Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Hệ thống nhân vật của dòng văn học trào phúng và yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.66 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
K

NGUYỄN NGỌC NGÀ

HỆ THỐNG NHÂN VẬT CỦA DÒNG VĂN HỌC TRÀO
PHÚNG VÀ YÊU NƯỚC NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Đức Mậu

Phản biện 1:
Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc


sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội

hồi

giờ

ngày tháng năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, lịch sử Việt Nam rẽ sang một
bước ngoặt mới: thực dân dần quàng ách thống trị, xã hội thực dân
nửa phong kiến ra đời. Lúc này, bên cạnh dòng văn học yêu nước
văn học Việt Nam hình thành, xuất hiện dòng văn học mới là trào
phúng. Sự xuất hiện những nhân vật mới hay sự đổi thay của nhân
vật cũ trong văn học đã làm nên một hệ thống nhân vật của một giai
đoạn lịch sử văn học khác với giai đoạn trước.
Đề tài nghiên cứu hệ thống nhân vật trong dòng văn học yêu
nước và trào phúng với mục đích chỉ ra vai trò của kiểu hệ thống
nhân vật trong mối quan hệ với chỉnh thể để so sánh, đối chiếu điểm
tương đồng hoặc khác biệt. Vì vậy, nếu xét về tổng thể lực lượng
sáng tác thì hầu hết các tác giả trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX chưa
có gì thay đổi. Thế nhưng nếu xét về hệ thống nhân vật thì văn học
giai đoạn này lại có những nét mới lạ, khác biệt độc đáo làm nên diện
mạo riêng của dòng văn học trào phúng và yêu nước.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu dòng văn học trào phúng,

văn học yêu nước hoặc tác giả, tác phẩm của các dòng văn học đó.
Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về hệ thống
nhân vật trong dòng văn học yêu nước và trào phúng như là một so
sánh, một tổng kết góp phần nghiên cứu hệ thống nhân vật văn học
nửa sau thế kỷ XIX. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy nhân vật của
hai dòng văn học có sự khác nhau rõ rệt. Có loại nhân vật của dòng
văn học này lại không có trong dòng văn học kia và ngược lại. Hoặc

1


có loại nhân vật nếu đặt trong sự so sánh thì nhiều nội dung khác
biệt sẽ được nổi bật. Chúng tôi muốn nhìn nhận nhân vật không
riêng lẻ mà trong hệ thống, nhìn hệ thống nhân vật của một tác giả,
qua mấy tác phẩm tiêu biểu, đặt trong sự so sánh với hệ thống nhân
vật của các tác giả khác hay của cả giai đoạn văn học đầy mới mẻ của
một xã hội đang đổi thay mạnh mẽ, từ đó nhìn thấy rõ nét hơn những
nét mới của giai đoạn văn hoc này. Nhưng qua cả hệ thống như vậy,
thì không chỉ để nói về một tác giả, một dòng văn học, vì sự quan
tâm, sự khắc họa các loại và cả hệ thống nhân vật bao giờ cũng
mang đầy ý nghĩa của một nền văn học.
Đó là những cơ sở, những lý do khoa học để chúng tôi lựa chọn
đề tài: “Hệ thống nhân vật của dòng văn học trào phúng và yêu
nước nửa cuối thế kỉ XIX” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình khảo sát và tìm hiểu chúng tôi thấy vấn đề hệ
thống nhân vật của dòng văn học trào phúng và yêu nước đặc biệt là
trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX hiện còn ít công trình nghiên
cứu. Tuy nhiên có rất nhiều các công trình mang tính tổng thể hoặc
chuyên khảo các vấn đề riêng rẽ về văn học trào phúng, văn học yêu

nước giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Hơn nữa, những công trình
nghiên cứu đó đều ít nhiều có đề cập tới nhân vật trong dòng văn học
trào phúng và văn học yêu nước. Từ những thành tựu nghiên cứu đó,
chúng tôi có thể tìm thấy nhiều gợi ý quan trọng cho việc tiến hành
nghiên cứu đề tài của mình.

2


2.1. Lịch sử vấn đề nhân vật trong dòng văn học trào phúng
Trong cuốn “Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 –
1930” (1988), Trần Đình Hượu viết về những đối tượng nhân vật
trong thơ Tú Xương “Trong cái xã hội nhố nhăng của những người
theo Tây mà Tú Xương phê phán có đủ bọn thông phán, ký lục, me
tây, có cả tri phủ Xuân Trường, mẹ con bà Bố”. Ngoài ra, tác giả còn
đề cập tới các nhà khoa bảng, tầng lớp quan lại... Năm 1958, Văn
Tân với công trình “Văn học trào phúng Việt Nam (từ thế kỉ XVIII
đến ngày nay)” đã có sự khẳng định, liệt kê về hệ thống nhân vật
trong thơ ông Tú. Trong cuốn “Trần Tế Xương về tác gia và tác
phẩm” (2001) có bài viết của Đoàn Hồng Nguyên với “Thơ Tú
Xương với kiểu tự trào thị dân” đề cập tới nhân vật cái tôi tự trào của
Tú Xương cùng sự khẳng định đó là “kiểu hình nhà nho thị dân” và
có so sánh với tự trào của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Đặc biệt, tác giả
Vương Trí Nhàn có viết: “Thành thì đen kịt, đốc thì lang” có đề cập
tới kiểu loại nhân vật trong thơ ông Tú với : “đủ loại nhân vật, từ
quan chức đến sư sãi, từ ông tú, ông cử, cho đến đám học trò đang
mài đũng quần trong các lớp bình văn, rồi cô Kí, me tây, rồi thày
thông, thày phán…”. Hay những kiểu nhân vật mới và nhân vật cũ
trong thơ trào phúng của Tú Xương trong bài viết “Bức tranh xã hội
trong thơ Tú Xương” (Nguyễn Lộc).

2.2. Lịch sử vấn đề nhân vật trong dòng văn học yêu nước
Đáng chú ý nhất phải kể tới cuốn: “Văn học Việt Nam (nửa
cuối thế kỷ XVIII –hết thế kỷ XIX)”, Nxb Giáo dục 1997 của tác giả

3


Nguyễn Lộc. Đó là những gợi ý quan trọng có thể giúp chúng tôi định
hình từng kiểu hệ thống nhân vật một cách rõ ràng và cụ thể nhất.
Với kiểu nhân vật mới lần đầu tiên xuất hiện trong dòng văn
học yêu nước, trong cuốn “Thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu”
xuất bản năm 1962 của các tác giả Tuấn Lộ và Mai Trân có khẳng
định: “Với Nguyễn Đình Chiểu lần đầu tiên trong lịch sử văn học
nước ta, hình ảnh chân thực và sinh động của người nông dân kháng
chiến mới được miêu tả một cách cụ thể đầy đủ và nhiệt tình như
vậy”. Cũng nói tới đối tượng này, Lê Văn Sơn trong bài viết “Đặc
điểm tư tưởng thẩm mĩ của thơ ca yêu nước và cách mạng từ 1858
đến 1945” có nhận xét: “Người dân thường đánh giặc ảnh xạ vào thơ
văn như những người tự động, tự nhiệm cứu nhà cứu nước. Đó là nét
thẩm mĩ mới trong văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX”. Ngoài ra,
tác giả bài viết cũng có đề cập tới nhân vật nhà nho trung nghĩa “các
nhà nho đứng lên chống giặc của vua, của cha, giữ gìn sơn hà xã
tắc”. Đây cũng là quan điểm của Trần Đình Hượu về kiểu nhân vật
nhà nho “Cả nửa cuối thế kỉ XIX hàng loạt nhà nho đã đưa đạo nghĩa
thánh hiền ra đối địch với tàu đồng, súng lớn của giặc ” (Trích “Văn
học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930”). Đó là những cơ sở
để trong luận văn chúng tôi hệ thống kiểu nhân vật nhà nho trung
nghĩa, nhà nho hành đạo trong dòng văn học yêu nước giai đoạn này.
Qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy những
công trình mang tính tổng thể hay chuyên khảo về văn học trào

phúng, văn học yêu nước là những gợi ý quan trọng để chúng tôi lựa

4


chọn và đi vào nghiên cứu đề tài: “Hệ thống nhân vật của dòng văn
học trào phúng và yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu “Hệ thống nhân vật của dòng văn học trào phúng
và yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX”, chúng tôi muốn hệ thống hóa các
nhân vật của các tác giả tiêu biểu để rồi từ đó có sự so sánh, đối chiếu
với hệ thống nhân vật trong giai đoạn văn học trước và sau nó.
Đặc biệt, chúng tôi chú trọng hệ thống nhân vật lần đầu tiên
được xuất hiện trong hai dòng văn học này để thấy được sự thay đổi
về lịch sử trong một hoàn cảnh xã hội có tính giao thời. Vì vậy mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn là bước
đầu muốn tìm hiểu hệ thống nhân vật trong dòng văn học trào phúng
và yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. 1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn sẽ nghiên cứu hệ thống nhân vật trong dòng văn học
trào phúng và yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX để tìm ra sự tương đồng và
khác biệt của chúng trong một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Một số tác phẩm của các tác giả tiêu biểu trong dòng văn học
trào phúng cuối thế kỉ XIX như: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Kép
Trà,…; văn học yêu nước như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân
Ôn, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng ,…

5



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn giải quyết đề tài từ góc độ hệ thống nhân vật trong
dòng văn học trào phúng và yêu nước trong giai đoạn nửa cuối của
thế kỉ XIX nên chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp. Trong
đó có các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp loại hình học; phương pháp xã hội học;
phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp đối chiếu, so sánh;
phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đề tài có ý nghĩa tích cực trong việc khẳng định vai trò của
hệ thống nhân vật nói chung và trong văn học trào phúng, yêu nước
cuối thế kỉ XIX nói riêng.
- Đề tài sẽ góp phần nhận diện từng kiểu loại nhân vật trong hai
dòng văn học trào phúng và yêu nước cuối thế kỉ XIX để thấy được sự
thay đổi lịch sử, xã hội của cả một thời đại có tính chất “giao thời”.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo nội
dung của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương I: Tiền đề xuất hiện hệ thống nhân vật văn học nửa cuối thế
kỷ XIX.
Chương II: Hệ thống nhân vật trong dòng văn học trào phúng nửa
cuối thế kỷ XIX.
Chương III: Hệ thống nhân vật trong dòng văn học yêu nước nửa
cuối thế kỷ XIX.

6



CHƯƠNG 1
TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN HỆ THỐNG NHÂN VẬT VĂN
HỌC NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX
1.1. Tiền đề xã hội
1.1.1. Sự xâm lược của thực dân Pháp
Lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX khá
phức tạp về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và có ảnh hưởng rất
lớn tới đời sống văn học. Từ năm1858, thực dân Pháp đã nổ súng vào
cửa bể Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Trước
thực trạng đó, dân tộc ta đã tiến hành cuộc chiến đấu chống bọn thực
dân.
1.1.2. Biến động xã hội
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, xã hội trải qua một cuộc đổi
thay lớn và không thuận chiều bởi một quan hệ mới: chế độ thực dân.
Vì vậy nhiều tầng lớp mới nảy sinh: tư sản, tiểu tư sản và vô sản,
những thầy thông, thầy ký, cậu bồi, những ông thầu khoán, me tây và
đặc biệt là các tầng lớp trí thức Tây học …
1.2. Tiền đề văn học
Sự biến động của xã hội đã kéo theo sự thay đổi lớn tới diện
mạo của văn học. Trước hết, dòng thơ ca trào phúng thực sự phát
triển với hệ thống nhân vật văn học “mới - cũ” ra đời và khác trước.
Vì vậy, người sáng tác đã chú ý tới đối tượng nhân vật, thay đổi tư
tưởng thẩm mỹ để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của văn học. Đó là loại
hình nhân vật nho gia, nhân vật trong xã hội cũ như: vua, quan thầy
đồ, ông lý, người nông dân; loại nhân vật mới thành thị như: thày

7


thông, thày ký, cậu bồi - những người đậu đạt ăn lương Tây, những

cô gái mới: me tây - bà đầm…
Bên cạnh đó, bộ phận văn thơ yêu nước trong giai đoạn này
cũng có những diện mạo mới, khác trước đặc biệt là về hệ thống nhân
vật. Những nhà nho trung nghĩa, nhà nho hành đạo vẫn dùng thơ văn
để nói lên với tư tưởng yêu nước của mình. Đáng chú văn thơ yêu
nước giai đoạn này đã xuất hiện loại hình tượng nhân vật mới – nhân
vật người nông dân nghĩa sĩ. Với hệ thống nhân vật đa dạng vừa có
sự tiếp nối vừa khác so với các giai đoạn trước, thơ ca yêu nước đã
làm nên diện mạo đặc trưng riêng của mình trong dòng chảy của lịch
sử văn học.
1.3. Vấn đề hệ thống nhân vật trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX.
1.3.1. Giới thuyết chung về vấn đề nghiên cứu
1.3.1.1.Khái niệm hệ thống
Hệ thống nhân vật trong văn học chính là tập hợp các hình
tượng cá thể người trong tác phẩm có mối quan hệ ràng buộc, tác
động chi phối lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung nào
đó. Các nhân vật đó thường đại diện cho nhiều nhân vật khác từ các
điểm nhìn khác nhau trong xã hội.
Vì vậy, hệ thống nhân vật của văn học trào phúng và yêu
nước nửa cuối thế kỉ XIX gồm những thành tố (kiểu nhân vật): nhà
nho tự trào - thực dân Pháp - vua, giới quan trường - bà đầm, me
Tây…(trong dòng văn học trào phúng); nhân vật nhà nho hành đạo,
trung nghĩa - bọn thực dân cướp nước - vua, quan lại triều đình - các

8


sĩ phu yêu nước - người nông dân nghĩa sĩ…(trong dòng văn học yêu
nước).
Mục đích chúng tôi đi vào nghiên cứu loại hình hệ thống

nhân vật trên bởi những loại nhân vật này đều chịu sự chi phối của
hoàn cảnh xã hội và thời đại, của nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ mới trong
văn học trào phúng và yêu nước giai đoạn nửa cuối của thế kỉ XIX
1.3.1.2. Khái niệm nhân vật văn học
“Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các
cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận
thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật
ngôn từ” (“Lí luận văn học - tập 2”).
1.3.1.3. Chức năng nhân vật văn học
Chức năng chủ yếu của nhân vật là xác lập mô hình của hiện
thực và thể hiện định hướng về giá trị đối với cuộc sống. Nhân vật
còn là “công cụ” bởi mỗi nhân vật cung cấp một điểm nhìn để khám
phá đời sống, khám phá xã hội; là hình thức cơ bản để văn học miêu
tả thế giới một cách hình tượng ; là đích đến cuối cùng của mọi tác
phẩm văn chương. …
1.3.2. Vài nét về hệ thống nhân vật văn học nửa cuối thế kỉ XIX
1.3.2.1. Hệ thống nhân vật văn học trước thế kỉ XIX
Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, có hệ thống
nhân vật rất phong phú: nam nhi - quý tộc - vua quan - nhà nho - ẩn
sĩ - thiền sư - phụ nữ.
Từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII, văn học lại hướng tới hệ
thống nhân vật ma quái như các nhân vật người dưới lốt ma dưới

9


nhiều hình thức tên gọi khác nhau như: ma, hồn ma, quỷ, quỷ sứ, yêu
tinh, yêu quái…
Cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỷ XIX, hệ thống nhân vật có sự
thay đổi: từ nhà sư, bậc quân tử mang chí nam nhi, nhà nho …sang

những người tài tử, trượng phu và đặc biệt là hình tượng nhân vật
người phụ nữ.
1.3.2.2. Hệ thống nhân vật trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX
Nửa cuối thế kỷ XIX, sự đổi thay trong thực tế xã hội đã nảy
sinh những tầng lớp nhân vật tiêu biểu.
Văn học yêu nước chống thực dân hướng tới đối tượng là các
nhà nho hành đạo, các nhà nho trung nghĩa; là bọn quan lại, triều
đình; là bọn thực dân cướp nước; là hình tượng những người nghĩa
binh nông dân….
Với văn học trào phúng lại là các đối tượng : cái tôi tự trào
của các nhà nho; bọn thực dân, vua, quan phong kiến; những nhân
vật mới xuất hiện như đĩ điếm, me tây, ông Tây, bà đầm, cô đầu….
Như vậy, nhân vật vẫn có sự tiếp nối từ các giai đoạn văn
học trước, nhưng có những nhân vật lần đầu tiên xuất hiện (người
nghĩa binh nông dân, thầy thông, thầy phán, thầy kí, me tây, bà
đầm…). Những nhân vật đó khi được đặt trong cùng một hệ thống
hoặc khác hệ thống đã làm nên một diện mạo riêng của một giai đoạn
văn học.
Tiểu kết chương 1
Chương một đã giới thiệu những cơ sở, tiền đề dẫn tới sự
xuất hiện hệ thống nhân vật văn học giai đoạn nửa cuối của thế kỉ

10


XIX. Hệ thống nhân vật đã có sự định hình rõ nét, mang màu sắc
chính trị của một giai đoạn văn học đang có nhiều thay đổi, trưởng
thành. Mặt khác với mỗi một khuynh hướng văn học khác nhau lại có
một hệ thống nhân vật riêng mang đặc trưng riêng cho từng khuynh
hướng.

Từ điểm nhìn hệ thống nhân vật văn học trước và sau của
nửa cuối thế kỉ XIX đã giúp cho toàn cảnh diện mạo văn học được
cụ thể và chân thực hơn. Xét góc độ hệ thống nhân vật, thì dòng văn
học trào phúng và yêu nước vừa có sự giao thoa vừa có sự khác biệt
tùy thuộc vào mục đích, nhiệm vụ của từng khuynh hướng văn học.
Như vậy, sự xuất hiện hệ thống nhân vật trào phúng và yêu
nước trong giai đoạn nửa cuối của thế kỉ XIX là một bước ngoặt lớn
đánh dấu bước trưởng thành của một giai đoạn văn học có tính giao
thời. Đặc biệt, nhân vật văn học trong giai đoạn này mang tính chính
trị và màu sắc xã hội và đồng thời cũng là một “cú hích” lớn để văn
học trưởng thành, hiện đại trong các giai đoạn sau.

11


CHƯƠNG 2
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG DÒNG VĂN HỌC TRÀO
PHÚNG NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX
2.1. Diện mạo văn học trào phúng nửa cuối thế kỉ XIX
2.1.1. Khái niệm “trào phúng”
Đó là những sáng tác viết ra để chế giễu, đả kích những thói
hư, tật xấu của những con người và sự việc tiêu cực bằng cách gây
cho người đọc cái cười mang tính chất chê bai, phê phán, đả kích…
2.1.2. Cơ sở phát triển của văn học trào phúng
Sự phát triển của văn học trào phúng trong giai đoạn này có
sự kế thừa truyền thống của văn học dân gian và tiếng cười trong văn
học trung đại. Nửa cuối thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam có sự biến
động gay gắt, sự tranh chấp giữa cái mới và cái cũ là “cú hích” đã tạo
đà cho văn học trào phúng phát triển mạnh với hệ thống nhân vật
riêng, độc đáo.

2.1.3. Nội dung văn học trào phúng
Dòng văn học trào phúng nửa cuối thế kỉ XIX theo sát tình
hình đời sống xã hội, chính trị, hướng vào mọi tầng lớp loại người
khác nhau trong đời sống xã hội để châm biếm, phê phán và đả kích.
Đó là kẻ thù xâm lược; bọn quan lại thống trị; mụ đầm, me Tây đỏng
đảnh, là gái đĩ, gái góa dị hình, … “sản phẩm” của một nền văn
minh ngoại lai, dị hợm .
Giai đoạn trước, tiếng cười của các nhà nho và người nông
dân thường là cái cười hài hước, cái cười hiền lành, kín đáo…dù
cũng mang tính chất phê phán. Giai đoạn này là cái cười gằn, sắc

12


bén, cái cười gắn với từng đối tượng cụ thể mang tư tưởng chính trị
trong hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược. Đó là cái cười không chỉ
đa dạng về đối tượng, về các cung bậc cười mà còn có hiệu quả phê
phán rất cao, mang tính xã hội. Vì vậy, dòng văn học trào phúng giai
đoạn cuối của thế kỉ XIX đã tái hiện được một bức tranh tổng hợp
khá sinh động về thời đại trên mọi phương diện, ở mọi tầng lớp con
người trong xã hội.
2.1.4. Khảo sát tác giả tiêu biểu
Dựa trên đối tượng trào phúng, chúng tôi khảo sát một số tác
giả tiêu biểu sau:
Nguyễn Khuyến: tập trung đả kích về những hạng người
tiêu cực, xấu xa, dị hợm…trong xã hội như: bọn quan lại, thực dân,
những đĩ điếm, me tây, cô đầu…; Học Lạc: đối tượng đả kích là bọn
cường hào hống hách ở nông thôn mà ông gọi là “bợm làng”, là
“những quân hoang”; Nguyễn Thiện Kế : đả kích bọn quan lại bằng
cách lôi từng tên quan cụ thể ra mà đả kích một cách bộc trực, bốp

chát; Tú Xương: hệ thống nhân vật trào phúng trong thơ của ông
cũng rất đa dạng, hướng tới tất cả mọi hạng người trong xã hội
đương thời….; Kép Trà: hướng tới nhiều loại đối tượng khác nhau
trong đời sống xã hội với mục đích châm biếm, phê phán sâu cay.
2.2. Hệ thống nhân vật trong dòng văn học trào phúng
Trong giai đoạn nửa cuối của thế kỉ XIX, văn học trào phúng
được khẳng định với hệ thống nhân vật là đầy đủ mọi loại hạng người
trong xã hội từ nhà nho tự trào - thực dân Pháp - vua, giới quan
trường - bà đầm, me Tây, gái đĩ, gái góa…

13


Với mục đích muốn đối chiếu, so sánh giữa các đối tượng
nhân vật không chỉ trong dòng văn học trào phúng mà cả trong dòng
thơ ca yêu nước nên chúng tôi đã lựa chọn kiểu loại hệ thống nhân
vật trên. Bởi đó là hệ thống nhân vật có tính logic, quan hệ chặt chẽ
với nhau trong dòng văn học trào phúng xuất phát từ điểm nhìn của
các nhà nho đương thời.
2.2.1. Nhân vật nhà nho tự trào
Trong giai đoạn này, các nhà thơ trào phúng đã lấy chính
bản thân mình làm đối tượng trào phúng bằng giọng lúc kể, lúc
khoe, lúc giễu, cả bi lẫn hài . Họ tự trào về sức khỏe, diện mạo, về
thân thế, công danh, về đời sống cá nhân và xã hội.
Căn cứ vào nội dung các nhà nho trào phúng đã tự “trình
chiếu”, người đọc có thể tái hiện được bức tranh xã hội rệu rã, xộc
xệch với đủ đầy tất cả những cái xấu xa, kệch cỡm.. Đó là nét thẩm
mĩ mới góp phần khẳng định sự định hình và trở thành một dòng
riêng biệt của thơ ca trào phúng đương thời.
2.2.2. Nhân vật thực dân

Trong dòng văn học trào phúng, nhân vật thực dân xuất hiện
nhưng dưới góc nhìn mới: góc nhìn trào phúng với nhiều cung bậc
sắc điệu thẩm mĩ khác nhau. Chúng được hiện lên thông qua những
nhân vật như: ông Tây, ông Cò, quan sứ, bà đầm, cô Ký hoặc gián
tiếp qua hình ảnh “lá cờ tam tài” của bọn thực dân, qua những “vần
Tây”, những “lễ hội Tây”, “chiếc lương Tây”.…
Dù xuất hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, kiểu loại nhân vật thực
dân xuất hiện trong bộ dạng kì quái, lố bịch, hợm hĩnh gắn liền với

14


tính chất trào phúng từ phê phán, châm biếm tới đả kích và cả sự chửi
rủa. Đó là loại nhân vật mới mà giai đoạn trước không xuất hiện.
2.2.3. Nhân vật vua và quan lại
Nửa cuối thế kỉ XIX, nhân vật “vua ta” với bản chất bù nhìn,
và tầng lớp giới quan lại đã trở thành tâm điểm để các nhà nho trào
phúng chĩa mũi nhọn đả kích, châm biếm với những bức chân dung
hí họa có tính chất gây cười.
Khác so với trào phúng dân gian, bọn chúng được hiện lên
đông đúc với đủ mọi loại quan: từ quan Tây - quan Ta; quan lớn quan bé; quan to - quan nhỏ; quan lại thành thị - quan lại nông
thôn…Có những “quan mới” như thầy thông, thầy phán, thầy kí. Có
quan “nửa cũ - nửa mới”: quan tri phủ, tri huyện, ông đốc học, ông
nghè, ông cử,…bất tài, tham lam, làm tay sai “ôm đít” bọn thực dân.
Khác biệt, trong văn học cổ, nhân vật khoa bảng là nhà nho chưa bao
giờ trở thành đối tượng bị đưa ra để cười cợt, chế giễu, đả kích.
Nhưng trong xã hội mới đang trên con đường tư sản hóa thì bọn
chúng chính là những “cái bướu, cái ung nhọt” trong xã hội. Vì vậy
đó loại hình nhân vật trung tâm nhất, cơ bản nhất, vừa có sự tiếp nối,
vừa có sự khác biệt mang tính chính trị, thời đại sâu sắc trong xã hội

thời Tây – Ta lẫn lộn.
2.2.4. Nhân vật: bà đầm - me Tây, cô đầu, gái đĩ, gái góa…
Xã hội nửa ta, nửa tây đã sản sinh ra hàng loạt nhân vật trào
lộng: bà đầm - me Tây, cô đầu, gái đĩ, gái góa, vừa là biến thể của
một bọn người cũ, vừa là phiên bản của loại người lai căng – sản
phẩm của chủ nghĩa thực dân.

15


Với dòng văn học yêu nước cùng thời, các nhà nho yêu nước
hầu như không đề cập tới hệ thống loại nhân vật này. Chỉ với văn học
trào phúng và văn học hiện thực thì loại nhân vật này mới xuất hiện.
Việc xuất hiện nhân vật cô đầu, gái đĩ, gái góa….trong dòng văn học
trảo phúng đủ cho ta thấy được một xã hội đương thời với những cái
xấu xa, chướng tai gai mắt, cái tiêu cực …trong một xã hội hỗn tạp
Tây – ta.
2.3. Các hình thức khám phá hệ thống nhân vật trào phúng
Mỗi dòng văn học khác nhau sẽ có những cách thức riêng
khám phá nhân vật khác nhau tùy thuộc vào từng thể loại. Ở đây
chúng tôi chỉ chú trọng hình thức khám phá nhân vật gắn liền với tính
hệ thống nhằm mục đích so sánh, đối chiếu các dòng văn học cùng
thời hoặc khác thời để tìm ra những đặc trưng riêng biệt. Vì vậy, để
xuất hiện tiếng cười trong thơ ca trào phúng thì khám phá nhân vật
qua chân dung, hành động, giọng điệu…là tiêu chí quan trọng. Điều
đó giúp nhân vật trào phúng được “lộ diện” với tất cả sự nhố nhăng,
xấu xa, dị hợm…trong ngòi bút trào lộng, châm biếm, chế giễu, đả
kích sâu cay.
Tiểu kết chương 2
Dòng văn học trào phúng đã xây dựng được hệ thống nhân

vật đa dạng với mọi lớp người, hạng người trong xã hội. Từ tầng lớp
trên như vua, quan Tây, quan ta, me Tây, bà đầm tới tầng lớp dưới
như gái đĩ, gái lẽ, gái góa…. Đó là những loại hình nhân vật vừa cụ
thể, vừa có tính chất điển hình, là sản phẩm của xã hội thực dân “đầu

16


Pháp – mình Nam”, đại diện cho cái xấu xa, cái thấp hèn, cái nhố
nhăng, đồi bại, cái bị tha hóa và biến chất.
Kiểu loại nhân vật trong dòng văn học trào phúng có nét
riêng so với giai đoạn văn học trào phúng trước và sau nó, thậm chí
với cả dòng văn học chống Pháp cùng thời. Chúng được xuất hiện
trong tiếng cười trào lộng, đả kích dưới dạng của những bức chân
dung bị “biến dạng” trong xã hội đang dần tư sản hóa đương thời.
Đặc biệt, tiếng cười trào phúng qua hệ thống nhân vật trong giai
đoạn này đã mang màu sắc chính trị rõ nét. Thơ ca trào phúng cũng
cho thấy cả âm mưu chính trị của bọn thực dân. Đó là tiêu chí tạo nên
chỗ đứng riêng của dòng văn học trào phúng.
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX nói chung, văn thơ
trào phúng nói riêng vừa khép lại một chặng đường dài chín thế kỉ
của văn học trung đại vừa chứa đựng trong lòng nó những dấu hiệu
chuẩn bị cho quá trình hiện đại hoá văn học ở giai đoạn tiếp theo. Vì
thế mà trong giai đoạn sau của nửa cuối thế kỉ XIX thì “Thơ trào
phúng phát triển thành một dòng” như Trần Đình Hượu đã khẳng
định. Từ đầu thế kỉ XX, thơ ca trào phúng mang tính hiện đại rõ nét,
vẫn tiếp tục trên đà phát triển với sự phong phú cả về số lượng và
chất lượng. Chính tiếng cười trong thơ ca trào phúng giai đoạn nửa
cuối của thế kỉ XIX đã đặt nền móng cho văn học hiện thực phê phán
trong các giai đoạn sau.


17


CHƯƠNG 3
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU
NƯỚC NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX
3.1. Diện mạo văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX
3.1.1. Quá trình phát triển
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược, văn học
yêu nước đã có mặt từ những ngày đầu tiên và tiếp tục phát triển
theo tiến trình dòng chảy của lịch sử . Đó là quá trình phát triển có
tính liên tục và xuyên suốt với khối lượng sáng tác phong phú và có
nhiều thành tựu.
3.1.2. Nội dung của dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX.
Các sáng tác văn học yêu nước giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
đều đồng loạt lên án tố cáo tội ác và những âm mưu thâm độc của
bọn thực dân Pháp; phản ánh dân tộc và về thời cuộc; phản ánh con
người thời đại; là bản anh hùng ca của lịch sử. Đó là lòng căm thù
giặc, ngợi ca những người tham gia chiến đấu, những tấm gương yêu
nước của người nghĩa binh, lãnh tụ, nghĩa quân, các nhà nho, người
trí thức bất hợp tác, người nông dân, người phụ nữ, người nghĩa sĩ
…chống Pháp.
3.1.3. Khảo sát tác giả tiêu biểu
Các tác giả tiêu biểu của văn học yêu nước cuối thế kỉ XIX:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889),
Nguyễn Thông (1827 - 1894), Nguyễn Quang Bích (1832 - 1889),
Phan Đình Phùng (1847 - 1895)…

18



3.2. Hệ thống nhân vật trong dòng văn học yêu nước
So với các giai đoạn trước, giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX hệ
thống nhân vật đã có sự thay đổi cả về lượng và về chất. Đó là các
kiểu loại nhân vật: nhà nho hành đạo, trung nghĩa - bọn thực dân
cướp nước - vua, quan lại triều đình - sĩ phu yêu nước - người nông
dân nghĩa sĩ…
3.2.1. Nhân vật nhà nho hành đạo, nhà nho trung nghĩa
Đây là kiểu loại nhân vật chiếm số đông trong dòng văn học
yêu nước. Nếu các nhà nho trào phúng luôn dùng tiếng cười để cười
về diện mạo, về thân thế, công danh, xã hội…để bộc lộ tư tưởng thì
các những nhà nho yêu nước lại luôn có tư tưởng hành đạo, trung
nghĩa. Đặc biệt “cả nửa cuối thế kỉ XIX hành loạt nhà nho đã đưa
đạo nghĩa thánh hiền ra đối địch với tàu đồng, súng lớn của giặc”
(Trần Đình Hượu).
3.2.1.1. Nhân vật nhà nho
Đó là nhân vật trung nghĩa trong hoàn cảnh đất nước bị xâm
lăng. Cái tôi đó đã phơi bày thực trạng đen tối của xã hội, thể hiện
cảm xúc trước thảm cảnh của nhân dân. Đó lòng trung hiếu, tấm cô
trung, tấm lòng báo quốc, lời thề báo nước với một cái nhìn theo
hướng duy tân. Đi theo hướng mới với góc độ mới, nhân vật nhà nho
hành đạo, nhà nho trung nghĩa không đoạn tuyệt với văn học yêu
nước truyền thống mà phát triển nó lên để có tính dân tộc cao hơn
trước.

19


Con đường hành đạo của các nhà nho trong giai đoạn này

mang tư tưởng tích cực, dân chủ, đề cao chính khí, nghĩa khí của
những bậc anh hùng, đứng về phía nhân dân chiến đấu.
3.2.1.2. Nhân vật sĩ phu
Văn học yêu nước giai đoạn này đề cao những người sĩ phu
yêu nuôi chí giúp đời. Đó là Trương Định, cụ Phan Thanh Giản,
Phan Công Tòng, tướng quân Trần Khát Chân …Họ đều là những
bậc nam tử, người anh hùng, người trung nghĩa đã giữ trọn chữ trung
thần, thực hiện sự nghiệp kinh bang tế thế. Như Trần Văn Giàu nói:
“Ưu điểm lớn nhất của thơ văn yêu nước cuối thế kỉ XIX là vẽ lên
hình ảnh tuyệt vời của chiến sĩ và chí sĩ và chân thành ca ngợi những
vị anh hùng kháng chiến trong giai đoạn lịch sử đầy máu và nước
mắt này”.
3.2.2. Nhân vật người nông dân nghĩa sĩ
Hình ảnh người dân thường đánh giặc ảnh xạ vào thơ văn
yêu nước trong tư thế của những con người làm chủ và trở thành
nhân vật mới của văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX. Họ tự động,
tự nhiệm cứu nhà, cứu nước “thề chung áo giết giặc” với tư thế của
một người anh hùng chống xâm lược.
Trước, hình ảnh người nông dân chỉ là “bốn phương manh
lệ” thời kháng Minh thì nay là hình ảnh của những “soa lạp nhân” –
những người mang tơi đội nón-bên cạnh những nhà nho mặc giáp trụ
ứng nghĩa Cần Vương. Họ còn là những người dân mộ nghĩa “dân
xóm dân lân”, những người dân cày kháng chiến đang đi trên con
đường đấu tranh cho tự do dân chủ. Họ không chỉ phát triển về ý thức

20


dân tộc mà còn cả về ý thức giai cấp, tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu
nước chân chính và tiến bộ của thời đại.

3.2.3. Nhân vật thực dân
Trong khi văn học trào phúng còn né tránh bọn thực dân, thì
văn thơ yêu nước lại tố cáo không mệt mỏi bọn thực dân cướp nước
bởi đó là kẻ thù chính của dân tộc. Hầu như, những tác phẩm văn
học yêu nước trong giai đoạn nửa cuối của thế kỉ XIX đều hướng tới
bọn thực dân dưới góc nhìn là những tội ác của chúng đối với nhân
dân, đất nước.
Đả kích kẻ thù xâm lược - “ông Tây” trong thơ văn yêu
nước khác so với thơ ca dòng văn học trào phúng. Trong văn thơ yêu
nước, nhân vật “ông Tây” được xuất hiện trực diện nhưng gắn với
bình diện chính trị, với tội ác của bọn ngoại xâm gây ra thảm cảnh
nước mất nhà tan.
Đặc biệt viết về nhân vật là bọn thực dân cướp nước, thơ văn
yêu nước tố cáo không mệt mỏi những hành vi tàn bạo của quân
cướp nước, vạch mặt chỉ tên, gọi chúng là “thằng Tây”, “lũ người
Tây” với sự khinh bỉ cao độ. Qua khảo sát văn thơ yêu nước Nguyễn
Đình Chiểu có rất nhiều bài trực tiếp hoặc gián tiếp viết về nhân vật
thực dân.
3.2.4. Nhân vật vua, quan lại
Nhân vật vua, tầng lớp quan lại là những đối tượng mà dòng
văn học trào phúng cùng giai đoạn chĩa mũi nhọn đả kích, phê phán.
Dòng văn học yêu nước cũng hướng tới những kiểu loại nhân vật này
bởi đó là những ông vua ăn chơi, hưởng thụ, nhục nhã, bù nhìn, vô

21


trách nhiệm trước thảm cảnh của đất nước và nhân dân. Bên cạnh đó,
các nhà thơ văn yêu nước còn đả kích mạnh mẽ bọn quan lại cầu an,
tham sinh úy tử, bọn quan lại vô trách nhiệm, học đòi “tiếng Tây

dương”….
So với các giai đoạn trước thì nhân vật được nhìn dưới góc
độ mới. Tuy nhiên, phải đợi đến Phan Bội Châu và đặc biệt đến
Nguyễn Ái Quốc thì hình ảnh tàn bạo của bọn thực dân mới được vẽ
ra một cách sâu sắc và toàn diện nhất.
3.3. Các hình thức thể hiện hệ thống nhân vật yêu nước
Văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX khám phá nhân vật
không phải với những nét vẽ mang tính ước lệ, tượng trưng. Giai
đoạn này khám phá nhân vật mang tính chân dung ngoại hình nhưng
cụ thể, chân thực, nhấn mạnh những nét riêng, độc đáo đúng như con
người đang sống và phải tìm thấy. Ngoài ra, văn học còn miêu tả tên
tuổi lịch sử của nhân vật với tính chất điển hình cho một xã hội động.
Đó là bước tiến về cách thức miêu tả nhân vật của các tác
giả yêu nước và cũng là đặc trưng riêng của dòng văn học yêu nước
trong giai đoạn này.
Tiểu kết chương 3
Nửa sau thế kỉ XIX thơ văn yêu nước đã phát triển lên một
bước mới với những đặc điểm riêng phù hợp với nhu cầu mới của
thời đại.
Hệ thống nhân vật trong văn học yêu nước đã có ưu thế lớn
cả về số lượng và chất lượng so với các giai đoạn văn học trước. Nếu
như thơ trào phúng lấy tiếng cười trào lộng để xây dựng hệ thống

22


nhân vật thì văn học yêu nước lại khai thác nhân vật trong quan hệ
với đất nước, giống nòi. Đó là ranh giới để nhận định sự khác biệt
của hai dòng văn học trào phúng và yêu nước cùng thời.
KẾT LUẬN

Đánh dấu sự phát triển có tính chất thay đổi của thời đại hay
giai đoạn văn học thì hệ thống nhân vật mới và sự đổi thay trong loại
nhân vật cũ bao giờ cũng là những biểu hiện rõ nhất, những căn cứ
quan trọng nhất.
1. Đề tài chọn hệ thống nhân vật của hai dòng văn học tiêu
biểu trào phúng và yêu nước để có sự đối sánh giúp nhận ra sự khác
nhau về kiểu loại nhân vật. Có kiểu loại nhân vật xuất hiện trong
dòng văn học này nhưng lại không có trong dòng văn học kia và
ngược lại. Mặt khác, đặt trong sự so sánh về hệ thống nhân vật thì sự
định hình về khuynh hướng văn học sẽ càng rõ ràng hơn.
2. Giai đoạn văn học nửa cuối của thế kỉ XIX tuy ngắn
nhưng lại có dấu ấn đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn học của dân
tộc. So với các giai đoạn trước và sau nó, hệ thống nhân vật trong
văn học nửa cuối thế kỉ XIX mang những dấu ấn riêng, khác biệt cho
mỗi dòng văn học khác nhau.
3. Văn học trào phúng giai đoạn nửa cuối của thế kỉ XIX đã
“trở thành một dòng riêng” với một hệ thống nhân vật riêng: nhà nho
tự trào - thực dân Pháp - vua, giới quan trường - bà đầm, me Tây,
gái đĩ, gái góa…

23


×