con, chỗ ướt mẹ nằm,
chỗ khô dành cho con. Trong lễ cưới người Tày không thể thiêu

tấm vải ướt khô vì đây là tỏ lòng biêt ơn người mẹ đã nuôi con
từ khi lọt lòng cho đên người trương thành nên người, tiên hành
dâng tấm vải ướt khô là đứng trước bàn thờ tổ tiên, trước mặt
bố mẹ anh chị em họ hàng nhà gái. Vị quan làng nhà trai hát
bài dâng tấm vải ướt khô, chú rể kính trọng dâng hai tay tấm

21


vải ướt khô lên mẹ cô dâu trong bầu không khí trang nghiêm.
Nhận tấm vải ướt khô bà mẹ xúc động khóc, tấm vải này được
cất kĩ, khi có cháu ngoại là bà mang địu.( phụ lục 5)
2.5.1.7. Lễ bái tổ và họ hàng
Đây là nghi lễ trang nghiêm, chú rể cô dâu đứng trước bàn
thờ, quan làng nhà trai hát bài lễ tổ tiên, còn bố mẹ họ hàng
nhà gái ngồi xung quanh.
Dân tộc Tày quan niệm tổ tiên ơ trên trời, trước tiên chủ
nhà thắp hương cúng khấn tổ tiên về chứng kiên buổi lễ cưới
của con cháu. Rồi quan làng mới tiên hành lễ tổ tiên họ hàng, lễ
được diễm ra với ý nghĩa là cho tổ tiên biêt con cháu mình đã
lập gia đình và mong được phù hộ. (phụ lục 6)
2.5.1.8. Lễ xin đón dâu
Đây là lễ nghi quan trọng nhất và là nghi lễ cuối cùng ơ
bên nhà gái, vị quan làng trịnh trọng hát bài cảm ơn chu đáo
của nhà gái và bài xin thưa với ông bà, bố mẹ, họ hàng cho
phép được đưa dâu về nhà trai, lời bài hát này cũng là lời mời
của cô dâu chuẩn bị khẩn trương để ra cửa được đúng giờ tốt.
(Ảnh 5)
Nhà của dân tộc Tày ơ Yên Bái xưa hầu hêt là nhà sàn, nhà
sàn này có hai cửa, cửa chính và cửa phụ cho nên cô dâu ra cửa

phải ra bằng cửa chính. (phụ lục 7)
2.5.1.9. Đưa cô dâu về nhà trai
Khi đoàn chú rể đưa cô dâu về nhà trai, trên đường đi họ đi
rất chậm và họ cũng tuân theo những nghi lễ nhất định. Gặp
cầu, sông, suối cô dâu dừng lại "trả tiền đò". Khi gặp đám cưới
ngược chiều thì hai cô dâu mời nhau trầu cau, còn những người

22


khác mời nhau thuốc lá, 2 cô dâu đổi nón khăn hoặc dép cho
nhau, các nghi lễ này thể hiện sự may mắn cho cả hai đám
cưới.
Đoàn đưa dâu đên nhà trai phải chọn giờ tốt mới được lên
nhà, chưa đên giờ phải chờ ơ ngoài cho đên giờ tốt. Khi đoàn
đưa dâu đên nhà chú rể, nhà chú rể cử một người đoàn đưa
dâu, người này có vị trí cao nhất trong họ, khi đên cổng nhà chú
rể cử ông thầy ra cổng để cúng trước khi vào nhà. Đoàn nhà gái
sang nhà trai cũng được đón tiêp như bên nhà gái, các tập tục
nghi lễ diễn ra như bên nhà gái.
2.5.2. Tiệc cưới
Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5
giờ trơ đi). Cưới vào giờ này không ảnh hương đên công việc
trong ngày của mọi người, người ơ xa mấy núi cũng đên kịp.
Hơn nữa, mọi người sẽ có thời gian ơ chơi lâu hơn.
Tiệc cưới được chia làm hai tiệc. Tiệc thứ nhất dành cho
người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Tiệc thứ hai dành
cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Tiệc
này bắt đầu vào khoảng 7-8 giờ đêm. Ăn uống xong, mọi người
vẫn ơ lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn huyên với gia chủ.

Thanh niên, đám thì tổ chức lày cỏ (một trò chơi như kiểu oẳn tù
tì, người thua sẽ bị uống rượu phạt), đám thì bên trai bên gái
hát lượn với nhau. Cuộc vui ồn ã, kéo dài thâu đêm, mờ sáng
mới tan.
Người Tày ơ Yên Bái còn có một phong tục đẹp khác. Đó là
tục “khẩu lẩu” (gạo rượu). Khi gia đình nào có đám cưới (cũng
như những việc hiêu hỉ khác như : vào nhà mới, thôi nôi, mừng

23


thọ, ma chay…), ngoài số tiền phong bao như thường lệ, nhiều
người còn đem gạo và rượu đên. Mươi ống gạo, chục lít rượu,
nhiều ít tùy theo. Số gạo rượu đó được gia chủ ghi chép vào sổ
cẩn thận. Để khi nào nhà khác có việc, mình lại đi khẩu lẩu lại
người ta. Đây là một hình thức giúp đỡ lẫn nhau bằng hiện vật,
đỡ phần nào chi phí cho gia chủ khi nhà có công việc.
Đám cưới dân tộc Tày có rất nhiều món ăn khá đặc biệt,
phản ánh đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh của cư dân
bản địa, như: canh củ đao, nộm hoa chuối rừng, canh hoa chuối,
măng cuốn, măng nhồi, lợn quay…; đủ các món biểu trưng cho
âm dương ngũ hành và một phần không thể thiêu trong cỗ cưới
của đồng bào người Tày là rượu. Trong đời sống của người Tày
Yên Bái, rượu là một nét văn hoá ẩm thực đặc sắc và gắn bó với
cuộc sống của đồng bào từ lâu đời. (Ảnh 1)
2.6. Nghi lễ sau ngày cưới
Khi lễ cưới cử hành xong, cô dâu không ơ lại nhà chồng mà
quay về nhà bố mẹ đẻ ngay đêm đó. Dù đêm đã khuya, chú rể
và đại diện nhà trai vẫn phải đưa cô dâu và phái đoàn nhà gái
trơ về. Nêu vì lý do nào đó như đường sá quá xa xôi, không thể

về ngay mà phải ơ lại thì đêm đó cô dâu và các cô gái phù dâu
sẽ ngủ chung một phòng rồi sáng hôm sau về sớm. Ngày thứ ba
tính từ ngày cưới, chàng trai mới đi đón vợ về. Đêm đó mới
chính thức là đêm tân hôn của hai người.
Tục gọi đó là lễ slam nâư (ba ngày)- hiểu nôm na là lễ lại
mặt.
Theo cách giải thích của những người cao tuổi thì sơ dĩ có
tục này là bơi trước và trong ngày cưới chú rể sẽ rất mệt mỏi vì

24


phải lo nhiều việc, nhất là phải uống rất nhiều rượu mừng của
mọi người, nêu động phòng ngay thì sẽ không có lợi. Nhưng cô
dâu cũng chỉ ơ nhà chồng chừng dăm bảy ngày, sau đó lại quay
về sống với bố mẹ đẻ. Bơi theo phong tục của người Tày nói
chung và người Tày ơ Yên Bái nói riêng thì khi nào con dâu có
con mới được về ơ hẳn nhà chồng. Chính vì thê mới có chuyện,
cứ dăm bữa nửa tháng, mẹ chồng lại cho gọi con dâu về với
những lý do: giúp nhổ mạ, cấy lúa hay xay lúa, giã gạo hộ mẹ…
Tóm lại là kiêm đủ cớ để gọi con dâu về, mục đích là để đôi trẻ
có dịp gần gũi nhau, để bà mau có cháu bê. Khi cô gái có mang,
gần đên ngày khai hoa mãn nguyệt, nhà chồng mới đón về để
sinh nơ. Có con rồi cô gái mới chính thức về nhà chồng, được
giao chìa khóa tay hòm, gánh vác mọi công việc.

25



×